4 chủ nghĩa thực dân đã thực hiện chính sách gì ở châu Phi

 1. Châu Phi

- Châu Phi là lục địa lớn thứ 2 trên thế giới, giàu tài nguyên khoáng sản, có nền văn hóa lâu đời.

- Từ giữa thế kỉ XIX, thực dân châu Âu bắt đầu xâm lược châu Phi.

- Vào những năm 70, 80 của thế kỉ XIX, sau khi hoàn thành kênh đào Xuy-ê, các nước tư bản phương Tây đua nhau xâu xé châu Phi.

+ Anh chiếm Nam Phi, Ai Cập, Đông Xu-đăng, một phần Đông Phi, Kê-ni-a, Xô-ma-li, Gam-bi-a.

+ Pháp chiếm Tây Phi, miền xích đạo châu Phi, Ma-đa-ga-xca, một phần Xô-ma-li, An-giê-ri, Tuy-ni-di, Xa-ha-ra.

+ Đức chiếm Ca-mơ-run, Tô-gô, Tây Nam Phi, Tan-da-ni-a,

+ Bỉ chiếm Công gô; Bồ Đào Nha chiếm Mô-dăm-bích, Ăng-gô-la và một phần Ghi-nê.

- Đến đầu thế kỉ XX, việc phân chia thụôc địa giữa các đế quốc ở châu Phi căn bản đã hoàn thành.

- Các cuộc đấu tranh tiêu biểu của nhân dân châu Phi

+ Từ 1830 – 1874, cuộc đấu tranh của Áp-đen Ca-đê ở An-giê-ri thu hút đông đảo lực lượng tham gia. Pháp mất nhiều thập niên mới chinh phục được nước này.

+ Từ 1879 – 1882, ở Ai Cập, Át-mét A-ra-bi lãnh đạo phong trào “Ai Cập trẻ”, đến năm 1882, các đế quốc mới ngăn chặn được phong trào.

+ Từ 1882 – 1898, Mu-ha-mét Át-mét đã lãnh đạo nhân dân Xu-Đăng chống thực dân Anh. Đến năm 1898, phong trào bị đàn áp đẫm máu nên  thất bại.

+ Năm 1889, nhân dân Ê-ti-ô-pi-a tiến hành kháng chiến chống thực dân I-ta-li-a. Ngày 1/3/1896, I-ta-li-a thất bại, Ê-ti-ô-pi-a giữ được độc lập.

+ Cùng với Ê-ti-ô-pi-a, Li-bê-ri-a là nước châu Phi giữ được độc lập ở cuối thế kỉ XIX đến XX.

 - Phong trào đấu tranh chống thực dân của nhân dân châu Phi đều thất bại (trừ Ê-ti-ô-pi-a). Nguyên nhân là do chênh lệch lực lượng, trình độ tổ chức thấp, bị thực dân đàn áp. Tuy thất bại nhưng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở châu Phi vẫn tiếp tục phát triển trong thế kỉ XX.

2. Khu vực Mĩ Latinh

- Đầu thế kỉ XIX, đa số các nước Mĩ Latinh đều là thuộc địa của Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha.

- Chủ nghĩa thực dân đã thiết lập chế độ thống trị phản động, dã man, tàn khốc, vì vậy phong trào giải phóng dân tộc diễn ra quyết liệt và nhiều nước giành được độc lập từ đầu thế kỉ XIX.

- Phong trào đấu tranh giành độc lập:

+ Cuối thế kỉ XVIII, ở Haiti bùng nổ cuộc đấu tranh (1791) chống Pháp dưới sự lãnh đạo của Tút-xanh Lu-véc-tuy-a. Đến năm 1803, cuộc đấu tranh kết thúc thắng lợi, Ha-i-ti thành nước cộng hòa da đen đầu tiên ở Nam Mĩ. Thắng này đã cổ vũ phong trào đấu tranh ở Mĩ Latinh.

+ 20 năm đầu thế kỉ XX, phong trào đấu tranh nổ ra sôi nổi, quyết liệt, các quốc gia độc lập ở Mĩ Latinh lần lượt hình thành như: Mê-hi-cô và Pê-ru (1821), Ác-hen-ti-na (1816), U-ru-goay (1828), Pa-ra-goay (1811), Bra-xin (1822), Co-lôm-bi-a và E-cu-a-đo (1830).

- Đầu thế kỉ XX, phong trào đấu tranh giành độc lập ở Mĩ Latinh diễn ra sôi nổi, quyết liệt. Kết quả hầu hết khu vực đã thoát khỏi ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha để trở thành quốc gia độc lập

- Sau khi giành độc lập, các nước Mĩ La-tinh đạt được những tiến bộ về kinh tế xã hội nhưng Mĩ lại âm mưu biến Mĩ Latinh thành “sân sau”.

+ Mĩ đã tuyên truyền học thuyết “Châu Mĩ của người châu Mĩ” (1823), thành lập “Liên minh dân tộc các nước cộng hòa châu Mĩ” (Liên Mỹ)dưới sự chỉ huy của Oa-sinh-tơn.

+ Năm 1898,  Mĩ hất cẳng Tây Ban Nha (người châu Âu) khỏi châu Mĩ.

+ Đầu thế kỉ XX, dùng chính sách “Cái gậy lớn” và “Ngoại giao đô la” để khống chế khu vực này và Mĩ Latinh trở thành thuộc địa kiểu mới của Mĩ.

Page 2

SureLRN

II. Các nước đế quốc xâm lược và xâu xé Châu Phi

Người Bồ Đào Nha là những người châu Âu đầu tiên đặt căn cứ ở châu Phi. Từ cuối thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVI, Bồ Đào Nha đã thăm dò bờ biển châu Phi từ Gibranta cho đến miền Bắc Môdămbích, và thành lập ở Tây Phi thuộc địa Ghinê và Angôla, ở Đông Phi thuộc địa Môdămbích.

Nửa cuối thế kỷ XVII Hà Lan chiếm phần cực Nam châu Phi. Nhiều thế hệ người gốc Hà Lan sinh sống ở vùng này được gọi là người Bôơ. Đầu thế kỷ XIX, thực dân Anh xâm chiếm Cáp, gây chiến với người Bôơ, hòng xâm chiếm hai quốc gia của họ là Tơrăngxvan và nước Cộng hòa Orănggiơ. Anh còn mở rộng thuộc địa Cáp của mình về phía Bắc. Năm 1843 Anh xâm chiếm Natan và đánh đuổi người Bôơ.

Mục tiêu xâm chiếm thuộc địa của thực dân Pháp ở châu Phi trước hết là vùng bờ biển Bắc Phi. Sau cuộc chiến tranh lâu dài chống lại người Arập, thực dân Pháp chiếm toàn bộ Angiêri vào giữa thế kỷ thứ XIX.

Đầu những năm 20 của thế kỷ XIX, Mỹ mua một vùng đất ở bờ biển phía Tây châu Phi làm xuất phát điểm để mở rộng việc xâm chiếm châu Phi. Mỹ tuyên bố trao trả độc lập cho cư dân vùng đất này, đặt tên là Libêria vào năm 1847, nhưng thực tế là nước phụ thuộc đế quốc Mỹ.

Căn cứ quân sự của thực dân Tây Ban Nha đặt tại Ghinê và Riôdơ Orô, Pháp đặt tại Xênêgan và Gabông, còn Anh thì ở Siêra Lêôna, Gambia, Bờ biển Vàng và Lagốt.

Sau những phát kiến địa lý, thực dân châu Âu xâm nhập và phân chia châu Phi, ăn cướp và xâm chiếm thuộc địa. Ban đầu, hình thức phổ biến mà bọn thực dân dùng vào việc xâm nhập châu Phi là trao đổi hàng hóa công nghiệp để lấy nguyên liệu rẻ mạt. Từ thế kỷ XV, nghề buôn người xuất hiện, dần dần phát triển với một quy mô lớn. Rất nhiếu người da đen bị đưa từ châu Phi đến châu Mỹ để làm nô lệ. Nghề buôn nô lệ da đen phải coi là một vết nhơ trong lịch sử phát triển của nhân loại. Con số nô lệ da đen đến Mỹ la-tinh trong khoảng thời gian từ giữa thế kỷ thứ XV đến đầu thế kỷ XIX đã lên tới 60 triệu. Trong cuộc hành trình đầy gian khổ qua Đại Tây Dương, những người nô lệ da đen đã bị trói chân tay và nhốt dưới hẩm tàu không khác gì súc vật. Hàng triệu người bị chết dọc đường, xác bị quẳng xuống biển. Những người còn lại phải làm nhiều công việc khổ sai cực nhọc, bị chà đạp dưới báng súng, và roi vọt của bọn chủ mỏ, chủ đồn điền và tay sai của chúng; bị giày vò vì đói rét, bệnh tật và tai nạn lao động.

Thực dân châu Âu đã vơ vét tài nguyên thiên nhiên phong phú ở châu Phi, cướp ruộng đất, sử dụng nhân công rẻ mạt, đuổi dân, giết hại hầu như toàn bộ dân cư, phá hoại các di sản cổ truyền và nền văn hóa dân tộc, bóc lột đến tận xương tủy, cướp hết nguồn lợi, đàn áp vô cùng dã man tàn ác nhân dân châu Phi.

Vào giữa những năm 70 của thế kỷ XIX, châu Phi bị chiếm 10,8% đất đai, nhưng đến đầu thế kỷ XX châu Phi đã bị các đế quốc thực dân, chủ yếu là Anh, Pháp, Đức chiếm 90,4% đất đai. Ý, Bồ Đào Nha, Bỉ cũng có thuộc địa ở châu Phi. Việc phân chia châu Phi trở thành một “chính sách lớn” của các chính phủ châu Âu.

2. Thực dân Anh xâm chiếm Ai Cập

Giữa những năm 70, Ai Cập bị lôi cuốn vào kinh tế tư bản thế giới. Sự đầu hàng của Môhamét Ali năm 1840 và sự mở rộng buôn bán của Anh và Pháp ở Ai Cập mở đầu cho việc biến Ai Cập thành nửa thuộc địa của bọn tài chính Anh và Pháp. Hàng hóa nước ngoài nhập vào Ai Cập không còn bị cản trở nữa, Ai Cập bắt đầu trồng các loại cây xuất khẩu, trước hết là bông, xây dựng các nhà máy để sản xuất hàng xuất khẩu bằng sản phẩm nông nghiệp, xây dựng hải cảng và đường sá. Những giai cấp mới - tư sản và vô sản - xuất hiện. Nhưng sự phát triển tư bản chủ nghĩa ở đây bị quan hệ phong kiến trong nước và tư bản nước ngoài cản trở. Chính phủ Ai Cập buộc phải vay tiền của nước ngoài, nhất là vay để đầu tư vào việc xây dựng kênh đào Xuyê cũng như hải cảng và đường sá. Vào năm 1863 chính phủ Ai Cập đã vay 16 triệu đồng bảng Anh.

Sau năm 1869, tức là sau khi kênh đào Xuyê khánh thành thì giữa các nước tư bản châu Âu, nhất là giữa đế quốc thực dân Anh và Pháp càng tranh giành nhau gay gắt trong việc xâm chiếm Ai Cập. Việc chiếm Ai Cập có một tầm quan trọng quyết định đối với quyền khống chế kênh đào Xuyê. Anh chạm trán với Pháp, vì cả hai nước đều muốn gây ảnh hưởng mạnh mẽ ở đây. Quan hệ Anh-Pháp vì thế trở nên gay gắt và đặc biệt căng thẳng vào cuối thế kỷ XIX.

Lợi dụng tình thế khó khăn về kinh tế của Ai Cập, Anh buộc Ai Cập bán cổ phần tham gia vào công ty kênh đào Xuyê cho Anh và đòi đặt quyền kiểm soát tài chính. Tháng 9 năm 1882, Anh chiếm Cairô và xâm chiếm toàn bộ Ai Cập. Pháp cũng thèm muốn Ai Cập nhưng lại phải tập trung lực lượng ở châu Âu do việc thành lập Liên minh tay ba Anh-Pháp-Nga nên đành để mất mồi ngon đó.

3. Sự bành trướng thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi

Bắc Phi không chỉ là đối tượng đầu tiên về sự bành trướng thuộc địa của Pháp mà là cửa ngõ để Pháp làm bàn đạp bành trướng thuộc địa xuống phía Nam. Từ năm 1830 Pháp đã xâm chiếm Angiêri. Phải 20 năm sau, qua cuộc chiến tranh đẫm máu chống lại nhân dân Angiêri, Pháp mới đặt được ách đô hộ trên đất nước này. Chiếm được Angiêri, Pháp tiếp tục xâm lược Tuynidi sau khi dập tắt cuộc chiến đấu kiên quyết của nhân dân địa phương.

Cuối thế kỷ XIX ở Bắc Phi chỉ còn lại Marốc là giữ được độc lập. Nguyên nhân chủ yếu là vì ở đây có sự cạnh tranh dữ dội giữa các cường quốc châu Âu. Marốc là một địa điểm chiến lược quan trọng và rất giàu về nguyên liệu. Cuộc khủng hoảng lần thứ nhất về vấn đề Marốc đã xảy ra vào năm 1905-1906. Lợi dụng lúc nước Nga tạm thời bị suy yếu vì chiến tranh với Nhật, không thể giúp Pháp (theo tinh thần hiệp ước Nga-Pháp), chính phủ Đức tuyên bố không công nhận hiệp nghị Anh-Pháp về vấn đề Marốc và đòi triệu tập một hội nghị quốc tế để xét lại hiệp nghị đó. Đức còn dọa sẽ gây chiến tranh với Pháp. Đầu năm 1911 lại nổ ra một cuộc khủng hoảng mới về vấn đề Marốc. Những bộ lạc ở Marốc nổi dậy chống lại quốc vương Marốc và chống lại cả người Pháp. Pháp tăng cường việc chiếm đóng Marốc bằng quân sự, mượn cớ dẹp những cuộc khởi nghĩa để mang quân đội sang chiếm đóng Phêdơ, thủ đô của Marốc. Đức cũng muốn chiếm một phần Marốc, một lần nữa đe dọa gây chiến tranh với Pháp và cho pháo hạm đậu trong cửa biển Agađin. Nhưng đế quốc Anh can thiệp vào cuộc tranh chấp Pháp-Đức và tuyên bố vấn đề Marốc cũng liên quan tới quyền lợi của mình, nên Anh không thể giữ thái độ dửng dưng được. Anh ủng hộ Pháp vì không muốn Đức chiếm được một căn cứ hải quân ở Đại Tây Dương. Chính phủ Anh tuyên bố nếu Pháp bị tiến công thì Anh sẽ hết lòng giúp đỡ Pháp về mặt quân sự. Đế quốc Đức không dám đẩy việc đó đến chiến tranh nên phải nhượng bộ. Do đó, mùa thu năm 1911 một hiệp ước được ký kết giữa Pháp và Đức. Đức công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Marốc và ngược lại Pháp cho Đức một bộ phận của xứ Cônggô thuộc Pháp ở cạnh Camơrun thuộc Đức. Nhưng việc giải quyết cuộc khủng hoảng lần thứ hai về vấn đề Marổc chỉ làm cho quan hệ giữa các đế quốc Đức, Anh và Pháp thêm nghiêm trọng.

4. Thực dân Anh xâm chiếm Nam Phi

Bọn thực dân châu Âu vào Nam Phi đã tiêu diệt một phần dân tộc Khoi Khoi và San, số còn sóng sót thì bị dồn vào sa mạc. Tình hình ở Nam Phi phức tạp hơn các miền khác của Phi châu, vì bên cạnh mâu thuẫn chính giữa bọn thực dân xâm lược và nhân dân bản xứ, còn có mâu thuẫn giữa bọn thực dân Anh và người Bôơ (người Bôơ là con cháu người Hà Lan sinh cơ lập nghiệp từ lâu ở Nam Phi, không còn liên hệ với Hà Lan. Họ chủ yếu là nông dân).

Vào những năm 70 của thế kỷ XIX, Anh chiếm đóng Cáp và Natan. Sự chiếm đóng của quân Anh ở đây như một vành móng sát dài dọc bờ biển ngăn cản người Bôơ lên phía đông. Mùa hạ 1867, người ta tìm thấy kim cương lần đầu tiên ở Orănggiơ thuộc Nam Phi. Trước đó nơi đây không có người ở, là vùng sa mạc hoang vu, nay thành phố mọc lên và dân cư đông đúc. Để khai thác kim cương, các công ty cổ phần được thành lập và sử dụng người dân bản xứ làm nhân công rẻ mạt. Sau cuộc đấu tranh dữ dội giữa các công ty cổ phần để giành quyền khai thác kim cương, công ty Xêxin Rôdơ (Cecil Rhodes) kiểm soát việc này. Nhưng việc xâm chiếm thuộc địa của thực dân Anh ở Nam Phi vấp phải những cuộc nổi dậy của người Dulu và Bôơ. Đầu năm 1883, Dulu trở thành đất bảo hộ của Anh và đến năm 1897, Dulu hợp nhất với Nalan. Sau đó Anh tiếp tục bành trướng thuộc địa của mình về phía Bắc. Từ năm 1884 đến 1886, người ta tìm thấy mỏ vàng ở Tơrăngxvan. Công ty Xêxin Rôdơ lại nhanh tay dùng thủ đoạn mua của các chủ trại phạm vi đất đai có vàng và bỏ vốn vào việc khai thác vàng. Đế quốc thực dân Anh đã thực hiện chương trình xâm lược, chiếm thuộc địa của Rôdơ từ Cairô kéo dài đến Cáp. Ngoài ra, Anh còn ký kết hiệp ước với các thủ lĩnh người địa phương để được toàn quyền khai thác tài nguyên không hạn chế.

Nhưng trở ngại lớn đối với chính sách thuộc địa của đế quốc thực dân Anh ở Nam Phi là sự chống lại của hai nước cộng hòa Tơrăngxvan và Orănggiơ do người Bôơ thành lập.

5. Các nước đế quốc kết thúc việc phân chia châu Phi

Đến năm 1900 việc phân chia châu Phi giữa các nước đế quốc kết thúc. Nếu chương trình của đế quốc thực dân Anh đã thực hiện từ Cairô đến Cáp thì thực dân Pháp cũng thực hiện kế hoạch xâm lược ở châu Phi từ Đại Tây Dương đến Ấn Độ Dương. Pháp xâm chiếm phần lớn đất đai ở Tây Phi là Xênêgan, Sahara, Tây Xuđan. Đất đai Pháp chiếm được rộng lớn nhưng phần nhiều là sa mạc, không phì nhiêu. Đế quốc Đức đi xâm chiếm thuộc địa muộn hơn so với các đế quốc đàn anh nên bằng lòng với phần nhỏ ở Tây Phi, nhưng về kinh tế mà xét thì có giá trị lớn so với các thuộc địa khác. Đức chiếm được Tôgô và Camơrun. Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Pháp thì chia nhau lãnh thổ Ghinê, thành Ghinê thuộc Pháp, Ghinê xích đạo thuộc Tây Ban Nha và Ghinê Bitxao thuộc Bồ Đào Nha. Còn Anh thì thành lập nền bảo hộ ở Nigiêria và Bờ biển Vàng. Bỉ bành trướng thuộc địa ở Trung Phi, chủ yếu là Cônggô. Vì sự tranh chấp giữa các nước đế quốc nên năm 1884, một hội nghị quốc tế được triệu tập ở Béclin gồm 14 nước có liên quan đến châu Phi tham gia. Hội nghị thỏa thuận việc tự do buôn bán ở Cônggô và cho tàu bè của các nước tự do qua lại trên các con sông của châu Phi. Mười năm sau, Cônggô mới bị Bỉ xâm chiếm, Bỉ gặp phải sự phản kháng của tất cả các dân tộc ở Cônggô, nhất là miền Nam Cônggô, nhưng những cuộc nổi dậy đó đều bị đàn áp. Pháp cũng chiếm được một phần lưu vực sông Cônggô - dọc hữu ngạn sông đó và chi nhánh của nó là sông Ubanga. Vì vậy, trên bản đồ châu Phi có Cônggô thuộc Pháp và Cônggô thuộc Bỉ (nay là Daia).

Vào những năm 70, 80 Anh có điều kiện thuận lợi hơn trong việc xâm chiếm Đông bắc Phi châu, vì trước khi chiếm Ai Cập, Anh đã đặt cơ sở của mình ở Đông Xuđan. Đế quốc Pháp và Ý cũng muốn xâm chiếm thuộc địa ở Đông Phi. Anh chiếm được bờ biển thuộc vịnh Ađen, một phần đất của Xômali, Ý đặt nền bảo hộ của mình ở Xômali và mưu đồ xâm chiếm Êtiôpi. Nhưng cuộc nổi dậy ở Xuđan năm 1885 đã làm ngừng việc phân chia Đông Phi giữa các nước đế quốc. Phải 11 năm sau, tức là năm 1896, Anh mới dám trở lại xâm lược Đông Xuđan và cuộc chiến tranh ăn cướp đó phải kéo dài 2 năm mới bình định được, nhưng quân Anh và Pháp chạm chán nhau ở vùng Phasôđa. Chính phủ Pháp đành nhượng bộ Anh và hạ lệnh cho quân Pháp rút khỏi Phasôđa. Như vậy Pháp đành chịu không dám tranh chấp với Anh trong việc xâm chiếm vùng thung lũng sông Nin tức là Ai Cập và miền Đông Xuđan.

Tháng 8 năm 1885, Đức xâm chiếm một số vùng và thành lập miền Đông Phi thuộc Đức.

Năm 1896, Ý mưu toan xâm lược Êtiôpi, nhưng bị nhân dân Êtiôpi đánh bại và quân đội Ý phải chạy dài.

Năm 1889 Anh chiếm thêm Buganđa (một phần đất đai của Uganda) và cùng năm đó chiếm luôn Rôđêdi.

Biên giới xâm chiếm đất đai giữa Anh và Đức ở miền nhiệt đới Đông Phi đã được giải quyết năm 1890 với sự ký kết Hiệp ước Hengôlan-Dandiba, trong đó Đức chỉ nhận được đảo Hengôlan. Còn Anh thì chiếm Dandiba, Vitu, Pemba, Kênia, Uganda, Nasalan, một số lãnh thổ ở Tây Phi và biên giới giữa Bờ biển Vàng và Tôgô.

Việc phân chia Đông Phi kết thúc vào năm 1900. Êtiôpi là nước ở Đông Phi giữ được nền độc lập của mình.

Miền giàu có nhất của Đông Phi do Anh chiếm. Các thuộc địa của Anh kéo dài từ Hồng Hải đến sông Nin. Kế hoạch xâm chiếm thuộc địa của Rôdơ hầu như hoàn thành. Đức thành lập Đông Phi thuộc Đức và Ruanđa, Urunđi. Bồ Đào Nha chiếm Môdămbích.

6. Đế quốc Pháp thôn tính Mađagaxca

Từ những năm 30 của thế kỷ XIX, đế quốc Pháp đã ký kết một số hiệp ước “bảo hộ” với các thủ lĩnh ở đảo Mađagaxca và chiếm đóng một số vùng ở bờ biển phía tây và Sakalava. Trong những năm sau, Pháp tìm cách mở rộng ảnh hưởng ra toàn đảo. Năm 1882 Pháp đòi Mađagaxca phải công nhận quyền bảo hộ của chúng và bắt đầu gây chiến tranh xâm lược bằng cách đem tuần dương hạm bao vây đảo, đổ bộ vào các hải cảng quan trọng. Nhân dân Mađagaxca chiến đấu anh dũng chống bọn thực dân Pháp xâm lược, nhưng vì tương quan lực lượng quá chênh lệch, nên Mađagaxca phải ký hiệp ước nhận hầu hết các điều kiện của Pháp. Năm 1891, Pháp lại buộc Mađagaxca ký một hiệp ước đã soạn sẵn, trong đó Pháp yêu cầu kiểm soát chính sách đối nội, đối ngoại của Mađagaxca và có quyền đóng quân trên đảo nhiều ít tùy theo yêu cầu của Pháp. Nhân dân Mađagaxca phản đối kịch liệt, tổ chức chiến đấu chống lại, nhưng thất bại. Tháng 10-1895, Mađagaxca phải ký Hiệp ước công nhận nền thống trị của Pháp. Mùa hè năm 1896, Quốc hội Pháp phê chuẩn hiệp ước đó, phế truất nữ hoàng, chia Mađagaxca thành các tỉnh quân sự và thực hiện chế độ chuyên chế thực dân đối với nhân dân bản xứ. Tuy vậy, những cuộc nổi dậy ở nhiều miền trên đảo vẫn tiếp diễn cho đến năm 1904.

Như vậy, đến cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, châu Phi đã bị các đế quốc phân chia như sau: Anh xâm chiếm Ai Cập, Đông Xuđan, Tây Nigiêria, Bờ biển Vàng, Gambia, Siera Lêôna, thành lập Đông Phi thuộc Anh, chiếm Nam Rôđêdi, Cáp, Natan và Xômali thuộc Anh.

Đế quốc Pháp thành lập Tây Phi thuộc Pháp, Angiêri, Tuynidi, Sahara, Tây Xuđan, Sênêgan, Cônggô thuộc Pháp, Mađagaxca, một phần Xômali.

Đế quốc Đức thành lập Tây Nam Phi thuộc Đức và Đông Phi thuộc Đức, chiếm Camơrun và Tôgô.

Bồ Đào nha giành được Môdămbích, Angôla, Ghinê thuộc Bồ Đào Nha.

Bỉ thì xâm chiếm phần lớn đất đai Cônggô. Tây Ban Nha thì có Ghinê thuộc Tây Ban Nha.

Tác phẩm, tác giả, nguồn

  • Tác phẩm: Lịch sử thế giới cận đại
  • Tác giả: Vũ Dương Ninh - Nguyễn Văn Hồng
  • Nhà xuất bản Giáo dục
  • Ebook:TVE-4U.org

Video liên quan

Chủ đề