Sau 10 năm với những bước đi chậm, chắc cho những hecta khoai tây đầu tiên tại Lâm Đồng, PepsiCo mở rộng dự án trồng ra các tỉnh Tây nguyên và một số tỉnh phía Bắc. Show
Chiến lược đảm bảo “an ninh chuỗi cung ứng tại chỗ”“Đại dịch Covid-19 đang cho thấy việc gián đoạn cho cả sản xuất và phân phối thực phẩm dẫn đến những tắc nghẽn trên toàn chuỗi cung ứng thực phẩm”. Đây là nhận định trong tuyên bố chung của Hội nghị toàn thể Chương trình Hỗ trợ quốc tế (ISG) năm 2020 được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức ngày 11.12.2020 tại Hà Nội. Chính vì vậy “đảm bảo an ninh chuỗi cung ứng tại chỗ” cùng với “phát triển nông nghiệp bền vững” là hai trong các trọng tâm chiến lược khi PepsiCo chính thức tiến hành kinh doanh mảng thực phẩm tại thị trường Việt Nam từ năm 2006. Năm 2008, PepsiCo Việt Nam đã quyết tâm phát triển vùng nguyên liệu nhằm cung cấp nguồn cung khoai tây cho nhà máy sản xuất trên cả nước. Đà Lạt - Lâm Đồng đã được chọn với vùng đất bazan màu mỡ, khí hậu thích hợp. Những ruộng khoai tây thí điểm với vô vàn khó khăn về kỹ thuật, từ việc đưa các giống khoai được phát triển tại các phòng thí nghiệm tại Mỹ sang thích nghi với khí hậu ôn đới, tới mô hình đối tác cùng đầu tư với các nông hộ lần đầu tiên được áp dụng; PepsiCo đã chuyển từ việc phải nhập khoai làm nguyên liệu sang có thể tự cung ứng đến 75% từ canh tác trong nước. Đây cũng là bài toán mà công ty kiên trì giải hơn 10 năm qua. Hàng đầu trong việc mở rộng khu vực trồng khoai tây sản xuất công nghiệpNăm 2020 có thể là cột mốc quan trọng đối với PepsiCo khi quyết định mở rộng chương trình trồng khoai tây sang các tỉnh Đắk Lắk và Gia Lai với khí hậu và thổ nhưỡng phù hợp với giống cây trồng này. “Qua khảo sát, vùng này có thể cung cấp trên 200.000 tấn/năm”, ông Nguyễn Phúc Trai, Giám đốc Nông học PepsiCo Việt Nam cho biết. Dự kiến trong giai đoạn một của chương trình mở rộng sẽ cung cấp sản lượng dự kiến từ 5.000 - 6.000 tấn. Và đến năm 2023 sẽ mở sẽ tăng sản lượng gấp đôi tại các khu vực này. Ngoài việc ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm đầu ra, giúp nông dân yên tâm khi tham gia chương trình, PepsiCo còn hỗ trợ về kỹ thuật và cùng đầu tư ứng giống, phân bón với chi phí ước tính khoảng 40% cho một hecta, nông hộ đầu tư 60% cho việc thuê đất, nông dược, nhân công, điện nước. Lợi nhuận ròng mùa khô đạt khoảng 95 triệu - 100 triệu đồng. Với sản lượng bình quân 26 tấn trên hecta, lợi nhuận sau khi trừ chi phí sản xuất dự kiến từ 90 triệu đến 100 triệu một hecta cho 4 tháng canh tác. Có thể nói đây là một trong những cây trồng cho phép dòng tiền nhanh với tỷ suất lợi nhuận cao so với các giống cây trồng khác. \n Chia sẻ về quyết tâm theo đuổi việc phát triển nguồn nguyên liệu ổn định và lâu dài, ông Nguyễn Phúc Trai, Giám đốc Nông học PepsiCo Việt Nam, người gắn bó với các chương trình khoai tây của công ty từ những ngày đầu tiên cho biết: “Là thành viên của Đối tác Nông nghiệp Phát triển bền vững Việt Nam (PSAV) của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chiến lược phát triển chung của PepsiCo là phát triển nông nghiệp bền vững, gắn với việc hợp tác với người nông dân, các đối tác để tạo ra chuỗi giá trị cho các mặt hàng nông nghiệp, qua đó không chỉ đảm bảo nguồn cung cấp nguyên liệu tại chỗ cho công ty mà còn đảm bảo về sinh kế lâu dài cho cho người nông dân trên chính mảnh đất quê hương mình. Việc chúng tôi đồng hành cùng nông dân trong suốt hơn 12 năm qua, cùng họ canh tác, phát triển vùng nguyên liệu tại Đà Lạt Lâm Đồng và hiện tại là Đắk Lắk, Gia Lai chính là câu trả lời mạnh mẽ nhất cho quyết tâm ấy”. Phát triển nội địa để đạt chuẩn quốc tếViệc nghiên cứu các giống khoai tây phù hợp với khí hậu Việt Nam luôn là một bài toán khó nhưng được ưu tiên hàng đầu của PepsiCo. Bắt đầu với giống Alantic cho những vụ mùa đầu tiên, PepsiCo liên tiếp đầu tư nghiên cứu hai giống khoai tây FL2215 và FL2027, đạt năng suất cao lên tới 56,7 tấn/ha trong điều kiện canh tác tại vùng nhiệt đới, không thuận lợi cho trồng khoai tây. Riêng giống FL2215 có khả năng chống chịu tốt trong mùa mưa tại các tỉnh Tây Nguyên, giải quyết bài toán nguyên liệu từ gốc rễ cho chính mình và người nông dân. Công trình của PepsiCo đã được Bộ NN-PTNT công nhận để đưa vào sản xuất. Tất cả những cố gắng và nỗ lực không ngừng của PepsiCo nhằm mang đến những củ khoai tây chất lượng ổn định nhất, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế của tập đoàn tạo ra các sản phẩm Snack Khoai Tây Lay’s đang được ưa chuộng và tin dùng tại thị trường Việt Nam. Khoai tây, danh pháp hai phần: Solanum tuberosum, thuộc họ Cà (Solanaceae), tên tiếng Anh là Potato. Khoai tây là loài cây nông nghiệp ngắn ngày, trồng lấy củ chứa tinh bột. Chúng là loại cây trồng lấy củ rộng rãi nhất thế giới và là loại cây trồng phổ biến thứ tư về mặt sản lượng tươi - xếp sau lúa, lúa mì và ngô. Lưu trữ khoai tây dài ngày đòi hỏi bảo quản trong điều kiện lạnh. Loài khoai tây hoang dã mọc trên khắp châu Mỹ, từ Hoa Kỳ cho tới miền nam Chile. Người ta từng cho rằng khoai tây đã được thuần hóa độc lập tại nhiều địa điểm, nhưng sau đó thử nghiệm di truyền học trên nhiều giống cây trồng và các loại khoai tây hoang dã đã chứng tỏ có một nguồn gốc duy nhất của khoai tây là ở khu vực miền nam Peru và cực tây bắc Bolivia ngày nay. Nơi con người đã thuần hóa được khoai tây từ 7 đến 10 nghìn năm trước. Sau nhiều thế kỷ chọn lọc và nhân giống, hiện nay đã có hơn một ngàn loại khoai tây khác nhau. Hơn 99% các loài khoai tây được trồng hiện nay trên toàn cầu có nguồn gốc từ nhiều giống khác nhau ở vùng đất thấp trung-nam Chile, các giống này đã được di dời từ các cao nguyên Andes.
Sau cuộc chinh phục Đế chế Inca của Tây Ban Nha, người Tây Ban Nha giới thiệu khoai tây ra châu Âu trong nửa cuối thế kỷ 16. Sau đó nó được vận tải chủ yếu bằng đường biển ra các vùng lãnh thổ và hải cảng trên toàn thế giới. Khoai tây bị người nông dân châu Âu chậm chấp nhận do họ không tin tưởng. Để rồi sau đó nó trở thành một cây lương thực quan trọng và là cây trồng đóng vai trò làm bùng nổ dân số châu lục này trong thế kỷ 19. Tuy nhiên, ban đầu khoai tây thiếu đa dạng di truyền, do có rất hạn chế số lượng giống cây được giới thiệu, nó còn là cây trồng dễ bị bệnh. Năm 1845, một căn bệnh thực vật gọi là bệnh rụng lá gây ra bởi nấm oomycete infestans Phytophthora, lây lan nhanh chóng thông qua các cộng đồng nghèo ở miền tây Ailen, dẫn đến mùa màng thất bát và xảy ra nạn đói. Hàng ngàn giống cây vẫ còn tồn tại ở vùng Andes, nơi mà 100 giống khoai tây khác nhau có thể tìm thấy, nhiều giống được lưu trồng bởi những hộ nông dân. Cây khoai tây Chế độ ăn uống hàng năm của một công dân tính trung bình toàn cầu trong thập kỷ đầu thế kỷ 21 bao gồm khoảng 33 kg khoai tây. Nó vẫn là cây trồng chủ lực của châu Âu (đặc biệt là phía đông và trung tâm châu Âu), nơi sản xuất khoai tây bình quân đầu người lớn nhất, nhưng việc mở rộng trồng trọt khoai tây diễn ra mạnh mẽ nhất tại Nam Á và Đông Á trong vài thập kỷ qua. Trung Quốc hiện là nước sản xuất khoai tây lớn nhất Thế giới, gần 1/3 sản lượng khoai tây Thế giới được thu hoạch ở Trung Quốc và Ấn Độ.
Từ tiếng Anh potato có nguồn gốc từ tiếng Tây Ban Nha patata(tên này vẫn được sử dụng tại Tây Ban Nha). Học viện Hoàng gia Tây Ban Nha cho rằng từ khoai tây trong tiếng Tây Ban Nha là hợp nhất của Taino batata (khoai lang) và Quechua papa (khoai tây). Khoai tây là tên lấy theo tên của một loại khoai lang, mặc dù không có liên hệ giữa hai loài cây này. Trong nhiều biên niên sử không có sự phân biệt giữa hai loài. Thế kỷ 16, nhà thực vật học John Gerard sử dụng tên gọi khoai tây hoang hay khoai tây Virginia cho loài này và gọi khoai lang là khoai tây thông thường.
Đặc điểm
Lịch sử
Khi đã được phổ biến ở châu Âu, khoai tây đã sớm trở thành một thực phẩm và cây trồng chủ yếu ở nhiều nới khác trên thế giới. Việc thiếu sự đa dạng về di truyền do thực tế là có ít loài khác nhau được du nhập ban đầu đã khiến cho khoai tây vào thời gian này dễ bị bệnh. Năm 1845, một loại bệnh nấm, Phytophthora infestans, cũng gọi là bệnh tàn rụi muộn đã lan nhanh chóng khắp các cộng đồng nghèo hơn ở tây Ireland, dẫn đến Nạn đói lớn Ireland. Khoai tây là loài quan trọng của 1 số nước châu Âu thời bấy giờ như Idaho, Maine, Bắc Dakota, Prince Edward Island, Ireland, Jersey và Nga vì vai trò rộng lớn của nó trong nền kinh tế nông nghiệp và lịch sử của các khu vực này. Nhưng trong các thập kỷ cuối của thế kỷ 20, việc mở rộng diện tích trồng trọt khoai tây lớn nhất lại là ở châu Á, nơi có khoảng 8% số lượng khoai tây trên thế giới được trồng. Kể từ khi Liên Xô bị giải tán, Trung Quốc đã trở thành quốc gia sản xuất khoai tây lớn nhất thế giới, tiếp theo là Ấn Độ.
Di truyền học Các loài chính phát triển trên Thế giới là Solanum tuberosum (thể tứ bội với 48 nhiễm sắc thể), các giống hiện đại của loài này được trồng rộng rãi nhất. Ngoài ra còn có bốn loài lưỡng bội (24 nhiễm sắc thể) là S.stenotomum, S.phureja, S.goniocalyx và S.ajanhuiri. Có hai loài tam bội (36 nhiễm sắc thể) là S.chaucha và S.juzwpczukii. Có một loài trồng ngũ bội (với 60 NST): S. curtilobum. Có hai phân loài chính của Solanum tuberosum: andigena, hay giống Andes; và tuberosum, hay giống Chile. Khoai tây Andes thích nghi với các điều kiện ban ngày ngắn, là bản địa của ở các vùng núi xích đạo và nhiệt đới nơi phát sinh nó; tuy nhiên, khoai tây Chile là bản địa của vùng Chiloé Archipelago thích nghi với các điều kiện ngày dài ở vùng có độ cao lớn của miền nam Chile. Trung tâm khoai tây quốc tế, có trụ sở ở Lima, Peru, nắm giữ một bộ sưu tập tiêu chuẩn ISO giống khoai tây. Trồng khoai tây mang lại hiệu quả cao với ít công chăm sóc, nó dễ dàng thích nghi với nhiều loại khí hậu, miễn là khí hậu mát mẻ và ẩm ướt đủ cho rễ cây hút nước từ đất để tạo thành tinh bột trong củ. Củ khoai tây cần điều kiện bảo quản cao, nó dễ bị nấm mốc khiến thối củ. Ngược lại, hạt khoai tây có thể lưu trữ trong nhiều năm mà không bị hỏng.
Vai trò trong việc cung cấp lương thực Thế giới Trong năm 2008, một số tổ chức quốc tế nêu bật vai trò của khoai tây đối với lương thực thế giới. Họ trích dẫn tiềm năng của khoai tây là một loại cây trồng ít tốn kém công chăm sóc và thích hợp với nhiều loại khí hậu và địa phương. Do củ khoai tây nhanh hỏng, chỉ 5% sản lượng được giao dịch quốc tế, đóng góp ít vào việc ổn định thị trường lương thực trong cuộc khủng hoảng lương thực năm 2007-2008. Liên Hiệp Quốc chính thức tuyên bố năm 2008 là năm quốc tế về khoai tây để nâng cao hình ảnh của khoai tây ở các quốc gia đang phát triển, gọi nó là cây lương thực kho báu.
Dinh dưỡng
Khoai tây chứa khoảng 26 g cacbohydrat trong một củ trung bình. Các hình thức chủ yếu của cacbonhydrat này là tinh bột. Một phần nhỏ trong đó có khả năng chống tiêu hoá từ enzym trong dạ dày và ruột non. Tinh bột khoáng này được coi là có hiệu ứng sinh lý và lợi ích cho sức khỏe giống chất xơ: là chống ung thư ruột kết, tăng khả năng nạp glucose, giảm nồng độ cholesterol và chất béo trung tính trong huyết tương, tăng cảm giác no, thậm chí nó có thể làm giảm chất béo tích trữ trong cơ thể. Cách chế biến khoai tây có thể làm thay đổi đáng kể hàm lượng dinh dưỡng. Ví dụ khoai tây nấu chín chứa 7% tinh bột khoáng, khi làm nguội đi thì nó tăng lên 13%. Khoai tây tươi còn vỏ
Khoai tây được xếp vào loại thức ăn có chỉ số Glycemic(GI) cao, do đó nó thường bị loại trừ ra khỏi chế độ ăn của những người cố gắng theo chế độ ăn uống với GI thấp. Trong thực tế chỉ số GI tùy thuộc mỗi loại khoai tây khác nhau là khác nhau. Do chứa nhiều cacbonhydrat, khoai tây được cho là khiến cho người bị béo phì dư thừa nhiều hơn chất béo. Tuy nhiên, nghiên cứu của Đại học California, Davis và Trung tâm Quốc gia về An toàn Thực phẩm và Công nghệ, Viện Công nghệ Illinois chứng minh rằng mọi người có thể đưa khoai tây vào chế độ ăn uống của họ và vẫn giảm cân.
So với các loại thực phẩm thiết yếu khác
Độc tính Các chất thuốc bảo vệ thực vật, tích tụ ở phần lá, mầm và quả khoai tây. Nấu ăn trên 170 °C làm giảm chất độc. Nồng độ của glycoalkaloid trong khoai tây hoang dã đủ để gây hại cho cơ thể người, nó gây ra nhức đầu, tiêu chảy, chuột rút và nghiêm trọng hơn khiến người ăn hôn mê dẫn tới tử vong. Tuy vậy ngộ đôc do khoai tây rất ít xảy ra. Ánh sáng làm diệp lục tổng hợp clorophyl, đó là nguyên nhân khiến một số khu vực của củ có thể độc. Một số giống khoai tây chứa nhiều chất độc glycoalkaloid hơn các giống khác, các nhà lai tạo giống thông qua thử nghiệm sẽ loại bỏ các cây có tính độc. Họ cố gắng giữ mức solanin dưới 200 mg/kg. Tuy nhiên, khi các củ giống thương mại có màu xanh, hàm lượng chất solanin có thể lên tới 1.000 mg/kg. Trong một củ khoai tây bình thường có 12–20 mg/kg glycoalkaloid, củ khoai tây có mầm là 250–280 mg/kg, trong củ khoai tây vỏ xanh là 1.500-2.200 mg/kg.
Phát triển Củ mới có thể phát sinh trên mặt đất, vỏ khoai tây tiếp xúc với ánh sáng sẽ thúc đẩy tạo chất độc solanine. Để tránh điều này xảy ra, người trồng dùng phương pháp vun gốc khoai tây, một cách khác là trồng khoai tây với các chất rải che nắng như rơm rạ hoặc các tấm nhựa. Trồng trọt khoai tây có thể khó trong một số trường hợp. Chuẩn bị mặt đất bằng, bừa, cày trước khi trồng, làm sạch cỏ dại và thời tiến thuận lợi sẽ là điều kiện tốt trước khi trồng khoai tây. Người trồng có thể trồng khoai tây với một miếng khoai tây có hai hoặc ba mắt trong một luống đất cao vừa. Cây khoai tây rất nhạy cảm với sương giá, nó làm hỏng mặt đất. Ngay cả thời tiết lạnh làm thân cây khoai tây tím, có thể làm thối và hỏng cả một cây lớn. Sau khi thu hoạch, củ khoai tây có thể bị xước và lột ra khi thu hoạch, nó sẽ tự hồi phục và chữa lành, ngăn ngừa nhiễm trùng và mất nước từ củ trong quá trình lưu trữ.
Lưu trữ củ khoai
tây Nhiệt độ dưới 4 °C, xảy ra quá trình biến đổi tinh bột trong đường, làm thay đổi hương vị và chất lượng nấu ăn và làm tăng chất acrylamide khi nấu chín, đặc biệt trong các món ăn chiên. Một nghiên cứu về acrylamide trong thực phẩm giàu tinh bột năm 2002 đã khám phá ra chất này dẫn đến nhiều vấn đề sứ khỏe khi nó được cho là gây ung thư. Trong điều kiện lưu trữ tối ưu cho thương mại, khoai tây có thể lưu trữ đến 1o-12 tháng. Khi lưu trữ tại các gia đình chỉ được khoảng vài tuần. Nếu củ khoai xuất hiện màu xanh lá cây và nảy mầm, các khu vực này cần được cắt bỏ trước khi sử dụng. Cắt hoặc bóc các khu vực bị xanh vỏ không đủ để loại bỏ độc tố copresent, nó cũng không nên dùng cho động vật. Khi lưu giữ khoai tây ở các gia đình, nó có thể được bảo quản trong khoảng 1-2 tuần trong túi giấy, nơi khô, mát, nơi ít ánh sáng và thông thoáng. Nếu để khoai tây trong tủ lạnh, chấm đen có thể xuất hiện và xảy ra quá trình biết đổi tinh bột tạo mùi vị khó chịu khi nấu chín. Nếu giữ ở nhiệt độ quá nóng, củ khoai tây sẽ nảy mần và thối. Ngoài ra có một đặc điểm là củ khoai tây hấp thụ mùi hôi bởi quả lê. Sản
lượng Trang trại trồng khoai tây ở Hoa Kỳ đạt sản lượng với 44,3 tấn/ha, nông dân New Zealand là những người sản xuất khoai tây có sản lượng cao nhất Thế giới, dao động từ 60-80 tấn/ha, kỷ lục được ghi nhận là 88 tấn/ha.
Sâu Côn trùng thường là nguyên nhân truyền bệnh khoai tây và trực tiếp phá hoại thân cây như bọ khoai tây Colorado, sâu bướm khoai tây, đào rệp xanh, rệp khoai tây, bọ trĩ, bọ ve. Tuyến rễ khoai tây có một loài vi trùng phát triển mạnh làm héo cây, loài này có thể tồn tại trong đất nhiều năm, nên việc trồng luân canh được khuyến khích. Việt Nam (BlogCayCanh.vn) |