Bài về đạo đức cách mạng 1976

Bài về đạo đức cách mạng 1976

Cách đây 60 năm, vào tháng 12 năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Đạo đức cách mạng” nhằm giáo dục, uốn nắn, nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thường xuyên trau dồi phẩm chất đạo đức các mạng, để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao, để xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, là đạo đức, là văn minh.

Vấn đề đạo đức cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm rất sớm, nhất quán và xuyên suốt. Người khẳng định, đạo đức như gốc của cây, nguồn của sông, “người cách mạng phải có đạo đức làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”(1).

Từ năm 1927, Bác đã viết tác phẩm “Đường cách mệnh”; năm 1947 Bác viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”; năm 1958 Bác viết tác phẩm “Đạo đức cách mạng”; năm 1965 đến 1969 Bác viết Di chúc, trong Di chúc Bác cũng nói nhiều về “đạo đức cách mạng” và vào ngày thành lập Đảng 03/02/1969 Bác viết tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”.

Bài về đạo đức cách mạng 1976

Đó là những tác phẩm tiêu biểu thể hiện tư tưởng của Bác về đạo đức cách mạng, cùng hàng trăm bài nói, bài viết khác Bác đề cập đến việc bồi dưỡng, giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng, để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp và dân tộc.

Năm 1958, sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đang được toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta nỗ lực thực hiện cùng với công cuộc khôi phục kinh tế, văn hoá xã hội, hàn gắn vết thương chiến tranh ở miền Bắc. Bên cạnh đó có biểu hiện suy thoái và cá nhân chủ nghĩa của đội ngũ cán bộ đảng viên đã không dừng lại ở hiện tượng đơn lẻ, mà trở thành căn bệnh, nguy cơ của Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Đạo đức cách mạng khẳng định vai trò quan trọng của đạo đức cách mạng, chỉ rõ kẻ thù, những nguy cơ của đạo đức cách mạng, đồng thời nêu rõ những biện pháp để ngăn ngừa và sửa chữa căn bệnh đó.

Mở đầu tác phẩm, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành nói về lịch sử cuộc đấu tranh của con người với giới tự nhiên và lao động sản xuất để sinh tồn. Khẳng định vai trò sức mạnh của số đông, của tập thể, của xã hội, Người nhấn mạnh: “Thời đại của chúng ta là thời đại văn minh, thời đại cách mạng, mọi việc càng phải dựa vào lực lượng của tập thể, của xã hội;… Do đó, chủ nghĩa cá nhân là trái ngược với chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa xã hội nhất định thắng, chủ nghĩa cá nhân nhất định phải tiêu diệt”(2).

Đồng thời, Người cũng khẳng định: Sự phát triển của các phương thức sản xuất, và sự tiến bộ của xã hội loài người từ công xã nguyên thuỷ đến cộng sản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của lịch sử, xã hội xuất hiện giai cấp, cuộc đấu tranh giai cấp giữa những người bị bóc lột và những kẻ bóc lột, giữa “bọn phong kiến địa chủ, bọn tư bản và đế quốc” và “những tầng lớp người khác, nhất là công nhân và nông dân” ngày càng quyết liệt.

Vì vậy, để giành lấy thắng lợi trong cuộc đấu tranh đó, cách mạng nhất định phải do giai cấp công nhân và đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo, vì đó là giai cấp tiên tiến nhất, giác ngộ nhất, kiên quyết nhất, có kỷ luật nhất và tổ chức chặt chẽ nhất. Điều này đã được lịch sử chứng minh.

Nhận rõ sự quyết liệt, cam go của cuộc đấu tranh giai cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ”(3). Đề cao vai trò của đạo đức cách mạng, Người nhấn mạnh: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước”(4).

Đạo đức cách mạng giúp mỗi người khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, không lo kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá v.v..

Trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân, Người khẳng định: “Trong Đảng ta, các đồng chí Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai và nhiều đồng chí khác đã vì dân, vì Đảng mà oanh liệt hy sinh, đã nêu gương chói lọi của đạo đức cách mạng chí công vô tư cho tất cả chúng ta học tập” (5).

Theo Bác, người có đạo đức cách mạng là người có:

“Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất.Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng.

Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc.Ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”(6).

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng mỗi người cách mạng phải hiểu sâu sắc: Đảng ta là một đội ngũ tiên tiến nhất và tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân, đồng thời là người lãnh đạo cách mạng. Cán bộ đảng viên phải nhận thức rõ sứ mệnh lịch sử vừa cải tạo thế giới và nhiệm vụ tự cải tạo bản thân mình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Trong bối cảnh nhân dân miền Bắc tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ tiến lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời chi viện cho miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng, hơn bao giờ hết, càng cần phải có những người cách mạng, thấm nhuần đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.

Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc rằng, dù là tập thể của những con người tiên phong nhất, song Đảng cũng là một thực thể xã hội và mỗi cán bộ đảng viên của Đảng cũng là những con người cụ thể. Đặc biệt hơn, là một Đảng kiểu mới được xây dựng và phát triển ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, những cán bộ đảng viên của Đảng, vốn sinh trưởng trong xã hội cũ, nên thường mang trong mình hoặc nhiều, hoặc ít vết tích xấu xa của xã hội đó về tư tưởng, về thói quen…

Vết tích xấu nhất và nguy hiểm nhất đó chính là “chủ nghĩa cá nhân”, một thứ rất gian giảo, xảo quyệt, “nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc”. Chủ nghĩa cá nhân là trái ngược với đạo đức cách mạng, và nếu còn lại trong mình “dù là ít thôi, thì nó sẽ chờ dịp để phát triển, để che lấp đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta một lòng một dạ đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng”.

Mục đích trước mắt của Đảng ta là lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh để đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội và thực hiện thống nhất nước nhà, xây dựng một nước Việt Nam “không còn ai bị bóc lột, trong đó mọi người được sung sướng, ấm no”. Để giành được thắng lợi trong chặng đường đầy chông gai, trắc trở này, mỗi cán bộ đảng viên của Đảng phải thấm nhuần và thường xuyên tu dưỡng đạo đức, hết sức trung thành phục vụ giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Đạo đức cách mạng “là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu”. Theo Người, lời nói và việc làm của đảng viên rất quan hệ đến sự nghiệp cách mạng, vì nó ảnh hưởng lớn đến quần chúng. Vì vậy, trong bất kỳ tình huống khó khăn nào, người cán bộ đảng viên cũng phải kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, gương mẫu trước quần chúng, nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng, phải ngăn ngừa và kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân.

Người kết luận: Đảng ta đại biểu cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động. Đảng viên là người thay mặt Đảng, đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, vì vậy, lợi ích của người đảng viên phải ở trong chứ không thể ở ngoài lợi ích của Đảng, của giai cấp và “vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu khi lợi ích của Đảng và lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của Đảng”.

Sau khi nêu rõ vai trò của đạo đức cách mạng, chỉ rõ kẻ thù của đạo đức cách mạng là chủ nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: cuộc sống “thời bình” của miền Bắc trong những năm qua đã làm không ít người lầm tưởng rằng cách mạng đã thành công, do đó mà để “ chủ nghĩa cá nhân chớm nở”.

Bên cạnh những người vẫn thường ngày rèn luyện đạo đức cách mạng, đã có không ít người thoái hoá, biến chất, chỉ lo yêu cầu hưởng thụ, nghỉ ngơi, lựa chọn công tác theo ý thích của cá nhân mình, muốn địa vị cao, nhưng lại sợ trách nhiệm nặng v.v..

Họ quên rằng “tiêu chuẩn số một của người cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”, do đó tinh thần đấu tranh và tính tích cực của họ bị kém sút, chí khí anh dũng và phẩm chất tốt đẹp của người cách mạng cũng kém sút, sự tiên phong gương mẫu của họ cũng không còn.

Từ những biểu hiện tiêu cực nêu trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ: Cách thức để gột rửa sạch những vết tích xấu xa của xã hội cũ, chống lại chủ nghĩa cá nhân là phải rèn luyện đạo đức cách mạng, phải thường xuyên, liên tục, ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi. Người quan niệm, trong mọi hoạt động cách mạng, dù đó là thời kỳ hoạt động bí mật, thời kỳ khởi nghĩa, thời kỳ kháng chiến, hay công cuộc xây dựng miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà, tất cả “đều là những trường học rất tốt cho chúng ta rèn luyện đạo đức cách mạng”.

Nêu ra hiện tượng một số cán bộ đảng viên vì chưa rửa gột sạch chủ nghĩa cá nhân, nên còn “kể công” với Đảng, muốn Đảng “cảm ơn”, đòi ưu đãi, và cho rằng họ “không có tiền đồ”, họ “bị hy sinh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận: đó là những người “dần dần xa rời Đảng, thậm chí phá hoại chính sách và kỷ luật của Đảng”. Cùng đó, Người cũng chỉ rõ những biểu hiện khác như: có một số ít đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân trói buộc mà trở nên kiêu ngạo, công thần, tự cao tự đại. “Họ phê bình người khác mà không muốn người khác phê bình họ; không tự phê bình hoặc tự phê bình một cách không thật thà, nghiêm chỉnh. Họ sợ tự phê bình thì sẽ mất thể diện, mất uy tín.

Họ không lắng nghe ý kiến của quần chúng. Họ xem khinh những cán bộ ngoài Đảng”, v.v.. Người kết luận, “chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình. Không chịu nghe phê bình và không tự phê bình thì nhất định lạc hậu, thoái bộ,…bị quần chúng bỏ rơi. Đó là kết quả tất nhiên của chủ nghĩa cá nhân”.

Mặt khác, Bác cũng nói: “Nhưng hiện nay chủ nghĩa cá nhân đang ám ảnh một số đồng chí, họ tự cho mình cái gì cũng giỏi, họ xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng mà chỉ muốn làm thầy quần chúng. Họ ngại làm việc tổ chức, tuyên truyền và giáo dục quần chúng. Họ mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Kết quả là quần chúng không tin, không phục, càng không yêu họ. Chung quy là họ không làm nên trò trống gì”(7).

Như vậy là có tội với cách mạng, vì không thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình đồng chí khác để cùng nhau tiến bộ. Bác khẳng định: “Trong bao nhiêu năm hoạt động bí mật, dù bị bọn thực dân khủng bố gắt gao và Đảng ta gặp rất nhiều khó khăn, nguy hiểm, nhưng Đảng ta ngày càng phát triển, càng mạnh mẽ và đã lãnh đạo nhân dân làm cách mạng thành công, kháng chiến thắng lợi. Đó là vì Đảng ta khéo dùng cái vũ khí sắc bén phê bình và tự phê bình”(8).

Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam là yêu cầu cấp bách của lịch sử, đó cũng đồng thời là nhiệm vụ của toàn quân, toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Bởi chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cho nên phải kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân.

Tuy nhiên, khi khẳng định phải chống kẻ địch nội xâm là chủ nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không quên nhấn mạnh: Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, từ đó Người cũng khẳng định: “lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích của tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện để được thoả mãn.

Lợi ích của cá nhân luôn gắn liền với lợi ích của tập thể. Nếu lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích tập thể, thì đạo đức cách mạng đòi hỏi lợi ích riêng của cá nhân phải phục tùng lợi ích chung của tập thể.
Cách mạng tiến lên mãi, Đảng tiến lên mãi. Cho nên người cách mạng cũng phải tiến lên mãi”(9).

Vì vậy, Bác yêu cầu mỗi cán bộ đảng viên của Đảng phải cố gắng học tập lý luận Mác – Lênin bởi “Có học tập lý luận Mác – Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm được tốt công tác Đảng giao phó cho mình”(10). Tuy nhiên, đó là “học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn”(11), chứ không phải là học thuộc lòng một số sách vở về chủ nghĩa Mác – Lênin. Đặc biệt, học để trang sức, học không phải để vận dụng vào công việc cách mạng, đó cũng là chủ nghĩa cá nhân.

Bác khẳng định: Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng mẹ, đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí… trói buộc, bịt mắt những nạn nhân của nó, khuyến khích lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân.

Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”(12). Cuối cùng, Người khẳng định công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm cơ sở vững mạnh cho công cuộc thống nhất nước nhà, là một nhiệm vụ cực kỳ vẻ vang, song cũng đầy gian nan, trắc trở, vì vậy để bảo đảm cho sự thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, “tất cả đảng viên, đoàn viên, tất cả cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng cần phải quyết tâm suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Đó là phẩm chất cao quý của người cách mạng, đó là đạo đức cách mạng”(13).

60 năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Đạo đức cách mạng, song những điều Người tâm huyết, những chỉ dẫn kịp thời của Người vẫn còn mãi với thời gian. Ôn lại, học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người, chính là thấm nhuần sâu sắc lời Người căn dặn: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(14).

Chú thích:
(1),(3) Hồ Chí Minh toàn tập Nxb CTQG, HN 2000, t.9, tr. 283. (2) Sđd, t.9, tr. 282. (4),(5) Sđd, t.9, tr. 284. (6) Sđd, t.9, tr. 285. (7) Sđd, t.9, tr. 290-291. (8) Sđd, t.9, tr. 289-290. (9) Sđd, t.9, tr. 291-292. (10),(11),(12) Sđd, t.9, tr. 292. (13),(14) Sđd, t.9, tr. 293.