Bốn giải pháp thúc đẩy nghiên cứu khoa học

 Nghiên cứu khoa học là một trong những công việc quan trọng của những người làm công tác giảng dạy. Nghiên cứu khoa học giúp người giảng viên có thêm kiến thức để từ đó góp phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy, dặc biệt là đối với đội ngũ giảng viên của Khoa Xây dựng Đảng hiện nay.

 Cùng với hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học là thước đo năng lực chuyên môn của giảng viên vì việc tham gia vào hoạt động nghiên cứu khoa học sẽ giúp giảng viên có điều kiện đào sâu, nắm bắt chặt chẽ hơn kiến thức chuyên môn mà mình đang trực tiếp giảng dạy nhằm kịp thời điều chỉnh, bổ sung những nội dung kiến thức chưa chuẩn xác trong bài giảng của mình, mặt khác, vừa có điều kiện mở rộng, hiểu biết nhiều hơn những kiến thức từ các chuyên ngành khác. Quá trình tham gia nghiên cứu khoa học sẽ góp phần phát triển tư duy, năng lực sáng tạo, khả năng làm việc độc lập, trau dồi tri thức và các phương pháp nhận thức khoa học của giảng viên, đồng thời hình thành ở giảng viên những phẩm chất của nhà nghiên cứu.

Thực tiễn và lý luận chứng minh rằng, nghiên cứu khoa học và giảng dạy có mối quan hệ hữu cơ với nhau, gắn kết chặt chẽ và hỗ trợ cho nhau. Nghiên cứu khoa học tạo cơ sở, điều kiện, tiền đề nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy, ngược lại, công tác giảng dạy sẽ phản ánh kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học. Như vậy, nghiên cứu khoa học là hoạt động, là một trong những nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu của đội ngũ giảng viên trong các trường Chính trị, nhất là đối với đội ngũ giảng viên của Khoa Xây dựng Đảng, trường Chính trị tỉnh Lâm Đồng hiện nay.

Tổng số giảng viên của Khoa xây dựng Đảng hiện gồm 6 đồng chí, trong đó có 01 giảng viên là Trưởng khoa, 05 đồng chí giảng viên. Về trình độ có 05 thạc sỹ, 01 cử nhân. Đồng thời với nhiệm vụ giảng dạy, trên cơ sở Quy chế nghiên cứu khoa học của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Ban hành kèm theo Quyết định số 2252-QĐ/HVCTQG, ngày 02/5/2019 của Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), căn cứ chức năng, nhiệm vụ, mỗi giảng viên trong Khoa phải tham gia nghiên cứu khoa học, được thể hiện bằng các đề tài khoa học, chuyên đề, tham luận khoa học, bài viết hội thảo, tọa đàm, nội san, tham gia các đề tài khoa học nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy và học tập của giảng viên của khoa.

Trong thời gian qua, công tác nghiên cứu khoa học của các giảng viên trong Khoa đã đạt được nhiều kết quả như: 100% giảng viên của Khoa tham gia viết bài hội thảo, nội san trong và ngoài nhà trường, có giảng viên trong năm viết 5,6 bài trở lên, có giảng viên tham gia nghiên cứu đề tài khoa học, vượt định mức giờ nghiên cứu khoa học theo quy định. Đồng  thời, giảng viên của Khoa cũng hoàn thành việc đi nghiên cứu thực tế theo qui định, chủ yếu là đi dẫn các lớp đi thực tế, đi thực tế với đoàn của Nhà trường.

Bên cạnh những kết những kết quả đạt được, công tác nghiên cứu khoa học của giảng viên trong Khoa còn những hạn chế như: Công tác nghiên cứu khoa học của các giảng viên trong Khoa chưa thực sự có chiều sâu; bài viết cho Nội san, Hội thảo khoa học tuy đã đảm bảo về số lượng nhưng vẫn còn có bài viết chất lượng chưa cao; chưa có nhiều bài viết cho Trang thông tin điện tử của Nhà trường, báo Trung ương, địa phương. Các giảng viên của Khoa chưa thực hiện được đề tài khoa học, chưa đưa ra được đề tài để nghiên cứu.

Những hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó do một số giảng viên trong Khoa chưa có sự chủ động, chưa đầu tư đúng mức cho công tác nghiên cứu khoa học, chỉ nghiên cứu cho đủ công trình theo quy định; việc phân bổ thời gian cho công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học chưa phù hợp; do nhiệm vụ giảng dạy chi phối nên đội ngũ giảng viên của Khoa đầu tư nhiều thời gian chuẩn bị bài, lên lớp nên có phần ảnh hưởng đến đầu tư cho công tác nghiên cứu và thực hiện các hoạt động khoa học; một bộ phận giảng viên chưa chủ động thiết lập mối quan hệ với các cơ quan, đơn vị sở hữu các nguồn tài liệu nên khi tham khảo nguồn tài liệu để viết bài, làm đề tài còn lệ thuộc vào Internet dẫn đến bài viết, đề tài không phong phú và chưa sát với thực tế.

Ngoài ra, hệ thống cơ sở vật chất, đặc biệt là nguồn tư liệu liên quan đến chuyên môn cuả Khoa từ thư viện còn hạn chế, làm giảm hiệu quả và khó khăn cho công tác nghiên cứu khoa học của giảng viên trong Khoa. Một số giảng viên của Khoa vẫn còn thiếu kinh nghiệm trong việc thực hiện một sản phẩm khoa học, còn loay hoay, lúng túng trong việc chọn đề tài để viết bài.

Trong thời gian tiếp theo, nhằm nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu khoa học của giảng viên Khoa Xây dựng Đảng, theo tôi cần thực hiện một số giải pháp như sau:

Một là, nhóm giải pháp đối với lãnh đạo Khoa, gồm có:

Thứ nhất, khuyến khích giảng viên nêu ý tưởng các đề tài khoa học, hội thảo khoa học bám sát chủ trương, định hướng của Đảng. Hướng các đề tài nghiên cứu vào phục vụ trực tiếp, hiệu quả cho công tác đào tạo, bồi dưỡng. Kết quả thực hiện các đề tài phải có khả năng cung cấp những luận cứ khoa học bổ sung cho bài giảng; góp phần làm sáng tỏ những nguyên lý, lý luận đó vào thực tiễn.

Thứ hai, ưu tiên dành cho giảng viên trẻ các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học từ đơn giản đến phức tạp, từ cấp nhỏ đến cấp lớn; Trước hết là nghiên cứu những vấn đề cụ thể, trực tiếp phục vụ cho hoạt động giảng dạy.

Thứ ba, phân công giảng viên có kiến thức, kinh nghiệm và năng lực hướng dẫn, bồi dưỡng, giúp đỡ giảng viên trẻ về cách thức phát hiện, lựa chọn vấn đề nghiên cứu, xây dựng kế hoạch và hướng dẫn quy trình nghiên cứu khoa học để công tác nghiên cứu khoa học đạt hiệu quả cao nhất.

Thứ bốn, tiếp tục coi việc nghiên cứu khoa học là một tiêu chí quan trọng để đánh giá, bình xét và xếp loại thi đua giữa các giảng viên hằng năm.

Thứ năm, thường xuyên kiểm tra, theo dõi, đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học, tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm về công tác nghiên cứu khoa học.

Hai là, nhóm giải pháp đối với giảng viên của Khoa:

Thứ nhất, mỗi giảng viên phải tự ý thức được tầm quan trọng của công tác nghiên cứu khoa học đối với sự phát triển nghề nghiệp của mình, tìm hiểu và nắm rõ nội dung quy chế hoạt động khoa học.

Mỗi cán bộ, giảng viên phải thấy được giảng dạy và nghiên cứu khoa học là hai nhiệm vụ có quan hệ thống nhất; nghiên cứu khoa học chính là nhiệm vụ bắt buộc thường xuyên đối với tất cả giảng viên, từ đó giúp từng cá nhân tự giác, tích cực thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu khoa học.

Thứ hai, mỗi giảng viên phải chủ động xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học của từng năm dựa trên kế hoạch của Nhà trường và lĩnh vực giảng dạy, nhu cầu của bản thân. Giảng viên phải chủ động, có sự đầu tư, phân bổ thời gian hợp lí cho công tác nghiên cứu khoa học.

Thứ ba, giảng viên trong Khoa phải tích cực tham gia viết bài Hội thảo, bài nội san, viết bài cho Trang thông tin điện tử của Nhà trường, báo Trung ương, địa phương. Các giảng viên của Khoa tham gia thực hiện được đề tài khoa học.

Thứ bốn, giảng viên phải chủ động thiết lập mối quan hệ với các cá nhân, tổ chức nơi lưu trữ các nguồn tài liệu để phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học.

Hiện nay, tri thức khoa học ngày càng có vai trò quan trọng, do đó việc đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học trong đội ngũ giảng viên Khoa Xây dựng Đảng lại càng có ý nghĩa thiết thực nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của trường Chính trị Lâm Đồng, hướng đến đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo nền tảng, tạo tiền đề vững chắc để xây dựng nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại trong bối cảnh hội nhập toàn cầu./.

ThS Chu Thị Thu Trang

  Giảng viên Khoa Xây dựng Đảng

Tài liệu tham khảo:

1. ĐCSVN: Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31/10/2012 Hội nghị Trung ương 6 khóa XI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

2.  Nguyễn Bích Thủy: “Thúc đẩy nghiên cứu khoa học trong các trường đại học”, undefined, ngày 7/3/2014.

3. Báo cáo tổng kết công tác Khoa năm 2020

(LLCT) - Để khoa học, công nghệ đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, các nhà nghiên cứu, nhất là giảng viên tại các trường đại học và học viện phải là lực lượng nòng cốt trong việc nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu đó vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, trong những năm qua, hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học các trường đại học ở Việt Nam chưa cao. Công trình nghiên cứu khoa học không mang lại hiệu quả như mong muốn, thậm chí đề tài nghiệm thu xong chỉ để “xếp ngăn kéo” diễn ra phổ biến. Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp (cả vĩ mô và vi mô) để hướng đến mục tiêu “mỗi trường đại học là một viện nghiên cứu”, để những công trình nghiên cứu thực sự đem lại hiệu quả trong giảng dạy và ứng dụng thực tiễn là việc làm rất cần thiết.

Hoạt động nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học là một trong các nhiệm vụ cơ bản, quan trọng không thể thiếu của đội ngũ các nhà khoa học, giảng viên, học viên, sinh viên; là một trong các nhiệm vụ chính, có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mục tiêu hoạt động nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học nhằm: Tạo ra tri thức, công nghệ, giải pháp, sản phẩm mới; góp phần hình thành và nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cho giảng viên, nghiên cứu viên, người học; nâng cao chất lượng đào tạo. Ứng dụng tri thức, công nghệ mới và tạo ra phương thức, giải pháp mới  phục vụ phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước, tạo cơ sở thúc đẩy hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ. Góp phần phát hiện và bồi dưỡng nhân tài; phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước, đóng góp và phát triển kho tàng tri thức, công nghệ của nhân loại.

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên trong các trường đại học, cao đẳng đã có những đóng góp vào thành tích chung của ngành giáo dục và nền khoa học nước nhà. Những kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào các lĩnh vực  đã tạo hiệu quả nhất định trong đời sống kinh tế - xã hội... Tuy nhiên, trước sự phát triển nhanh chóng của đất nước như hiện nay thì hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ cán bộ khoa học nói chung, lực lượng giảng viên tại các trường đại học, cao đẳng nói riêng, chưa đáp ứng được yêu cầu (cả về số lượng và chất lượng) để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của xã hội.

Thứ nhất, tình trạng đối phó trong nghiên cứu khoa học ở các trường đại học, học viện khá phổ biến

Nhiều trường đại học ở Việt Nam còn thiếu năng động dẫn đến hoạt động nghiên cứu khoa học kém hiệu quả. Có thể khẳng định, các trường đại học hiện nay không chỉ là trung tâm đào tạo mà còn phải hướng tới để trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học, sản xuất, sử dụng, phân phối, xuất khẩu tri thức và chuyển giao công nghệ mới, hiện đại. Muốn đào tạo một đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ tốt, các trường đại học cần chú trọng và ưu tiên cho công tác nghiên cứu. Tuy vậy, thời gian dành cho nghiên cứu khoa học tại các trường đại học ở Việt Nam còn rất ít, mặc dù Bộ Giáo dục và Đào tạo có quy chế phân bổ thời gian nghiên cứu khoa học cho các giảng viên. Theo quy định của Thông tư số 47/2014/TT-BGDĐT ngày 31-12-2014 quy định chế độ làm việc đối với giảng viên đã quy định về nghiên cứu khoa học: Giảng viên phải dành ít nhất 1/3 tổng quỹ thời gian làm việc trong năm học để làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Mỗi năm, giảng viên phải hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu khoa học được giao tương ứng với chức danh hoặc vị trí công việc đang đảm nhiệm. Kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên được đánh giá thông qua các sản phẩm nghiên cứu khoa học cụ thể, tối thiểu là một đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở hoặc tương đương được nghiệm thu từ đạt yêu cầu trở lên hoặc một bài báo được công bố trên tạp chí khoa học có phản biện hoặc một báo cáo khoa học tại hội thảo khoa học chuyên ngành. Nghiên cứu khoa học được xem là nhiệm vụ bắt buộc và là tiêu chí đánh giá lao động của giảng viên.

Tuy nhiên, công việc này của giảng viên hiện chưa được chú trọng đúng mức, chưa thật sự phát triển mạnh mẽ, diễn ra không đồng đều và gần như chỉ tập trung vào một số ít giảng viên. Nếu như ở các nước phát triển, đội ngũ giáo viên trải qua thời gian làm nghiên cứu rồi mới tham gia giảng dạy, còn ở Việt Nam, nhiều trường hợp tham gia giảng dạy mà không qua công tác nghiên cứu. Chính điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả nghiên cứu khoa học và đào tạo. Ngoài ra, do áp lực phải thực hiện nên việc nghiên cứu còn mang tính hình thức, dựa trên áp dụng những thứ “có sẵn” nhằm giảm thiểu thời gian, chi phí thực hiện, dẫn tới rất nhiều công trình sau khi nghiệm thu chỉ  xếp vào tủ kính để “nhìn cho đẹp”.

Số lượng giảng viên tham gia nghiên cứu không nhiều, một tỷ lệ khá lớn trong số đó chưa thật nhiệt tình và say mê nghiên cứu dẫn đến một số công trình nghiên cứu, dù ở những cấp cao như đề tài cấp bộ... vẫn còn hạn chế về chất lượng với hàm lượng khoa học thấp. Vì thế, nhiều giảng viên chỉ thực hiện để cho đủ giờ, ít quan tâm đến chất lượng công trình mà mình công bố.

Thứ hai, sự gắn kết giữa nghiên cứu và giảng dạy còn thấp: Nhiều giảng viên theo đuổi hướng nghiên cứu khác xa với môn học do mình đảm nhiệm nên việc thực hiện nghiên cứu nhằm bổ sung cho nội dung giảng dạy sau khi nghiên cứu không đem lại kết quả. Một số trường đại học có các viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm nhưng việc gắn kết, sử dụng các kết quả nghiên cứu phục vụ giảng dạy và học tập còn chưa được thực hiện nhiều nhằm ứng dụng kịp thời những kết quả đó. Giảng viên vẫn chủ yếu giảng dạy lý thuyết trong giáo trình, quá trình giảng dạy - nghiên cứu tiến hành một cách độc lập, tách rời nhau.

Thứ ba, ở Việt Nam hiện nay, có một nghịch lý rất đáng quan tâm là trong khi nhiều đề án nghiên cứu thiếu kinh phí thực hiện thì ngân sách dành cho nghiên cứu khoa học lại phân phối không hết. Cách thức quản lý khoa học như hiện nay chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Có thể nhìn cách phân bổ kinh phí hiện nay như một cuộc đấu thầu xây dựng và các đề tài nghiên cứu đôi khi không phải xuất phát từ nhu cầu thực tế. Bên cạnh đó, ngân sách nhà nước cho hoạt động nghiên cứu khoa học hiện nay thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý nhưng phần ngân sách thực sự để làm nghiên cứu chỉ chiếm 10% tổng ngân sách nhà nước dành cho khoa học và công nghệ. Với con số đó (10% của 15.000 tỷ đồng) cho các loại chương trình, đề tài khoa học các cấp cũng có năm không tiêu hết tiền. Ngân sách nhà nước phân bổ cho hoạt động nghiên cứu khoa học - tức là ngân sách nhà nước do Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý lớn gần gấp 3 lần ngân sách nhà nước dành cho Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý (năm 2012, của Bộ Giáo dục và Đào tạo là 5.800 tỷ đồng; trong khi đó cho Bộ Khoa học và Công nghệ là 15.000 tỷ đồng). Đây là điều bất hợp lý khi mà ngân sách nhà nước dành cho hoạt động nghiên cứu khoa học không được phân bổ trực tiếp đến các trường đại học, mà chủ yếu thông qua cơ chế chương trình, đề tài cấp nhà nước.

 Thực trạng trên có một số nguyên nhân cơ bản sau đây:

- Phân bổ đề tài chưa hợp lý. Một thực tế đang xảy ra trong thực tiễn là chủ nhiệm các đề tài thường là cán bộ lãnh đạo, quản lý nên thời gian dành cho nghiên cứu thường không nhiều. Bên cạnh đó năng lực nghiên cứu của giảng viên còn nhiều hạn chế.

- Không cân đối hợp lý thời gian giảng dạy và nghiên cứu. Định mức giờ chuẩn cho giảng viên trong một năm học là 270 giờ chuẩn; trong đó, giờ chuẩn trực tiếp trên lớp chiếm tối thiểu 50% định mức quy định. Trên thực tế, ở khá nhiều trường đại học, số giờ mà giảng viên thực dạy còn lớn hơn. Với số giờ giảng nhiều nên giảng viên không còn thời gian  dành cho việc nghiên cứu.

- Định hướng nghiên cứu chưa thực sự khoa học: Hiện nay, việc đăng ký đề tài mặc dù được thông qua hội đồng khoa học nhiều lần nhưng chủ yếu phụ thuộc vào người đăng ký, chưa theo hướng nghiên cứu để lựa chọn nơi thực hiện vì thế nhiều khi không xuất phát từ nhu cầu thực của trường, của các ngành học hay của xã hội.

- Thù lao được trả chưa xứng với công sức bỏ ra: Kinh phí cấp cho các đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước, cấp Bộ còn có mức cao, nhưng với các công trình nghiên cứu cấp trường hoặc bài báo thì số kinh phí thường rất thấp (từ 15 - 20 triệu/đề tài và 500.000đ - 700.000 đ/bài báo); vì thế, không khuyến khích được giảng viên nghiên cứu...

Để khắc phục tình trạng yếu kém, lãng phí trong hoạt động khoa học và để phát huy tiềm năng của đội ngũ cán bộ, giảng viên cần thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, để nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường đại học, học viện thì chính giảng viên - chủ thể của hoạt động này phải thay đổi cách thức nghiên cứu khoa học theo hướng giải quyết các vấn đề thực tiễn đang đặt ra, các vấn đề nảy sinh đòi hỏi phải giải quyết qua quá trình giảng dạy, nghiên cứu để tạo ra sản phẩm có tính ứng dụng và khả thi. Đối với quốc gia đang phát triển như Việt Nam có nhiều vấn đề đang đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi phải có những nghiên cứu trên tất cả các lĩnh vực, từ xã hội nhân văn đến các ngành khoa học kỹ thuật. Khi những nghiên cứu đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn thì sẽ không thể để trong ngăn kéo, mà cung cấp luận cứ khoa học trở thành lý luận soi đường cho công cuộc đổi mới, trở thành những sản phẩm có tính ứng dụng cao. Qua nghiên cứu, đội ngũ cán bộ giảng dạy luôn có cơ hội cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ, góp phần làm cho bài giảng phù hợp với thực tế.

Hai là, để thúc đẩy nghiên cứu khoa học trong trường đại học thì các chính sách, thể chế cũng cần đổi mới theo hướng xóa bỏ các rào cản hành chính để giảm thời gian làm thủ tục giấy tờ, tạo động lực thu hút người trẻ say mê với khoa học; cần bảo đảm tính công bằng và minh bạch trong xét duyệt đề tài nghiên cứu và xem xét lại quy trình nghiệm thu đề tài với mục tiêu là hiệu quả nghiên cứu. Cải tiến thủ tục xét duyệt đề tài theo hướng đặt hàng hằng năm và liên kết các đơn vị sử dụng (doanh nghiệp, tổ chức) và các cơ quan nghiên cứu.

Chủ trương đổi mới cơ chế tài chính và quản lý hoạt động khoa học - công nghệ đã được khẳng định trong Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31-10-2012 Hội nghị Trung ương 6 khóa XI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Việc xây dựng cơ chế đặc thù trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước để thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ nhằm giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ; mở rộng áp dụng cơ chế tài chính của quỹ phát triển khoa học và công nghệ là cơ hội rất lớn để Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như các cơ sở giáo dục đại học thoát ra khỏi cơ chế ràng buộc, phân bổ mang tính dự toán như trước đây về khai thác tiềm lực nguồn nhân lực về khoa học - công nghệ của các trường và tiến đến xây dựng các trường đại học nghiên cứu. Làm được điều đó sẽ hướng đến xây dựng được trường đại học nghiên cứu - nghiên cứu khoa học là một nhiệm vụ chính, một nguồn thu quan trọng cho hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học.

Thực hiện triển khai Luật Khoa học công nghệ năm 2013, Bộ Khoa học và Công nghệ đã và đang xây dựng những chính sách nhằm khuyến khích hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường đại học, chính sách kinh phí và biên chế thỏa đáng cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Cùng với đó, việc thành lập các trung tâm ươm tạo và chuyển giao công nghệ trong trường đại học được triển khai sẽ là cầu nối giữa người nghiên cứu khoa học và doanh nghiệp, hỗ trợ nuôi dưỡng các ý tưởng mới, hoàn thiện và thương mại hóa các ý tưởng, sáng kiến, kết quả nghiên cứu. Ngoài ra, chính sách xác định phân chia lợi nhuận đối với tác giả, những người nghiên cứu khoa học cũng đang được xây dựng nhằm bảo đảm quyền lợi bản quyền chuyển giao một cách thích đáng cho người nghiên cứu. Với những chính sách đột phá sẽ tạo động lực cho hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường đại học với nhiều thành tựu, ứng dụng mới.

Ba là, xây dựng cơ chế bắt buộc phải dành thời gian cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Ví dụ, 45% cho giảng dạy; 35% cho hoạt động nghiên cứu khoa học và 20% cho các hoạt động khác (tự học, tự bồi dưỡng). Điều này phải trở thành quy chế bắt buộc với tất cả các trường đại học. Không được phép chuyển đổi thời gian giảng dạy cho thời gian nghiên cứu khoa học.

Bốn là, định mức công trình nghiên cứu khoa học cộng với cơ chế tài chính đủ để tạo ra các công trình nghiên cứu có chất lượng. Giảng viên bắt buộc phải có bài báo được thẩm định công bố hằng năm trên tạp chí có uy tín, thương hiệu thuộc ngành, lĩnh vực.

Năm là, có cơ chế đặc thù để phát triển các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ trọng điểm theo mô hình tiên tiến và triển khai những dự án khoa học, công nghệ quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Thực hiện cơ chế đặt hàng, đấu thầu, khoán kinh phí theo kết quả đầu ra và công khai, minh bạch chi phí, kết quả nghiên cứu. Giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước cho tổ chức, cá nhân chủ trì nghiên cứu, đồng thời có cơ chế phân chia lợi ích hợp lý. Nâng cao hiệu quả hoạt động các quỹ về phát triển khoa học, công nghệ; khuyến khích các quỹ đầu tư mạo hiểm. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá độc lập, tư vấn, phản biện, giám định xã hội đối với hoạt động khoa học. Cơ chế đấu thầu đề tài khoa học sẽ chuyển giao cơ chế đặt hàng nghiên cứu theo mô hình trường - liên kết với doanh nghiệp để bán sản phẩm nghiên cứu.

Kinh nghiệm của nhiều trường hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ dưới hình thức nghiên cứu ứng dụng triển khai (khoa học kỹ thuật nông nghiệp với nhiều giống hoa, lúa, rau; khoa học công nghiệp dân dụng: với nhiều sản phẩm điện điện tử, cơ khí, v.v..) đã đem lại lợi ích rất lớn cho xã hội và nhà khoa học. Xu hướng thế giới là đang chuyển dần các trường đại học thành đại học nghiên cứu, tức chú trọng đến hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ, điều này đã và sẽ đặt ra cho các trường phải dành sự quan tâm, có hướng giải pháp kịp thời cho hoạt động này để mang lại hiệu quả, tránh lãng phí nguồn lực.

Cần tổ chức ứng dụng sản phẩm khoa học công nghệ đã nghiệm thu. Đối với nhóm ngành khoa học công nghệ - kỹ thuật: kế thừa thành tựu khoa học công nghệ của các nước trên thế giới và trong khu vực, về cơ bản, các sản phẩm nghiên cứu khoa học được nghiệm thu của nhóm ngành này được ứng dụng trong thực tiễn đời sống kinh tế, xã hội, an ninh - quốc phòng; mặt khác sản phẩm nghiên cứu khoa học của nước ta với xu hướng xuất khẩu công nghệ và sản phẩm ứng dụng. Đối với nhóm ngành khoa học quản lý: nhóm ngành này thuộc chính sách của Nhà nước thuộc tầm vĩ mô, do vậy ứng dụng chủ yếu là các đề án.

______________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2017

Tài liệu tham khảo:

1. ĐCSVN: Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31-10-2012 Hội nghị Trung ương 6 khóa XI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

2. Bộ Khoa học và Công nghệ: Thông tư 40/2014/TT-BKHCN ngày 18-12-2014 Quy định quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ đột xuất có ý nghĩa quan trọng về khoa học và thực tiễn, nhiệm vụ khoa học và công nghệ tiềm năng do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia tài trợ.

3. Bộ Tài chính và Bộ Khoa học và Công nghệ: Thông tư liên tịch 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN ngày 22-4-2015 Hướng dẫn định mức xây dựng, phân bổ dự toán và quyết toán kinh phí đối với nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước.

4. Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Tài chính: Thông tư liên tịch 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC ngày 22-4-2015 Quy định khoán chỉ thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước.

5.  Nguyễn Bích Thủy: “Thúc đẩy nghiên cứu khoa học trong các trường đại học”, //www.vietnamplus.vn, ngày 7-3-2014.

TS PHÙNG VĂN HIỀN

Học viện Hành chính Quốc gia

Video liên quan

Chủ đề