Cách tiếp cận so sánh mô hình chuẩn năm 2024

Cthdc CON NG Chinh TRI - Tóm tắt lý thuyết về con người chính trị, phù hợp với các bạn đang ôn thi hết

Preview text

TS Ngô Huy Đức

CHÍNH TRỊ HỌC SO SÁNH

CÁCH TIẾP CẬN VÀ SO SÁNH CÁC HỆ THỐNG CHÍNH

TRỊ TRÊN THẾ GIỚI

Hà Nội 2 - 2010

MỞ ĐẦU

Trong những năm gần đây, cùng với những thành công có ý nghĩa lịch sử của quá trình Đổi mới, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta là vấn đề cấp thiết khi đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Những căn cứ cho sự đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị mặc dù vẫn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng cũng đồng thời đòi hỏi các đột phá, các sáng tạo mới thích ứng với tình hình và mục tiêu phát triển trong giai đoạn hiện nay. Các đột phá và sáng tạo như vậy không chỉ đòi hỏi phải nghiên cứu thấu đáo các kinh nghiệm của nước ta và kinh nghiệm của các nước anh em lựa chọn mục tiêu XHCN, mà cũng cần tham khảo kinh nghiệm và tiếp thu những giá trị có tính phổ biến của nền văn minh chính trị nhân loại, thể hiện trong các mô hình và hoạt động của HTCT ở một số nước trên thế giới, từ đó có được các khái quát mang tính lý luận và khả năng ứng dụng trong thực tiễn nghiên cứu và giảng dạy của Viện Chính trị học. Đặc biệt, thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, cũng như yêu cầu tuân thủ các chuẩn mực pháp lý quốc tế khi tham gia các hoạt động đối ngoại cũng đặt ra vấn đề cần hiểu biết HTCT của các nước trên thế giới, nhìn nhận đúng nền tảng chính trị, cấu trúc lợi ích, và các ràng buộc thể chế đối với các hoạt động chính trị thực tiễn nằm dưới các HTCT này.

Cho đến nay, mặc dù đã có khá nhiều nghiên cứu về đời sống chính trị của các nước trên thế giới, các kết quả nghiên cứu này vẫn còn mang tính khá tản mạn. Một trong các điểm chưa thích hợp quan trọng nhất của các nghiên cứu trên là sự khác biệt trong góc độ nghiên cứu. Nhiều nghiên cứu còn mang tính mô tả, hoặc phân tích từ góc độ văn hóa hay đất nước nói chung, do vậy khó có thể làm nổi bật các lý luận chính trị học, và các so sánh chính trị cần

Chương 1

NHẬP MÔN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CHÍNH TRỊ

HỌC SO SÁNH

1. GIỚI THIỆU VÀ ĐẶT VẤN ĐỀ

Nghiên cứu chính trị học, cũng như mọi khoa học, đều có một mục tiêu là tiếp cận tới những kiến thức chắc chắn và tin cậy. Hơn thế nữa, việc giải thích các hiện tượng, các liên hệ nhân - quả, tức các lý thuyết hay các mô hình lại phải chịu sự hạn chế về tính toàn diện. Cụ thể hơn, lý thuyết hay mô hình đó phải tập trung vào một số lượng nhỏ (thậm chí là rất nhỏ) nếu so với số lượng các yếu tố có tiềm năng đóng một vai trò nhất định trong hiện tượng mà ta muốn giải thích. Cũng như trong việc giải thích hiện tượng “dân chủ”: có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới mức độ phát triển “dân chủ”, nhưng người ta thường tập trung vào chỉ vào các yếu tố chính như: kinh tế, hiến pháp, luật, trình độ dân trí... Làm thế nào để chúng ta tin tưởng rằng đây là các yếu tố chính? Chỉ có thể bằng cách kiểm nghiệm thực tế. Đối với khoa học xã hội, khi chúng ta không thể tạo lập nên một phòng thí nghiệm như các khoa học tự nhiên để kiểm chứng, phương pháp so sánh là tất yếu. Vì trong việc so sánh giữa các trường hợp “dân chủ”, chính là người ta đang dùng các sự kiện thực tế như là các “phòng thí nghiệm” để kiểm chứng kết luận của lý thuyết. Đương nhiên, nếu kết luận không được chứng thực, tức giả sử như “dân chủ” chính là do điều kiện thời tiết và địa lý, hoặc tệ hơn, do tất cả mọi yếu tố ngẫu nhiên tạo nên, sự so sánh, chí ít cũng có tác dụng gợi nên một giả thuyết mới, một định hướng mới cho nghiên cứu và phát triển sự hiểu biết của chúng ta. Vậy chính trị học so sánh sẽ so sánh cái gì, như thế nào và để làm gì? Về căn bản, với tư cách là kiểm chứng (hay phát hiện các bằng chứng về giả thuyết mới), phương pháp so sánh về thực chất là sự kiểm soát các yếu tố của mối liên hệ nhân quả. Một ví dụ đơn giản nhất là giữ nguyên tất cả các yếu

tố khác không đổi (ceteris paribus), trong khi chỉ xem xét hai yếu tố biến đổi là: “dân chủ” (kết quả) và “thu nhập” (nguyên nhân). Khi xem xét một loạt các nước khác nhau, người ta có thể kết luận rằng có sự tương quan , giữa hai yếu tố này: các nước càng giàu thì càng dân chủ hơn. Trong toán học, đây chính là phép lấy đạo hàm. Chính trị học so sánh lấy sự so sánh các hệ thống chính trị làm đối tượng nghiên cứu cơ bản nhằm rút ra các kết luận, các liên hệ (các tương quan) có tính nhân quả. Điều này không chỉ hàm ý là lấy các HTCT ở các nước khác nhau , mà còn có thể lấy HTCT trong cùng một nước, ở các thời kỳ khác nhau để so sánh. Hơn thế nữa, sự lựa chọn các trường hợp, các nước để so sánh không thể là sự lựa chọn tùy tiện. Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, giả thuyết khoa học mà chúng ta phải có sự lựa chọn hợp với mục tiêu. Nếu lập luận cho rằng, “dân chủ là do số lượng đảng chính trị hợp pháp và có tiềm lực cạnh tranh quyết định” thì không thể chỉ lựa chọn các nước có đa đảng, mà bắt buộc phải lựa chọn cả các nước có một đảng và các nước này cũng cần phải có các yếu tố khác tương tự như văn hóa, kinh tế,... Nếu không, việc mức độ “dân chủ” khác nhau trong thực tế lại có thể do sự khác nhau của các yếu tố không liên quan đến số lượng đảng. Điều này cũng chỉ ra rằng chúng ta không bao giờ có thể chọn được các nước thỏa mãn các điều kiện kiểm nghiệm chặt chẽ như vậy. Đây là điểm yếu cố hữu của so sánh trong khoa học xã hội nói chung, và rất dễ được dùng để phản biện mọi kết luận, từ đó đưa ra các tư tưởng biệt phái : ví dụ một phản biện hay được sử dụng là “Điều này không thể đúng và áp dụng ở nước A vì các nước được nghiên cứu đều không có các điều kiện giống nước A”. Nói cách khác, những người theo trường phái này sẽ không tin (hoặc rất nghi ngờ) rằng có cái gọi là tính khoa học của các hoạt động chính trị, hoặc ít nhất, họ cho rằng, các giá trị chung sẽ có tính ứng dụng khá hạn hẹp. Tóm lại, chính trị học so sánh lựa chọn một số các HTCT điển hình, để kiểm soát các yếu tố ảnh hưởng, và rút ra các kết luận nhân - quả thông qua việc so sánh các yếu tố đó mà chúng ta thường gọi là “các giá trị chung, phổ

nước khác, bất kể các đặc điểm lịch sử, văn hóa truyền thống đều có thể noi theo và áp dụng. Thứ tư , bảo thủ, cho rằng các mô hình lý tưởng sẽ không cần thay đổi nhiều. Nói cách khác là các mô hình này đã tính đến các yếu tố có tính căn bản nhất. Thứ năm , thiếu tính hệ thống và tầm nhìn lý thuyết, dễ sa vào tranh biện về đạo lý. Thứ sáu , không xác định rõ cách tiếp cận nên khó kiểm nghiệm một cách nghiêm khắc. Đặc biệt trong việc đo lường, chọn mẫu, nếu cách tiếp cận không rõ ràng và nhất quán, các kiểm nghiệm thực tế sẽ khó có thể tiến hành, hay không thỏa mãn các yêu cầu nghiêm khắc của khoa học. Mặc dù có nguồn gốc lý luận sâu xa như vậy, nhưng phải đến khoảng những năm 1950, việc nghiên cứu so sánh mới trở thành một chuyên ngành nghiên cứu của khoa học chính trị, với tên gọi là chính trị học so sánh. Trong suốt hai thập kỷ sau đó, khuynh hướng nghiên cứu so sánh đã có nhhững phát triển mạnh và rộng ở các nước phương Tây, đặc biệt là tại Mỹ. Khuynh hướng này được hình thành từ 3 trào lưu cơ bản sau: Trào lưu thứ nhất , tại Mỹ, các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến việc nghiên cứu và giảng dạy về thể chế chính trị của các nước trong khối Ăng lô - Sắc Xông (như Anh, Canada, Scotland). Trong khi đó ở Tây Âu, các nhà nghiên cứu cũng có rất nhiều công trình giá trị nghiên cứu về các HTCT ở một loạt các nước khác nhau như: - Ralf Dahrendorf và Karl Bracher với “Xã hội và nền dân chủ Đức” (1967) phân tích về ảnh hưởng của chủ nghĩa Phát xít đối với xã hội Đức. - Samuel Beer với “Nền chính trị Anh trong kỷ nguyên của những người theo chủ nghĩa tập thể” (1966) khảo sát sự thay đổi về cấu trúc và tư tưởng trong các đảng phái chính trị ở Anh. - Hary Eckstein xem xét nền dân chủ Nauy qua “Sự phân chia và cố kết trong một nền dân chủ: trường hợp Na uy” (1966).

  • Hofman, người Đức, phân tích sự phát triển của Pháp qua các nền cộng hòa trong tác phẩm “Suy sụp hay đổi mới: nước Pháp từ những năm 1930” (1974).
  • Trong khi đó, tác giả người Pháp, Merle Faisnod lại tập trung vào tìm hiểu Liên Xô qua tác phẩm “Nước Nga được cai trị như thế nào?” (1963).
  • Các nhà nghiên cứu từ các nước khác như Italia có Robert Scalapino phân tích Nhật Bản “Nền dân chủ và phong trào đảng phái ở Nhật Bản trước chiến tranh”(1953). Trào lưu nghiên cứu các nền chính trị nước ngoài như vậy, dù đầu tiên chỉ có tính chất sư phạm như ở Mỹ hay mang tính quan sát, mô tả, cũng đã cung cấp khối lượng tư liệu và quan sát phong phú, làm cơ sở cho việc phân tích so sánh với phạm vi rộng hơn và sâu hơn. Trào lưu thứ hai , nghiên cứu một cách có hệ thống các thể chế chính trị thuộc các nền văn hóa khác nhau, đặc biệt là từ các nhà khoa học chính trị hàng đầu tại Mỹ. Trào lưu này không bằng lòng với việc chỉ dừng lại ở việc quan sát và mô tả. Các nhà nghiên cứu đã cố gắng đi sâu, chú trọng đến việc giải thích sự khác biệt hay tương đồng giữa các thể chế chính trị khác nhau ở các nền văn hóa khác nhau. Do nhu cầu này mà việc xây dựng và kiểm nghiệm các lý thuyết đã được đặc biệt chú ý và tranh luận. Khuynh hướng như vậy đã ngày càng trở thành một bộ phận quan trọng và chủ đạo của chính trị học so sánh nói riêng và khoa học chính trị nói chung trên thế giới. Nổi bật trong các nhà nghiên cứu này có thể kể ra là David Easton (Phân tích hệ thống về đời sống chính trị, 1965), Karl Deútch (Hệ thống thần kinh của chính phủ, 1963); Seymur Lipset (Con người chính trị: nền tảng xã hội của chính trị, 1968), Gabriel Almond và Sydney Verba (Nền văn hóa công dân, 1963), Robert Dahl (Nền chính trị đa nguyên: sự tham gia và đối lập, 1971), David Buttler và Donald Stokes (Sự biến đổi chính trị ở Anh, 1969), Moris Duverger (Các đảng phái chính trị, 1969). Đây đều là các tên tuổi đã có những ảnh hưởng lớn đến sự hình thành các lý thuyết, trường phái trong các lĩnh vực nghiên cứu của

đường mà các nước phát triển đã qua theo công thức: phi thực dân hóa - tăng trưởng kinh tế - dân chủ hóa. Trường phái này có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nước thế giới thứ ba, đặc biệt là các nước châu Mỹ La tinh, trong thực tế. Hiện nay, trào lưu nổi bật của CTHSS ở phương Tây được biết đến dưới tên gọi chủ nghĩa thể chế mới (Neo-institutionalism). Về thực chất, đây là sự kết hợp và phát triển lên tầm cao hơn của cách tiếp cận thể chế truyền thống bằng cách kết hợp với phát triển luận hiện đại. Theo đó, mặc dù vẫn tập trung vào nhà nước và các thành tố cơ bản của HTCT, những nội dung nghiên cứu đã có sự chuyển dịch về trọng tâm và phương pháp: - Nhấn mạnh vào hành vi chính trị (đặc biệt là bầu cử) - Những thay đổi trong tính chất của các đảng chính trị - Vai trò lãnh đạo chính trị với quá trình chính trị như dân chủ hóa - Vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế như nhà nước phúc lợi - Sự liên quan giữa thể chế chính trị dân chủ với tăng trưởng, phát triển - Văn hóa chính trị với việc hình thành các nền dân chủ... Nói cách khác, các nghiên cứu như vậy đã làm cho nghiên cứu CTHSS trở nên ít mang tính chất so sánh pháp lý, ngày càng tập trung và đi sâu vào lĩnh vực của mối quan hệ kinh tế - chính trị và các quá trình xã hội thực tế như quá trình hoạch định và triển khai chính sách. Như vậy, cần coi chính trị học so sánh cũng chỉ là Chính trị học với trọng tâm đặc biệt là nghiên cứu các nền chính trị khác nhau (ở các quốc gia khác nhau, cũng như trong cùng một quốc gia nhưng ở các thời kỳ khác nhau). Theo nghĩa này, có thể nói có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong CTHSS. Ngay cả hệ thống phân loại các cách tiếp cận cũng đã khác nhau. Nếu lấy đối tượng chính trong nghiên cứu làm tiêu chí, người ta thường phân ra các cách tiếp cận cơ bản như: 1 – Cách tiếp cận thể chế (Institutional approach): đây là cách tiếp cận lâu đời nhất, lấy việc nghiên cứu các thể chế quyền lực cơ bản như hành pháp, lập pháp, tư pháp, đảng chính trị và hệ thống bầu cử làm trung tâm nghiên cứu. Việc so sánh lúc đó sẽ tập trung vào việc xem xét các thể chế này ở các nước

khác nhau (không chỉ từ góc độ pháp lý mà chủ yếu trong thực tế hoạt động). Cách tiếp cận như vậy, bên cạnh các ưu điểm như đã rõ, thường bị phê phán là khiếm khuyết ở chỗ bỏ qua các tổ chức và các cố kết xã hội khác, không thấy được hết các ảnh hưởng, có thể không trực tiếp trong ngắn hạn nhưng lại rất quan trọng về dài hạn. Cách tiếp cận này cũng sẽ phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống các khái niệm của pháp luật, và dễ bị lấy “tinh thần câu chữ” pháp lý thay cho hiện thực chính trị, và cũng dễ bị sa vào mô tả hơn là phân tích. Tuy nhiên, cách tiếp cận như vậy lại có lợi ích trong việc bước đầu tìm hiểu các HTCT nước khác và tương đối dễ tiếp thu trong sư phạm. 2 – Cách tiếp cận chính sách: lấy quá trình chính sách làm trung tâm, từ đó mới nhìn nhận các yếu tố về thể chế cũng như các hành vi chính trị. Tiêu biểu là Macridis với “Nghiên cứu so sánh về các chính phủ” (1955), trong đó ông xem xét các quá trinh chính sách ở các quốc gia để phân tích chính trị các nước này. Nói cách khác, các thể chế chính trị được đặt vào trong vai trò hiện thực quan trọng của nó: việc đưa ra và thi hành các chính sách, vì đây là nội dung thực sự của chính trị - quá trình phân bổ các giá trị. 3 – Cách tiếp cận hệ thống, cấu trúc chức năng: theo đó đặt mạnh tính hệ thống, tính chỉnh thể và mối tương tác của toàn bộ hệ thống trong việc đưa ra quyết định, mà các thể chế chính cũng chỉ là một yếu tố, bộ phận. Ngoài ra, nhìn từ góc độ lấy tiêu chí là vai trò của cá nhân con người, có thể thấy có ba cách tiếp cận chính của chính trị học so sánh hiện nay: 1. Phân tích cấu trúc (Vĩ mô): Chính trị giữa các nhóm lớn trong xã hội (giai cấp, đẳng cấp, tầng lớp ưu tú...) là quan trọng nhất. Chủ nghĩa Mác cũng được coi là thuộc trường phái này. 2. Phân tích hành vi (Vi mô): Đi từ con người cá nhân: các đặc điểm tự nhiên, bản chất của con người, sẽ qui định các hành vi chính trị. Trường phái lựa chọn công cộng là trường phái nổi bật, trong đó, cách sử dụng các phương pháp tiếp cận của khoa học kinh tế (đặc biệt là kinh tế học tân cổ điển) để giải thích các hành vi cá nhân, nhóm xã hội trong các hoạt động chính trị quan trọng, từ đó, lý giải sự hình thành và vai trò của các thể chế.

xã hội (trong đó chủ yếu là: cách thức giải quyết mâu thuẫn , và cách thức hợp tác xã hội). Những tranh luận lớn trong những năm 1960 và 70 đã đưa vào trường phái này các phát triển mới trong đó nổi bật là sự kết hợp (đồng thời là sự phủ nhận) giữa hai cách tiếp cận cá nhân luận và tập thể luận (methodological individualism and collectivism). Daston (1988) và Hacking (1990) đã phát triển cách tiếp cận xác suất như công cụ quan trọng để hiểu các quá trình lớn đó. Theo đó, các hành vi các nhân dù không thể dự đoán chính xác, nhưng nhóm cá nhân có cùng tính chất nhất định sẽ có hành vi được dự kiến với xác suất cao. Đây là cách tiếp cận được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu và giảng dạy chính trị học so sánh trên thế giới, và cũng là cách thức tiếp cận chính trong nghiên cứu này. Do vậy, chúng ta sẽ giành một mục riêng để giới thiệu khái quát. Giữa thập kỷ 1990, với sự phát triển của trường phái lựa chọn hợp lý (có nguồn gốc từ Kinh tế học vi mô – Tân cổ điển) và các thách thức của chủ nghĩa hậu hiện đại về phương pháp luận, trường phái cấu trúc lại có những biến chuyển mới, hoàn thiện thêm tiêu điểm (quan hệ nhân quả) và phương pháp (lịch sử) phân tích truyền thống. (Xem thảo luận chi tiết hơn ở Katznelson, 1997). Có thể nói sự tìm kiếm nền tảng vi mô cho phân tích vĩ mô trong lập luận về con người cá nhân là một trong những hướng đầy hứa hẹn của trường phái này trong những năm gần đây (Ví dụ: Skocpol, 1992, đã cố gắng kết nối yếu tố cá nhân của các nhân vật chính trị quan trọng với ‘sự ràng buộc’ của yếu tố thể chế ). Lý thuyết Lựa chọn hợp lý Trường phái này có thể coi là bắt đầu với các nghiên cứu nền tảng của Down (1957), Riker (1962), và Olson (1968), dù có thể người ta đã bắt gặp các ý tưởng cơ bản từ sớm hơn của chủ nghĩa duy lợi (utilitarianism) và, đặc biệt là các nghiên cứu kinh tế học vi mô.

Nếu cách tiếp cận Phân tích cấu trúc có thể coi là chủ nghĩa trọng xã hội hay xã hội luận thì cách tiếp cận Lựa chọn hợp lý có thể coi là chủ nghĩa trọng cá nhân hay cá nhân luận. Trường phái này lấy cá nhân làm trung tâm, trong đó sự duy lợi và duy lý là hai đặc điểm nổi bật quy định các hành vi của họ. Có nguồn gốc từ kinh tế học vi mô, trường phái này cũng có sự chặt chẽ (ở mức gần như toán học) về lô-gíc và phạm vi ứng dụng rộng rãi. Đi từ phân tích cá nhân điển hình, trường phái này cố gắng giải thích các hành vi của tập thể, của nhóm, giai cấp, của các tổ chức chính trị như đảng phái, chính phủ, cơ quan hành pháp, lập pháp, tư pháp... Hoạt động chính trị không phải là hoạt động kinh tế thị trường, và do vậy, trường phái này, dù về phương pháp luận rất giống với kinh tế học vi mô tân cổ điển, đã xét đến các yếu tố phi thị trường, các yếu tố về tinh thần công cộng, trách nhiệm xã hội, động cơ không vụ lợi,... trong quá trình phát triển của mình. Dù các nghiên cứu này chưa được giới thiệu nhiều ở Việt Nam, những ai đã từng làm quen với kinh tế học vi mô (tân cổ điển) đều đã biết phương pháp luận nền tảng, cũng như các ứng dụng của toán, thống kê, lý thuyết trò chơi trong nghiên cứu của trường phái này. Đây là trường phái có ảnh hưởng rất mạnh trên thế giới, đang trong quá trình hoàn thiện để có thể áp dụng trong nhiều lĩnh vực hoạt động chính trị do tính rõ ràng, lô gíc và tính khả kiểm (kiểm định thực tế) của nó. Dù được áp dụng nhiều trong các nghiên cứu chính trị, nhưng trong lĩnh vực chính trị học so sánh, trường phái này mới chỉ đi những bước đầu tiên và cũng đầy hứa hẹn. 1 Một trong các ưu điểm của cách tiếp cận này là có thể mở rộng để tính đến các yếu tố văn hóa, tâm lý,... tức mọi yếu tố có thể ảnh hưởng đến cái lợi (hệ giá trị) và cái lý (cách suy tính) của con người và của nhóm những người “giống” nhau (về duy lợi và duy lý). Lúc đó, "lợi" có thể bao gồm cả lợi cho người khác, và duy lý bao gồm cả sự “phi lý” (trong ngắn hạn, và với cá nhân. Tức về lâu dài sự phi lý đó vẫn là "duy lý").

1 Các phê phán căn bản về trường phái này đã được Viện KHCT dịch, cùng với các trích đoạn của các nghiên cứu ban đầu của 3 tác giả nêu đầu tiên

có chậm biến đổi (và do vậy có thể coi là yếu tố bất biến, hay “biến số ngoại sinh” trong một mô hình toán học chính trị), vẫn có thể xét chúng dưới một trong hai góc độ tiếp cận trên, nếu có thiết kế nghiên cứu (tức thay đổi mô hình gốc) một cách thích hợp. Trong chủ nghĩa Mác lại càng khó có thể lập luận về việc đặt ngang bằng cách tiếp cận này ngang với hai cách tiếp cận trên. Đây có lẽ là lý do chính khiến Ross 1 nhận xét rằng rất hiếm có các nghiên cứu chính trị so sánh nào lại đặt yếu tố văn hóa trong vai trò trung tâm. “Văn hóa” từ lâu đã là khái niệm trung tâm của nhân loại học (anthropology, hay nhân chủng học) được định nghĩa bằng nhiều cách, từ nhiều mục đích nghiên cứu khác nhau bao gồm thái độ, niềm tin, hệ giá trị, lối sống, tổ chức xã hội. Các nghiên cứu chính trị học, tuy nhiên khá thống nhất khi dùng văn hóa với nội hàm như Geertz (1973) trình bày: văn hóa “là khuôn mẫu do lịch sử để lại về ý nghĩa kết tinh trong các biểu tượng, là hệ thống các quan niệm truyền thống được thể hiện qua hình thức các biểu tượng, nhờ đó con người giao tiếp, duy trì và phát triển tri thức về đời sống và thái độ đối với đời sống của mình” 2. Cách định nghĩa này nhấn mạnh sự chia sẻ trong cộng đồng về ý nghĩa (meaning). Các hành vi, thể chế, và các cấu trúc xã hội được hiểu không phải là bản thân văn hóa mà chỉ là các hiện tượng cấu thành văn hóa (culturally constituted phenomena). Việc dùng cách tiếp cận văn hóa được phát triển với các nhà nghiên cứu như Banfield (1958), Almond và Verba (1963), Chagnon (1967)... trong đó văn hóa được dùng như một yếu tố quan trọng để giải thích các hành vi, hoạt động chính trị đặc thù (hay không đặc thù) cho một cộng đồng người nào đó. Yếu tố quan trọng nhất trong đó, theo Geertz (1973), là sự chia sẻ của cộng đồng trong hình dung về “một trật tự xã hội”. Và từ đó, sự chia sẻ về tính chính đáng , tính hợp pháp (nghĩa rộng bao gồm cả tục lệ bất thành văn) của các thủ tục (procedures) giải quyết các bất đồng (và sự hợp tác) xã hội. Tức

1 Ross, 1997: tr. 43 2 Nguyên văn: “An historically transmitted pattern of meaning embodied in symbols, a system of inherrited conceptions expressed in symbolic forms by means of which men communicate, perpetuate, and develop their knowledge about and attitude towards life”

bao hàm tính chính đáng của quyền lực xã hội, một khái niệm trung tâm của chính trị học, cũng như của chính trị thực tiễn. Sự gần gũi của CTHSS từ cách tiếp cận văn hóa với phân môn Nhân loại học chính trị (political anthropology) cảnh báo về tính khái quát lý thuyết thấp , tiềm ẩn trong các nghiên cứu do thiên về khảo sát các chi tiết văn hóa đặc thù cho từng trường hợp. Do vậy, khi nghiên cứu chính trị trong các nền văn hóa, việc xác định đúng vai trò của các yếu tố văn hóa bên cạnh các yếu tố về thể chế và cá nhân duy lý là rất quan trọng. (Xem thêm về thảo luận chi tiết trong Ross, 1997). Trong 5 chủ đề nghiên cứu chính của chính trị học so sánh tổng kết bởi Rogowski (1993), chỉ có chủ đề thứ năm về chủ nghĩa dân tộc và khác biệt sắc tộc là có liên quan nhất tới cách tiếp cận này, trong khi 4 chủ đề trước (Kinh tế học của Chính trị; bối cảnh quốc tế và chính trị đối nội; các nhóm lợi ích và chủ nghĩa tập đoàn; và cơ cấu nhà nước với hiệu quả hoạt động) đều chứng tỏ sự phục hồi và phát triển của cách tiếp cận thứ nhất (phân tích thể chế vĩ mô) và cách tiếp cận thứ hai (lựa chọn duy lý). Việc phân loại thành các cách tiếp cận rõ ràng như trên không phải khi nào cũng thuyết phục vì trong các nghiên cứu cụ thể, người ta đều dùng tổng hợp các thành quả nghiên cứu của mọi trường phái.

  1. TIẾP CẬN HỆ THỐNG VÀ HỆ THỐNG THEO CẤU TRÚC, CHỨC NĂNG

Cách tiếp cận hệ thống Các thuật ngữ kinh điển của chính trị học như nhà nước, chính phủ, đảng phái, quốc gia... đều có điểm chung là thường bị hạn chế trong ý nghĩa pháp lý của chúng – tức gắn với hình thức tổ chức cụ thể , các quy định cụ thể. Nhu cầu mở rộng hệ thống khái niệm này để tính đến các sự tương tác thực tế (không chỉ hạn chế bởi tính pháp lý) dẫn đến việc áp dụng lý thuyết hệ thống vào việc phân tích các hiện tượng chính trị. Khái niệm hệ thống chính trị ra đời từ nhu cầu này.

một sự sắp đặt có tính ràng buộc các hành vi để thực hiện được việc đáp ứng các nhu cầu và các chức năng, tức mục tiêu chung của toàn bộ hệ thống. Các ràng buộc (cơ chế) như vậy có thể là các thể chế mang tính pháp lý (thể hiện qua quyền hạn và nhiệm vụ của các tổ chức), có thể là các cấu trúc nhóm, hay cấu trúc văn hóa... b) Môi trường: Môi trường cần được phân biệt với hệ thống do tính tương tác của chúng. Sự xác định biên giới giữa hệ thống chính trị với môi trường của nó không phải khi nào cũng dễ dàng. Cách đơn giản nhất là dùng biên giới địa lý. Tuy nhiên, còn có các môi trường khác mà hệ thống chính trị nằm trong như môi trường sinh học, môi trường văn hóa, tâm lý,... Hơn thế nữa, bản thân HTCT cũng có thể bị tác động từ môi trường của một HTCT khác. Sự phân biệt giữa HTCT và môi trường có ý nghĩa quan trọng vì đó là tiền đề để xem xét các quá trình tương tác theo ba yếu tố: đòi hỏi (đầu vào – input), xử lý các đòi hỏi, và các quyết định đáp ứng (đầu ra – output) c) Phản hồi: đây là khái niệm để chỉ sự giao tiếp, tương tác ngay trong hệ thống. Đó cũng có thể coi là các đòi hỏi từ bên trong của hệ thống. Sự phản hồi được bộc lộ qua các quá trình đáp ứng với đòi hỏi của môi trường cũng như sự phản ứng với các kết quả đầu ra của hệ thống. Nó thể hiện sự tương tác bên trong và khả năng tự điều chỉnh của hệ thống. Sự phát triển và sự vận hành cảu hệ thống phụ thuộc rất nhiều vào mạng lưới thông tin phản hồi này. d) Đáp ứng: Đây là chức năng chính của hệ thống. Cấu chúc cơ chế của hệ thống như trên đề cập cũng được xác định từ việc thực hiện sự đáp ứng của hệ thống đối với các đòi hỏi của môi trường bên ngoài. Các đòi hỏi này chính là sự biểu đạt các nhu cầu cần phải được thực hiện. Đối với HTCT, việc thực hiện các nhu cầu đó cũng đòi hỏi việc phân cho HTCT các quyền lực tương ứng. Có thể thấy có 4 nhóm nhu cầu chính của xã hội đối với HTCT là: 1) Đòi hỏi về sản xuất và phân phối các hàng hóa, dịch vụ công cộng; 2) Đòi hỏi về điều chỉnh hành vi; 3) Đòi hỏi về tham gia vào hệ thống chính trị; và 4) Đòi hỏi về cung cấp thông tin.

Như vậy, lý thuyết hệ thống coi toàn bộ các hoạt động của đời sống chính trị như một chỉnh thể có khả năng tiếp nhận, xử lý và chuyển hóa các đòi hỏi (từ cả bên trong và bên ngoài) thành các quyết định chính trị. Ở cấp độ lý thuyết chung và phân tích vĩ mô, cách tiếp cận như vậy tỏ ra hữu dụng và dễ nắm bắt. Tuy nhiên, ở cấp độ phân tích các trường hợp cụ thể, có tính kinh nghiệm thực chứng, đòi hỏi tính định lượng, cách tiếp cận này lại không tỏ ra thích hợp. Thậm chí, nếu quá nhấn mạnh (hoặc coi nó là lý thuyếtt toàn năng) có thể dẫn đến quyết định luận, hay các ảo tưởng về tính khoa học của các giải thích hời hợt về các hiện tượng chính trị phức tạp. Quá trình chuyển hóa các đòi hỏi thành các quyết định đáp ứng là một quá trình chưa được nghiên cứu rõ rệt. Người ta gọi đây là “hộp đen” – sự chứa đựng những mối quan hệ chính trị, những tương tác thực sự mà việc làm cho chúng hiển minh là không dễ dàng. Hơn nữa, các hệ thống chính trị trong thực tế là luôn thay đổi và biến hóa nhiều hơn người ta tưởng do sự ổn định và cân bằng mà khuôn khổ pháp lý mang lại.

Cách tiếp cận hệ thống theo cấu trúc chức năng Với cách nhìn nhận như trên, lý thuyết hệ thống đã được kế thừa và phát triển. Một trong những phát triển đó là cách tiếp cận cấu trúc chức năng. Đây là cách tiếp cận được sử dụng rộng rãi nhất trong chính trị học so sánh như đã đề cập với các đại diện tiêu biểu như: G. Almond, David Apter, Ư. Mitchell.... Cách tiếp cận này nhấn mạnh mối quan hệ nội tại giữa cấu trúc và chức năng trong một hệ thống và cho rằng những chức năng thiết yếu phải được thực thi để cho hệ thống có thể tồn tại. Như vậy, vấn đề trung tâm là phải xác định đâu là những chức năng thiết yếu, căn bản nhất của một HTCT. Lập luận chính của trường phái này quan niệm rằng con người hoạt động theo những cách thức ổn định, không dễ dàng thay đổi. Việc lặp đi lặp lại các cách thức đó, trong thực tiến, sẽ dẫn tới (hoặc chính là nền tảng hợp lý) của các cấu trúc. Nếu vậy, cấu trúc không có gì khác hơn là những mối quan hệ nội

Chủ đề