1. Đặc trưng về nội dungĐặc sắc nhất của Thơ mới, những gì còn lại qua thời gian, là đã xây dựng được hình ảnh một cái tôi cá nhân – cá thể. Theo chúng tôi, cái tôi Thơ mới có hai đặc điểm lớn: Show
Một cái tôi ấp ủ tinh thần dân tộc:Tuy các nhà thơ mới không đủ dũng khí đối diện với hiện thực để phản ánh như các nhà thơ hiện thực trào phúng, cũng không dám đấu tranh giành độc lập dân tộc như các nhà thơ cách mạng, họ tìm đến con đường thoát ly hiện thực như một giải pháp an toàn, nhưng không có nghĩa họ hoàn toàn toàn thờ ơ, quay lưng lại với dân tộc mình.Đây đó trong một số bài Thơ mới, ta bắt gặp một thái độ phủ nhận đối với thực tại đen tối, một tâm sự đau buồn trước tình cảnh đất nước lầm than. Không một nhà thơ mới nào lên tiếng ủng hộ giai cấp thống trị, hoặc công nhận trật tự xã hội bấy giờ là tốt đẹp. Họ biết rõ ai là “mẹ thật”, ai là “mẹ ghẻ” của mình. Trong khi có một số tác phẩm của Tự lực văn đoàn còn ngợi ca trật tự xã hội đương thời, tô hồng lối sống tư sản thì các nhà thơ mới luôn quay lưng lại hiện thực đen tối. Họ thấy cuộc đời toàn những cảnh tù hãm đau xót: “Đời cũng đìu hiu như dặm khách” (Xuân Diệu) “Quê hương ơi trăm năm như giấc điệp (Tế Hanh) – “Mẹ ơi ! sao mẹ giống (Huy Cận) Mượn lời con hổ “nhớ rừng”, Thế Lữ cũng nói lên tình trạng “sa cơ, nhục nhằn, tù hãm” mất tự do và khao khát tự do của cả dân tộc ta lúc bấy giờ. Trong Thơ mới, ta cũng bắt gặp hình ảnh những con người mang lý tưởng đẹp đẽ. Ở người khách chinh phu trong “Tiếng gọi bên sông” của Thế Lữ, dù chưa có được cái “hùng tâm tráng chí” của người cách mạng nhưng đã dám “dấn bước truân chuyên khắp hải hồ”, ra đi vì “ghét lũ vô nhân giận nỗi đời”, từ chối mọi hạnh phúc riêng, kể cả tình yêu để kiếm tìm, thực hiện lý tưởng. Trong bài “Con voi già”, Huy Thông đã ca ngợi hình ảnh của Phan Bội Châu, của người chí sĩ cách mạng nói chung, tuy chiến bại mà vẫn uy nghi lẫm liệt… Cũng có nhà thơ, trước tình cảnh lầm than của đất nước đã tìm về quá khứ vàng son với một lòng hoài niệm xót đau. Chế Lan Viên là một nhà thơ như thế. Nhà thơ mượn chuyện dân tộc Chiêm Thành để thổ lộ nỗi đau thầm kín của một người dân Việt Nam mất nước. Chiêm Thành với những đổ nát tan tành hôm nay cũng giống như đất nước Việt Nam đang chìm đắm trong lầm than nô lệ, trở về quá khứ rực rỡ huy hoàng của Chiêm Thành trong quá khứ cũng là khao khát của thi sĩ về độc lập, tự do cho đất nước. Bởi vậy không phải ngẫu nhiên có lúc, nhà thơ cách mạng Tố Hữu đã ít nhiều gặp gỡ Thế Lữ, Huy Thông, Chế Lan Viên. Tố Hữu nói: “Trong tâm hồn của các anh lúc đó, tôi tìm thấy những nỗi băn khoăn đau buồn của những người cùng thế hệ, đòi hỏi tự do, ước mơ hạnh phúc, tuy các anh chưa tìm thấy lối ra và nhiều khi rơi vào chán nản”. Nhưng phải nói rằng, tinh thần dân tộc ở các nhà Thơ mới thể hiện rõ nhất trong việc ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên đất nước, ca ngợi những giá trị văn hoá cổ truyền, và đặc biệt là tình yêu đối với tiếng Việt. Mỗi nhà thơ có thể tìm đến một khung cảnh gắn với những ký ức, những kỷ niệm riêng tư. Đây là hình ảnh một làng sơn cước thuộc Hương Sơn – Hà Tĩnh, ở tả ngạn sông Thâm, bên núi Mồng Gà trong thơ Huy Cận: “Tới ngã ba sông nước bốn bề Nửa chiều gà lạ gáy trên đê” Đây là hình ảnh đẹp và thơ của Vĩ Dạ trong thơ Hàn Mặc Tử: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền” Đây là hình ảnh sông nước Quảng Ngãi trong thơ Tế Hanh: “Làng tôi vốn làm nghề chài lưới Nước bao vây cách biển nửa ngày sông Khi trời trong, gió nhẹ sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá” Và đây là hình ảnh mùa xuân ở Bình Định trong thơ Chế Lan Viên: “Hàng dừa cao say sưa ôm bóng ngủ Vài quả xanh khảm bạc hớ hênh phô Xoan vườn cành khoèo mặt trời rực rỡ Bên bóng râm lơi lả nhẹ nhàng đu…” Đặc biệt có một hình ảnh xuất hiện rất nhiều trong Thơ mới, đó là hình ảnh làng quê Việt Nam, vùng Bắc Bộ. Trong thơ Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ… ta thấy hiện lên không gian sống rất thân thuộc với mỗi người, những thôn Đoài, thôn Đông, bến đò, gốc đa, quán chợ, cổng làng, mái nhà tranh, giậu mùng tơi, rặng hoa xoan, hàng hoa phượng… Các nhà thơ mới cũng có xu hướng tìm về những giá trị văn hoá cổ truyền. Đoàn Văn Cừ miêu tả “Chợ Tết”, Vũ Đình Liên viết về “Ông đồ” bằng tất cả những gì yêu thương, trìu mến nhất cùng sự nuối tiếc về những giá trị văn hoá đang dần bị mai một theo thời gian… Tấm lòng đó của các nhà thơ mới thật đáng trân trọng ! Có một tình yêu vừa tha thiết, vừa đằm sâu, vừa đau đáu trong Thơ mới. Tình yêu đó vừa bộc lộ ở dạng thức cảm xúc vừa thể hiện ra bằng hành động cụ thể, đó là tình yêu đối với tiếng mẹ đẻ. Thời kỳ đó, tiếng Pháp mới là ngôn ngữ chính thống còn tiếng Việt bị khinh rẻ như một nàng hầu. Trong khi có những nhà văn chuyên viết văn bằng tiếng Pháp thì các nhà Thơ mới đã hết lòng yêu thương và bảo vệ tiếng Việt. Huy Cận có một bài thơ hay ca ngợi ngôn ngữ của dân tộc: “Nằm trong tiếng nói yêu thương Nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời Sơ sinh lòng mẹ đưa nôi Hồn thiêng đất nước cũng ngồi bên con Tháng ngày con mẹ lớn khôn Yêu thơ, thơ kể lại hồn ông cha Đời bao tâm sự thiết tha Nói trong tiếng nói lòng ta thuở giờ…” Nhưng phải nói, tình yêu tiếng Việt bộc lộ rõ nhất qua thực tiễn sáng tác. Nhiều nhà thơ không gọi thành tên thứ tình cảm đó nhưng trong sáng tác của họ, ta thấy họ miệt mài, chắt chiu, vun đắp, sáng tạo trong cách dùng từ, đặt câu góp phần làm phong phú kho từ vựng tiếng Việt và làm trong sáng, linh hoạt, hoàn thiện, uyển chuyển câu văn Việt, ngữ pháp Việt… Trên đây là đặc điểm thứ nhất của cái tôi Thơ mới. Có nhiều nhà nghiên cứu không mấy để ý đến điều này, nhưng chúng tôi cho rằng đây là một đặc điểm quan trọng tạo nên ý nghĩa tích cực của tiếng nói cá nhân trong Thơ mới. Một cái tôi buồn và cô đơn:Trước hết, cần khẳng định rằng: Thơ mới lãng mạn vẫn có nhiều bài thơ yêu đời, yêu cuộc sống, ca ngợi nét đẹp của tình yêu trong sáng hồn nhiên tuổi học trò, những kỷ niệm tươi thắm của một thời e ấp như “Xuân đầu”, “Tặng thơ” (Xuân Diệu), “Đi giữa đường thơm” (Huy Cận), “Chùa Hương” (Nguyễn Nhược Pháp), “Tương tư” (Nguyễn Bính)… Nhưng dựa vào đây để nói rằng cái tôi Thơ mới yêu đời thì không thỏa đáng. Có thể nói, sắc nét hơn cả ở thơ lãng mạn vẫn là cái tôi buồn bã và cô đơn. Thơ mới từ khi ra đời đã “buồn từ trong bản chất”. Nỗi buồn này xuất phát từ nguyên nhân chủ quan và khách quan. Về nguyên nhân chủ quan: Nhiều nhà thơ mới phải trả qua cảnh ngộ éo le, cuộc đời nhiều chuyện đau buồn, thậm chí bất hạnh ngay từ “những ngày thơ ấu”. Xuân Diệu là con một bà vợ bé, phải sống với mẹ cả, chịu sự khinh miệt, bị đối xử lạnh lùng. Lưu Trọng Lư cũng là con một bà vợ bé, ngay từ nhỏ đã phải chứng kiến những giọt nước mắt buồn tủi của mẹ cho đến khi bà nhắm mắt. Huy Cận sinh ra trong một gia đình nhà nho phong kiến tàn tạ, có nhiều chuyện bất hòa, không vui. Tế Hanh là con một ông đồ từng tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, sau bị thực dân quản thúc. Hàn Mặc Tử mắc bệnh hiểm nghèo khi tuổi đời còn quá trẻ, tài năng đang ở độ chín… Tất cả những cái buồn trong cuộc đời thực đã biến thành những dòng lệ trong văn chương. Về nguyên nhân khách quan (đây mới là nguyên nhân chủ yếu): Nỗi buồn riêng của họ lại bắt gặp một tiếng khóc dài trong văn học (nỗi buồn trong sáng tác của những bậc đàn anh). Cái đau buồn riêng đã gặp cái đau buồn của xã hội, cái tủi nhục mất nước. Thi sĩ lãng mạn vì không có sự gắn bó mật thiết với các phong trào đấu tranh lành mạnh chống thực dân phong kiến của nhân dân, của dân tộc, họ e sợ không dám tham gia vào cuộc đấu tranh đó nên tìm cách lẩn tránh bằng con đường thoát ly. Họ trốn vào vỏ bọc cá nhân tưởng là bình yên nhưng càng đào sâu vào cái tôi họ càng cảm giác buồn, bất an, bơ vơ, mất phương hướng. Hoài Thanh đã đúng khi nói về tình trạng cô đơn cùng cực của cái tôi Thơ mới: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ra đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh… Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thuở trước” (“Thi nhân Việt Nam”) Nỗi buồn của cái tôi Thơ mới thực ra có nhiều cung bậc biểu hiện đa dạng và phức tạp. Có cái buồn hắt hiu, cái buồn mưa gió, cái buồn “tràng giang”, cái buồn “điệp điệp”, cái buồn đứng, cái buồn ngồi, cái buồn tàn tạ, cái buồn đưa ma tiễn cảnh đời tàn vào cõi chết… Qua các chặng đường của Thơ mới, cái buồn như mỗi lúc một nhân lên. Ở thơ Thế Lữ thời kỳ đầu mới chỉ là cái buồn “xa vắng”, “mênh mông”, đến Lưu Trọng Lư và Xuân Diệu, cái buồn ấy đã trở nên thấm thía. Lưu Trọng Lư nghe thấy một tiếng gà trưa mà cảm thấy: “Tiếng gà gáy buồn nghe như máu ứa, Chết không gian khô héo cả hồn cao” Còn Xuân Diệu, một con người yêu đời, say đời là thế mà cũng không tránh khỏi cảm giác buồn, đổ vỡ: “Vàng son đang lộng lẫy buổi chiều xanh Quay mặt lại cả lầu chiều đã vỡ” Vũ Hoàng Chương thì nghe mưa rơi lá rụng mà thấy “đời hiu hiu xế tà”, thấy buồn suốt cả cuộc đời. Nhưng phải nói cái buồn da diết ảo não nhất là trong thơ Huy Cận. Nó bàng bạc khắp không gian, kéo dài trong thời gian, đó là nỗi sầu nhân thế, nỗi sầu “vạn cổ” từ “Lửa thiêng” cho đến “Kinh cầu tự”… Đi liền với nỗi buồn là sự cô đơn, nhưng cái cô đơn của cái tôi Thơ mới cũng thật đặc biệt. Nhà thơ xưa, chỉ có một mình uống rượu dưới trăng, đối diện với bóng của mình, cô đơn lẻ loi, đã đành. Nhà thơ mới sống giữa bao nhiêu người vẫn cảm thấy cô đơn: “Trăng sáng, trăng xa, trăng lạnh quá Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ” Phải chăng cô đơn của nhà thơ xưa là cô đơn hướng ngoại, còn cô đơn của nhà thơ mới hướng nội sâu sắc, trở thành một đặc điểm thường trực khi họ không tìm được một điểm tựa vững chắc trong đời, nơi nào cũng thấy chông chênh, mong manh,dễ đổi thay, dễ đổ vỡ… Nhà thơ mới luôn có tâm trạng “ngơ ngác y như lạc giữa đời”. Thế Lữ như “một kẻ bộ hành ngơ ngác” trên con đường vắng, Lưu Trọng Lư như “con nai vàng ngơ ngác trong rừng thu”, còn Xuân Diệu thì tự ví mình: “Tôi là con nai bị chiều đánh lưới Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối…” Huy Cận thì thấy mình “lủi thủi”, “suốt cuộc đời như núi đứng riêng tây”. Vũ Hoàng Chương thì nhận thấy: ”Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ Một đôi người u uất nỗi chơ vơ…” Cảm nhận về sự cô đơn thấm thía nhất phải nói đến Xuân Diệu. Càng yêu đời, khao khát giao cảm gắn bó với đời khi chỉ nhận được sự lạnh lùng thì càng cảm thấy cô đơn. Mượn “Lời kỹ nữ”, ông diễn tả cảm giác cô đơn đó: “Em sợ lắm, giá băng tràn mọi nẻo Trời đầy trăng lạnh lẽo khắp xương da” Vì buồn và cô đơn, cái tôi trong Thơ mới tìm cách thoát ly, trốn vào nhiều nẻo. Trở về quá khứ với hi vọng tìm lại ánh hào quang, huy hoàng rực rỡ là con đường mà nhiều nhà Thơ mới đã đi, điển hình là Huy Cận và Chế Lan Viên. Chế Lan Viên tìm lại quá khứ vàng son của nước Chiêm Thành nhưng quá khứ vàng son đối lập với hiện tại đổ vỡ, tan nát, càng làm cho hiện tại trở nên xám xịt, lầm than. Huy Cận cũng tìm về quá khứ xa xưa, nhưng trên con đường heo hút đó, không những không nguôi cảm giác buồn mà nhiều lúc nhà thơ thấy rợn ngợp trước cái xa vắng của thời gian, cái mênh mông vô cùng vô tận của không gian, cảm nhận mình chỉ là: “Một chiếc linh hồn nhỏ Mang mang thiên cổ sầu” Tìm về quá khứ không trốn được cô đơn, nhà thơ mới tìm đến cuộc sống ở một thế giới khác. Từ trước khi Thơ mới xuất hiện, cái tôi lãng tử Tản Đà đã xuất hiện hồi đầu thế kỷ giữa văn đàn với bao giấc mơ tiên, muốn được lên “hầu trời”; “muốn làm thằng Cuội”… để thỏa mãn cái tôi phóng túng, chán cảnh trần gian mà hướng về thượng giới. Đến Thơ mới, ta bắt gặp một Thế Lữ say sưa với “tiếng sáo Thiên thai”, Chế Lan Viên với khao khát: “Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh Một vì sao trơ trọi cuối trời xa Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo” Và đến Hàn Mặc Tử, những tác phẩm càng về cuối đời càng thấy ngự trị bao trùm là một cõi – “ngoài cõi người”: cõi “Thượng thanh khí”, nơi có những “Cẩm châu duyên”, “Duyên kỳ ngộ”, “Quần tiên hội”… Ở thi sĩ bất hạnh này, cõi siêu hình mà ông vươn tới còn chứa đựng một niềm tin tôn giáo mãnh liệt với hình ảnh thánh nữ đồng trinh, đức mẹ Maria – điểm tựa tinh thần duy nhất của nhà thơ những năm tháng cuối đời. Trong tất cả những con đường thoát ly hòng trốn tránh sự cô đơn, con đường phổ biến nhất mà nhiều nhà thơ mới đã trải qua là con đường tình yêu. Thơ tình yêu tràn ngập trên báo chí, trong sách vở đương thời. Nhà thơ mới nào cũng có khoảng mươi bài thơ về tình yêu, đến nỗi chính Xuân Diệu – ông hoàng của thơ tình mà đã phải thốt lên: “những giọng anh em đầy rẫy trong văn chương, không khí trĩu nặng những chàng những nàng, không khéo thở thì đến chết ngạt mất”. Trong Thơ mới, gương mặt tình yêu cũng thật đa dạng, có đủ sắc độ bảy thứ tình: cái tình non, cái tình già, cái tình mới hé, cái tình nở hoa, cái tình thấp thoáng, cái tình mặn mà, cái tình chia li… Và tình yêu của cái tôi Thơ mới cũng trải qua khá nhiều chặng đường. Ban đầu, tình yêu vẫn còn đầy khoảng cách, dường như yêu mới chỉ là một khái niệm, một cảm xúc chỉ ở trong lòng, chưa thể, chưa dám bày tỏ. Cho nên, trong thơ tình Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, yêu mà chỉ “kính nhi viễn chi”; đứng xa mà ngắm “cô em” , chiêm ngưỡng vẻ đẹp của người yêu như ngắm một nhan sắc, một cái đẹp nghệ thuật hơn là một người tình bằng xương bằng thịt. Đến Huy Cận, khoảng cách tình yêu được rút ngắn, đó là tình yêu ban đầu “trong như suối”, phảng phất chút “thần tiên” thơ mộng. Với anh, “em” chính là ánh sáng, là hương thơm, là niềm vui, là cả trời đất đầy ý nghĩa, cả khi “em đến” và khi: “Em nói, anh nghe tiếng lẫn lời Hồn em anh thở ở trong hơi Nắng thơ dệt sáng trên tà áo Lá nhỏ mừng vui phất cửa ngoài” Trong thơ Nguyễn Bính, tình yêu cũng thật đẹp, thật duyên dáng. Đó là cái tình chất phác của một chàng trai chân quê, yêu say đắm mà cũng thật kín đáo, ý nhị, ngại tỏ bày nhưng nhiều lúc trách móc, giận hờn vu vơ, rồi nhiều khi khó nói, mượn cả những cỏ cây quê nhà mà gửi lời yêu thương trìu mến… Đến Xuân Diệu, Thơ mới biết đến một tình yêu đúng nghĩa, nồng nàn, mãnh liệt: ”Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi ! Và những khát khao gần gũi “vô biên và tuyệt đích”: “Hãy sát đôi đầu ! Hãy kề đôi ngực ! Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài ! Những cánh tay ! Hãy quấn riết đôi vai ! Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt Cho anh nghe đôi hàm ngọc của răng” Nhưng tình yêu cuồng nhiệt trong thơ Xuân Diệu cũng đi liền với cảm giác “xa cách”, yêu cuồng nhiệt mà không được thỏa vì yêu không đơn thuần là sự gần gũi thể xác mà là sự gặp gỡ tâm hồn, nên trong gặp gỡ đã thấy chia li, trong khát vọng đã vội dâng lên thất vọng. Và Xuân Diệu cảm nhận rõ ràng về cảm giác “Cho rất nhiều song nhận chả bao nhiêu”, vì: “Lòng anh là một cơn mưa lũ Đã gặp lòng em là lá khoai Mưa biếc tha hồ rơi giọt ngọc Lá xanh không ướt đến da ngoài…” Cho nên mới nói trong tình yêu, Xuân Diệu vồ vập nhất, ham hố nhất mà cũng cô đơn thấm thía nhất. Hóa ra, đường tình đâu phải là con đường dễ đi, và càng không dễ với những ai có ý định trốn vào nó mà tìm sự bình yên ! Đến chặng đường cuối cùng, khi cái tôi Thơ mới rơi vào bế tắc, thì gương mặt tình yêu cũng biến dạng, méo mó khi Vũ Hoàng Chương tìm đến “Thơ say” mà ca ngợi tình yêu xác thịt: “Hai xác thịt lẫn vào nhau mê mải Chút ngây thơ còn lại cũng vừa chôn” Rõ ràng là từ những câu chuyện tình yêu với những kết cục buồn của cái tôi Thơ mới đã đặt ra một vấn đề: Tình yêu đâu phải đơn thuần chỉ là chuyện cá nhân, chuyện của hai người. Đó còn là vấn đề mối liên hệ vững chắc giữa cá nhân đó với tập thể, với môi trường xung quanh. Tình yêu đó nếu chỉ vì mình hoặc cùng lắm vì người mình yêu mà quên đi bao người khác thì đôi tình nhân dù có quấn quýt, yêu thương nhau tha thiết (chứ chưa nói đến chuyện hờ hững như trong thơ Xuân Diệu), thì hình ảnh họ trong thơ vẫn cô đơn, tội nghiệp. Mất đi căn cốt lành mạnh là điểm tựa xã hội, tình yêu của cái tôi trong Thơ mới cuối cùng chỉ thu hẹp lại trong quan niệm “xác thịt” âu cũng là điều dễ hiểu. Nói tóm lại, cái tôi trong Thơ mới dù trốn vào nhiều nẻo, nhưng ở đâu nó cũng buồn và cô đơn. Mặt tích cực của tâm trạng này là nó thể hiện chân thật, thấm thía thái độ thù địch, không chấp nhận đối với trật tự xã hội đương thời – xã hội thực dân nửa phong kiến, bóp nghẹt tự do, kìm hãm sự phát triển và ngăn cản con người tìm đến hạnh phúc. Nhưng mặt khác, tác động tiêu cực của cái buồn, sự cô đơn trong Thơ mới là nó dễ làm cho người ta say sưa trong cái buồn vơ vẩn, cô đơn, chán nản, làm mất nhuệ khí đấu tranh, ít nhiều hạn chế việc tham gia các phong trào cách mạng của một bộ phận thanh niên trí thức đương thời. Vả lại, cái đáng nói hơn nữa là ở quan niệm và cách ứng xử của nhà thơ mới trước cái buồn, cái cô đơn. Nếu coi cô độc là một căn bệnh của cái tôi lãng mạn thì vấn đề là: liệu người ta có muốn thoát khỏi tình trạng đó không, có muốn chữa khỏi căn bệnh đó không mới là điều quan trọng. Khi Lưu Trọng Lư viết: “Hãy lịm người trong thú đau thương” và Xuân Diệu viết: “Rồi bị thương người ta giữ gươm đao/ Không muốn chữa, không chịu lành thú độc”, khi “đau thương” mà trở thành cái “thú”, cô đơn trở thành niềm kiêu hãnh không muốn chữa lành thì cái tôi trong Thơ mới kia, ngàn đời vẫn như ngọn Hy Mã Lạp Sơn cao vút, sẵn sàng gánh chịu nỗi giá rét ngàn đời, tự hào kiêu hãnh trong cảm giác được “Là Một. Là Riêng. Là Thứ nhất” . Chủ đề Thơ mớiTập tin đính kèm Xem Đọc bài Lưu Ngày báo cáo: 10/01/2018 Chuyên đề: CHỦ ĐỀ THƠ MỚI Tám mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Thơ mới ra đời, tạo nên bước ngoặt trong lịch sử thơ ca Việt Nam, trải qua bao thăng trầm, có những lúc “đứng không vững, ngồi không yên” nhưng Thơ mới cùng với thời gian đã được trả về đúng với giá trị đích thực của nó. Dòng Thơ mới xuất hiện trên văn đàn nước ta dào dạt nguồn sống, mới mẻ, thanh tân từ nội dung cho đến nghệ thuật thể hiện. Đánh giá Thơ mới, Vương Trí Nhàn cho rằng “Ảnh hưởng của Thơ mới diễn ra trên phạm vi toàn xã hội…Phải nói Thơ mới đã in dấu của nó vào cả thế kỷ” còn Lê Đình Kỵ thì khẳng định “Thơ mới là cả một bước phát triển quan trọng, xét về một mặt nào đó là cả cuộc cách mạng trong tiến trình của thơ ca Việt Nam, đưa thơ cổ điển Việt Nam đạt đến hiện đại”. Có thể nói, Thơ mới là cả “một cuộc cách mạng trong thi ca”, khơi nguồn và mở ra một miền sáng tạo mới dào dạt, tươi tắn của thơ ca nước nhà. Việc dạy và học thơ mới từ lâu đã là một nội dung trọng tâm trong trường THPT. Đặc biệt với các em học sinh lớp 11, các em dành một lượng thời gian lớn để tìm hiểu về các tác giả, tác phẩm trong phong trào thơ mới. Với những tác phẩm thơ mới kiệt xuất, có sự đổi mới, sáng tạo lớn lao, học sinh được tiếp cận với các phong cách sáng tác đa dạng, tiếp thu những tư tưởng năng động, mang âm hưởng thời đại. Phần kiến thức này còn liên quan trực tiếp đến nội dung thi THPT Quốc gia, thi học sinh giỏi. Xét thấy tầm quan trọng của vấn đề, chúng tôi mạnh dạn xây dựng chủ đề thơ mới để học sinh có cái nhìn toàn diện, bao quát hơn về phong trào thơ kiệt xuất này. I. CHUẨN KIẾN THỨC KĨ NĂNG VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC 1. Chuẩn kiến thức, kĩ năng - Hiểu và cảm nhận được những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm thơ Mới trong chương trình: Vội vàng, Tràng giang, Đây thôn Vĩ Dạ, Tương tư và Chiều xuân. - Hiểu được đặc trưng của thơ mới, sự khác biệt giữa thơ mới và thơ trung đại. - Biết cách đọc – hiểu tác phẩm thơ mới. 2. Năng lực hướng tới: - Năng lực thu thập thông tin liên quan đến các tác giả và tác phẩm. - Năng lực giải quyết những tình huống đặt ra trong các văn bản. - Năng lực đọc – hiểu thơ theo đặc trưng thể loại. - Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về ý nghĩa của văn bản. - Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về nội dung và nghệ thuật của văn bản. - Năng lực giao tiếp khi thuyết trình, hùng biện - Năng lực công nghệ thông tin khi vận dụng vào những nội dung báo cáo cụ thể II. BẢNG MÔ TẢ CÁC MỨC ĐỘ ĐÁNH GIÁ CHỦ ĐỀ THƠ MỚI THEO ĐỊNH HƯỚNG NĂNG LỰC
III. BẢNG MÔ TẢ CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP MINH HỌA CHO TỪNG BÀI HỌC 1. Câu hỏi minh họa cho bài “Khái quát thơ mới”.
2. Câu hỏi minh họa cho chủ đề thơ mới qua Vội vàng, Tràng giang, Đây thôn Vĩ Dạ, Chiều xuân, Tương tư:
IV. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC: 1. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh a. Chuẩn bị của học sinh: Đọc và soạn bài ở nhà theo hướng dẫn học bài; tham khảo những thông tin, tài liệu có liên quan đến bài học. b. Chuẩn bị của giáo viên: Đọc SGK, tài liệu tham khảo về chủ đề; Chuẩn bị phương tiện dạy học: máy tính, máy chiếu, tranh ảnh có liên quan đến bài dạy,… 2. Phương pháp dạy học chuyên đề + Phương pháp dạy học nêu vấn đề + Phương pháp dạy học hợp tác + Phương pháp phát vấn, đàm thoại + Phương pháp thuyết trình.
Tiết 1: KHÁI QUÁT VỀ THƠ MỚI
4. Củng cố, dặn dò a. Củng cố: - GV hệ thống hóa lại kiến thức bài học. - Từ cách đọc – hiểu trên, hãy xác định chủ đề của tác phẩm “Vội vàng” (HS trả lời, GV định hướng và chuyển sang phần dặn dò) b. Dặn dò: Tìm hiểu kĩ các tác phẩm thơ mới theo hướng vừa đề xuất ( cách 2) Tiết 2, 3: VỘI VÀNG (Xuân Diệu) A. KẾT QUẢ CẦN ĐẠT: Giúp học sinh: - Kiến thức: Cảm nhận được bức tranh thiên nhiên và cái tôi thi nhân của Xuân Diệu qua bài thơ: Vội vàng. - Kỹ năng: RLKN đọc- hiểu, phân tích, so sánh. - Thái độ: Trân trọng những nỗ lực cách tân của các tác giả thơ mới, tăng cường ý thức tự học, tự rèn luyện. B. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH: - Giáo viên: + Phương tiện: SGK, SGV ngữ văn 11, TLTK, Giáo án, bảng phụ. + Phương pháp: Hỏi đáp, phân tích, so sánh. - Học sinh: + Phương tiện: Sgk, Vở soạn, vở ghi. + Chuẩn bị: soạn bài. C. HOẠT ĐỘNG LÊN LỚP: 1.Ổn định tổ chức: 2. Kiểm tra bài cũ: 3. Bài mới.
Tiết 4 + 1/2t5: Đọc văn: TRÀNG GIANG ( Huy Cận ) A. KẾT QUẢ CẦN ĐẠT:. Giúp HS: - Kiến thức: Cảm nhận bức tranh nhiên nhiên và cái tôi của thi nhân; cảm nhận được nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, nỗi sầu nhân thế, niềm khao khát hoà nhập cuộc đời và tình cảm đối với quê hương đất nước của tác giả. Thấy được màu sắc cổ điển và hiện đại trong bài thơ mới. - Kỹ năng: Rèn kỹ năng phân tích tâm trạng trong thơ trữ tình. - Thái độ: Trân trọng nỗi buồn lãng mạn của các nhà thơ mới và tình yêu quê hương kín đáo của tác giả. B. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH: - Giáo viên: + Phương tiện: SGK, SGV ngữ văn 11, TLTK, Giáo án, bảng phụ. + Phương pháp: Hỏi đáp, phân tích, so sánh. - Học sinh: + Phương tiện: Sgk, Vở soạn, vở ghi. + Chuẩn bị: soạn bài. C. HOẠT ĐỘNG LÊN LỚP. 1. Ổn định tổ chức: 2. Kiểm tra bài cũ: Đọc thuộc lòng và phân tích lòng yêu đời, khao khát hoà nhập của Xuân Diệu trong Vội Vàng. 3. Bài mới:
Soạn bài mới 1/2t5 + t6: Đọc văn: ĐÂY THÔN VĨ DẠ. (Hàn Mặc Tử ) A. KẾT QUẢ CẦN ĐẠT: Giúp hs: - Kiến thức: Cảm nhận giá trị độc đáo của bài thơ qua phân tích nội dung, nghệ thuật. - Kỹ năng: RLKN đọc thơ trữ tình, phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình và nghệ thuật độc đáo của bài thơ. - Thái độ: Thông cảm và trân trọng tâm sự riêng của một thi sĩ chịu nhiều bất hạnh như Hàn Mạc Tử. B. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH: - Giáo viên: + Phương tiện: SGK, SGV ngữ văn 11, TLTK, Giáo án, bảng phụ. + Phương pháp: đọc hiểu-đọc diễn cảm, Phân tích, bình giảng, kết hợp so sánh, tái hiện, đàm thoại nêu vấn đề bằng hệ thống câu hỏi thảo luận nhóm. - Học sinh: + Phương tiện: Sgk, Vở soạn, vở ghi. + Chuẩn bị: soạn bài. C. HOẠT ĐỘNG LÊN LỚP: 1. Ổn định tổ chức: 2. Kiểm tra bài cũ: - Đọc thuộc lòng bài thơ Tràng giang (Huy Cận) - Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình. 3. Bài mới:
IV. Củng cố, dặn dò: Củng cố: Gv nêu câu hỏi để Hs củng cố bài: ? Cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên và tâm hồn tác giả qua bài thơ? Dặn dò: Hs học bài và soạn bài mới: Tiết 7: Đọc thêm: TƯƠNG TƯ ( Nguyễn Bính), CHIỀU XUÂN (Anh Thơ) A. KẾT QUẢ CẦN ĐẠT: Giúp HS: - Kiến thức: Nắm được nội dung và nghệ thuật cơ bản của các tác phẩm trên. - Kỹ năng: RLKN phân tích thơ, kỹ năng tự học - Thái độ: Có ý thức trang bị kiến thức về tác giả, rèn kỹ năng đọc và cảm thụ thơ. B. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH: - Giáo viên: + Phương tiện: SGK, SGV ngữ văn 11, TLTK, Giáo án, bảng phụ. + Phương pháp: đọc hiểu-đọc diễn cảm, Phân tích, bình giảng, kết hợp so sánh, tái hiện, đàm thoại nêu vấn đề bằng hệ thống câu hỏi thảo luận nhóm. - Học sinh: + Phương tiện: Sgk, Vở soạn, vở ghi. + Chuẩn bị: soạn bài. C. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP. 1. Ổn định tổ chức: 2. Kiểm tra bài cũ: 3. Bài mới:
Tập tin đính kèm Trình duyệt không hỗ trợ iframe. Tổng số điểm của bài viết là: 13 trong 3 đánh giá Click để đánh giá bài viết Hiển thị tin liên quan Tin liên quan Thảo luận cho bài: Phong trào thơ mới (1932 – 1945)Đôi nét về phong trào thơ mới - Thời kỳ đỉnh cao của văn học việt namPhạm Quỳnh từng nói: “Người ta nói tiếng thơ là tiếng kêu của con tim. Người Tàu định luật nghiêm cho người làm thơ thực là muốn chữa lại, sửa lại tiếng kêu ấy cho nó hay hơn nhưng cũng nhân đó mà làm mất đi cái giọng tự nhiên vậy.”
Dù là ở thời kì nào, văn học cũng có những thời kì hưng vịnh nhất định, cũng có những đóng góp vào sự phát triển của văn học nước nhà. Tuy nhiên không thể không thừa nhận, thời kì đánh dấu bước ngoặt quan trọng nhất của văn học Việt Nam là phong trào thơ mới. Phong trào thơ mới đã phá tan sự kìm cặp của thơ cũ với những định luật nghiêm khắc, giải phóng cái tôi nhân bản của các nhà thơ, và đưa thơ nước nhà vào giai đoạn sôi nổi nhất, rạo rực nhất. Một thời kì mà hàng loạt các bông hoa đua nở, toàn vẹn về cả tài năng lẫn đạo đức. |