Chúa giêsu sinh năm bao nhiêu

Thực ra, trong ba thế kỷ đầu (các Kitô hửu chỉ họp nhau để kỷ niệm việc Chúa Giêsu đã chịu đau khổ, đã chịu chết và đã sống lại. Đặc biệt tụ họp vào ngày thứ nhất trong tuần (Ngày Chúa Giêsu sống lại từ cỏi chết, Gioan 20,1...) và gọi ngày này là 'Chúa Nhật'. Việc cử hành phụng vụ này gọi là 'Nghi Lễ Bẻ Bánh' (ý nói đến việc cử hành nghi lễ 'Thánh Thể') (Tông Đồ Công Vụ đoạn 2, câu 42...). Trong những cuộc 'họp mặt' này, các Kitô hữu cùng gặp gỡ nhau, chia sẽ tình thân hữu và niềm tin, rồi cùng nhau cầu nguyện và dự 'Lễ Thánh Thể' (Nghi Thức Bẻ Bánh). Lúc đầu chưa có các 'Thánh Đường', nên thường tùy tiện họp mặt tại các tư gia hay nơi nào có thể được, như tại 'hành lang Salomon' (TĐCV 5:12...). Tuy nhiên việc 'Cử Hành' này cũng không được đều đặn, vì ngay từ lúc đầu các Kitô đã bị bách hại và xua đuổi. Đọc sách 'Tông Đồ Công Vụ' (The Acts of Apostles), ta thấy rõ điều này: trong khi các tông đồ và các tín hữu ra sức rao giảng 'Tin Mừng tình thương' của Chúa cho mọi người ở mọi nơi họ sống, thì họ cũng luôn bị những thế lực thù nghịch chống đối và bách hại; vì 'bóng tối' luôn thù nghịch 'Ánh Sáng'. Những người sống theo 'thế gian' thì thù ghét những ai sống ngược lại với lối sống của họ! Tất nhiên 'Thầy'của mình là Chúa Giêsu Kitô đã bị thù ghét, bị bắt, bị hành hạ và bị giết nhục nhã trên thánh giá, thì các môn đệ của ' Thầy'qua các thế hệ đều cũng bị bách hại cách này hay cách khác. Trong ba thế kỷ đầu thì các cuộc bách hại rất dữ dội ngay tại nơi đất nước quê hương của Chúa Giêsu và các tông đồ, và sau đó là ở khắp các nơi trong toàn Đế Quốc Rôma. Hơn nữa, lúc đó chưa có các tổ chức 'Bảo Vệ Nhân Quyền' hay 'Bảo Vệ Tự Do Tôn Giáo', nên các nhà cầm quyền tự do đàn áp và tàn sát các tín hửu và các vị lãnh đạo tôn giáo của họ, bất kể ở các chức vụ nào. Thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng đầu tiên, Thánh Phaolô và các Thánh Tông Đồ đều tử đạo, trừ Thánh Gioan thì bị lưu đày cho đến chết. Các vị Giáo Hoàng tiếp theo cũng như các thành phần trong Giáo Hội đều bị xua đuổi, bị bắt, bị tù đày và bị giết thảm khốc (nhất là dưới thời Hoàng Đế Nêron). 

Trong hoàn cảnh cực khổ đó, các vị lãnh đạo và các tín hữu tiếp tục giữ vững đức tin và tiếp tục rao giảng Tin Mừng và họp mặt cầu nguyện và cử hành nghi lễ 'Thánh Thể' bất cứ lúc nào và nơi nào có thể được để an ủi và nâng đỡ lẩn nhau trong cuộc sống đức tin đầy khó khăn như thế. (Xin xem thêm về chuyện các 'Hang Toại Đạo' 'Catacombs' tại Rôma ngày xưa). Cho mãi đến năm 313, khi một Hoàng Đế Rôma có tên là Constantinô Đại Đế (Constantine 'The Great', 280-337, theo đạo Công Giáo , Mẹ là Thánh Helene) ký hiệp ước Milan (Edit de Milan) để bảo đảm quyền tự do tôn giáo, lúc đó Giáo Hội mới được hưởng một thời kỳ an-bình (Paix de L'Eglise) và lúc đó, các Kitô hửu mới được hưởng chút tự do để thờ phượng Chúa và các Thánh Đường được xây cất, các buổi 'họp mặt' cầu nguyện, học hỏi Thánh Kinh và cử hành 'Lễ Thánh Thể mới được thường xuyên hơn. Tuy nhiên đến năm 336 mới thấy việc cử hành ngày Chúa Giáng Sinh (Christmas Day) xuất hiện trong lịch phụng vụ của Giáo Hội. Việc mừng Lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu chắc là trùng hợp với việc các Kitô hữu, khi đã được hưởng thời gian an bình để sống đạo, liền nghĩ đến việc hướng về quê hương của Chúa, nhất là nơi Chúa Giáng Sinh là thành Bêlem và hành hương kính viếng và chung tay xây cất Đền Thờ Chúa giáng sinh tại Bêlem vào năm 330. 

Vì ngày Chúa Giáng Sinh không được ghi rõ ràng trong các văn kiện lịch sử cũng như trong các sách Phúc Âm, nên Giáo Hội đã chọn một ngày thích hợp là 25 tháng 12 là ngày gần với ngày đông chí (winter solstice), ngày ngắn nhất đã qua và ánh sáng lại trở lại... và vì thế các dân tộc Trung Đông thời cổ hay mừng 'ngày ánh sáng' vào 25 tháng 12; rồi Giáo Hội muốn thánh hóa ngày này bằng việc kính nhớ ngày Thiên Chúa Giáng Sinh 'Trời Đất Giao Hoà'. Như vậy ngày 25 tháng 12 không phải là ngày có tính cách lịch sử mà chỉ là ngày kỷ niệm mừng Chúa xuống trần để giao hoà với nhân loại và loan báo tin mừng cứu độ (xin xem thêm 'Preaching the Lectionary' của R. H. Fuller). Đây chỉ là một việc làm theo 'thuận tiện', tạm ví như nhiều cụ khi ở Việt Nam thì không có thói quen mừng ngày sinh nhật (birthday) (tất cả chỉ mừng vào dịp Tết); nhưng đến Hoa Kỳ, giới trẻ thích sống theo văn hóa địa phương, đã có thói quen mừng'sinh nhật', và cũng muốn các bậc cha mẹ có một ngày để mừng cho con cháu vui vẻ trong gia đình. Các cụ nào không nhớ được ngày sinh nhật chính thức của mình, đã chọn một ngày nào đó; chẳng hạn có cụ chỉ nghe cha mẹ nói là mình sinh vào dịp tháng tám mưa bão, liền chọn một ngày trong tháng 8. Có cụ chỉ nhớ cha mẹ nói là sinh vào giữa mùa gặt (ở ngoài bắc thì vào tháng 5) nên chọn một ngày vào tháng 5. Kể cả việc ngày giỗ của một số vị trong gia đình cũng không thể đúng ngày; nhiều gia đình có chồng con mất tích trong cuộc chiến, khi biết chắc là đã chết, liền chọn một ngày để kính nhớ (thường hay chọn vào ngày nghe tin mất tích...) Ông cụ trong gia đình chúng tôi, ngày xưa hoạt động cho Quốc Dân Đảng, khi Việt Minh nổi lên, họ mời đi họp để 'cộng tác làm việc cứu quốc' và từ ngày đó là biệt tích luôn. Sau đó gia đình biết chắc đã chết, nhưng không biết chết làm sao và vào ngày nào, nên đã chọn ngày 'rời gia đình' để con cháu 'khói hương' kính nhớ. 

Vì ngày mừng lễ Giáng Sinh vào 25 tháng 12 hàng năm không xác thực theo lịch sử, nên thường có những ý kiến chống đối; đặc biệt vào thế kỷ 17 tại Anh Quốc, những người 'Thanh Giáo' (Puritans) đã nổ lực để yêu cầu xóa bỏ việc mừng lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu; nhưng mọi nổ lực đều thất bại, và việc mừng Chúa Giáng Sinh vào 25 tháng 12 hàng năm vẫn tiếp tục ở Anh Quốc cũng như khắp nơi trên thế giới. Hơn nửa, việc mừng lễ Giáng Sinh của Chúa không phải chỉ đơn thuần mừng ngày 'Sinh Nhật' của Chúa, mà còn có ý nghiã thiêng liêng chuẩn bị tâm hồn đón Chúa vào tâm hồn tín hữu, và ngày Chúa trở lại trần gian lần thứ hai trong ngày thẩm phán. Vì thế có gần một tháng để tín hữu chuẩn bị lễ Giáng Sinh, gọi là 'Mùa Vọng' (ngày xưa gọi là 'Mùa Áp') (Advent). Mùa Vọng là mùa Giáng Sinh khởi đầu niên lịch phụng vụ của Giáo Hội, tiếp theo là 'Mùa Thường Niên I', rồi đến 'Mùa Chay' (Lent) để chuẩn bị Đại Lễ Phục Sinh và Mùa Phục Sinh, rồi đến 'Mùa Thường Niên II' kéo dài đến 'Mùa Vọng' cho một niên lịch phụng vụ mới. 

Nơi đây chúng tôi cũng xin nói thêm là trước lễ Giáng Sinh 9 tháng, Giáo Hội có một ngày mừng lễ đặc biệt gọi là 'Lễ Truyền Tin' (Annunciation) để kỷ niệm giờ phút sứ thần Thiên Chúa báo tin cho Đức Maria biết Thiên Chúa đã chọn Ngài làm người được diểm phúc cưu mang và sinh Đấng Cứu Thế... Và Đức Maria đã 'Xin Vâng' (Luca 1, 26...). Đây chính là giờ phút rất quan trọng trong lịch sử ơn cứu độ, giờ phút 'Trời Đất Giao Hoà', 'Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Gioan 1,14). Chính vì thế mà trong toàn Giáo Hội có thói quen nguyện 'Kinh Truyền Tin' vào ba lúc quan trọng trong một ngày: sáng, trưa, chiều. Khi nghe tiếng 'Chuông Nguyện' mọi tín hữu đều ngưng các công việc để nguyện 'Kinh Truyền Tin' mà nhớ đến giây phút quan trọng này: 'Và Ngôi Lời đã nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria.' Rất nhiều nhạc sĩ, thi sĩ Công Giáo các nơi đã sáng tác các bài thánh ca hoặc các bài thơ diễn tả giây phút 'huyền nhiệm'nầy; đan cử như bài thơ của thi sĩ Hàn Mạc Tử, bài 'Theo Tiếng Thiên Thần xưa Kính Chào' của Hoàng Diệp, 'L'Annonce faite à Marie'' của Paul Claudel (văn hào Pháp). 

Ngày nay lễ Giáng Sinh (có nơi gọi là lễ 'No-en' 'Noel') càng ngày càng lan rộng đi khắp nơi, đến cả các dân tộc ở các vùng hẻo lánh, và ngay cả các nước còn đang dưới chế độ 'Cộng Sản' như Cuba, Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn cũng không thể ngăn cản dân chúng rầm rộ mừng lễ No-en. Đáng tiếc là ngày nay người ta đã 'thương mại hóa' dịp lễ này mà làm giảm đi phần nào ý nghĩa thiêng cao cả. Tuy nhiên điều 'lạm dụng' đó cũng không thể làm giảm đi tinh thần mừng lễ đích thực trong lòng những người thành tâm thiện chí (Abusus non Tullit Usum) và họ được hưởng 'ơn phúc lộc' an bình trong tâm hồn và trong gia đình họ, như lời các Thiên Thần hát mừng trong đêm Chúa Giáng Sinh: