Show
Phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt mỗi tháng nhưng đàn ông/ con trai có tới tháng không? Ngày đèn đỏ của đàn ông diễn ra thế nào? Con trai đến tháng ra gì? Khi đàn ông tới tháng cần làm những gì?
Thực tế là đàn ông cũng tới tháng. Tuy nhiên, chu kỳ sinh lý của đàn ông khác phụ nữ thế nào. Mời bạn cùng tìm hiểu những kiến thức xoay quanh ngày đèn đỏ của đàn ông! Con trai có tới tháng không?Giống như phụ nữ, đàn ông cũng trải qua sự thay đổi về nội tiết tố. Mỗi ngày, một người đàn ông có nồng độ testosterone tăng vào buổi sáng và giảm dần vào buổi chiều tối, mức testosterone thậm chí có thể thay đổi theo từng ngày. Sự thay đổi nội tiết tố này có thể gây ra các dấu hiệu giống như dấu hiệu của hội chứng tiền kinh nguyệt (PMS) ở phụ nữ bao gồm trầm cảm, mệt mỏi và thay đổi tâm trạng. Con trai có tới tháng không? Nhà tâm lý trị liệu Jed Diamond đã đặt ra thuật ngữ Hội chứng khó chịu ở nam giới (IMS) trong cuốn sách cùng tên của mình, để mô tả những biến động nội tiết tố và các dấu hiệu trong nghiên cứu. Ông tin rằng ngày đàn ông/ con trai đến tháng là những ngày đàn ông trải qua chu kỳ thay đổi hormone như phụ nữ. Tiến sĩ, nhà trị liệu tình dục Janet Brito cho biết, chu kỳ kinh ở phụ nữ và sự thay đổi nội tiết tố là kết quả của chu kỳ sinh sản tự nhiên để chuẩn bị thụ thai. Nam giới có mức testosterone có thể khác nhau và một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến nồng độ testosterone có thể gây ra những dấu hiệu có điểm tương đồng với các dấu hiệu của PMS. Con trai tới tháng hay ngày đèn đỏ của con trai thường bị ảnh hưởng bới các yếu tố:
Các dấu hiệu của IMS ở đàn ông tuy tương đối giống với dấu hiệu PMS ở phụ nữ nhưng lại không theo bất kỳ mô hình sinh lý nào giống như chu kỳ sinh sản ở phụ nữ. Điều này có nghĩa là những dấu hiệu ngày đèn đỏ của đàn ông không xảy ra thường xuyên và định kỳ. Các dấu hiệu của Hội chứng khó chịu ở nam giới (IMS) hay đàn ông đến tháng thường có những biểu hiện như:
Các dấu hiệu ngày đèn đèn đỏ của đàn ông có thể thường xuyên xảy ra khi mức testosterone tự nhiên trong cơ thể bắt đầu giảm. Tình trạng này thông thường được gọi là andropological, hay còn được gọi là mãn kinh nam. Trong trường hợp ở đàn ông có máu được tìm thấy trong nước tiểu hoặc phân, đây không phải là dấu hiệu kinh nguyệt như ở phụ nữ mà thường là do ký sinh trùng hoặc nhiễm trùng. Bất kể tình trạng nào gặp phải, bạn cũng cần gặp bác sĩ để có kế hoạch chẩn đoán và điều trị càng sớm càng tốt. Cách kiểm soát ngày đèn đỏ của đàn ông
Việc thực hiện các cách giúp duy trì hormone testosterone ở mức độ ổn định là mục tiêu chính để kiểm soát dấu hiệu ngày đèn đỏ ở đàn ông. Các phương pháp có thể bao gồm:
Có thể bạn quan tâm: 12 cách tăng testosterone tự nhiên cho đàn ông hồi xuân Vậy là bạn đã biết con trai có tới tháng không! Ngày đèn đỏ của đàn ông không gây ra quá nhiều sự thay đổi như phụ nữ, nhưng có thể là dấu hiệu cảnh báo sự suy giảm hormone testosterone. Vì thế, bạn hãy duy trì lối sống lành mạnh, chế độ ăn uống nghỉ ngơi đầy đủ để giúp hormone này luôn được kiểm soát ở mức ổn định. Các bài viết của Hello Bacsi chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa. Phẫu thuật chuyển giới (tiếng Anh: 'Sex reassignment surgery', viết tắt là 'SRS'), còn gọi là giải phẫu chuyển đổi giới tính, phẫu thuật xác định lại giới tính, phẫu thuật tái tạo bộ phận sinh dục, hoặc nói thông dụng chuyển đổi giới tính) là một dạng phẫu thuật nhằm sửa đổi các bộ phận sinh dục của một người từ giới tính nam sang nữ hoặc ngược lại (dương vật và tinh hoàn đối với nam; âm vật, âm đạo, tử cung và buồng trứng đối với nữ). Chú ý không nhầm lẫn "phẫu thuật chuyển giới" với khái niệm "chuyển đổi giới tính". Việc chuyển đổi giới tính bao gồm việc phẫu thuật chuyển giới và điều trị hoóc-môn lâu dài, như vậy có nghĩa là phẫu thuật chuyển giới chỉ là công đoạn đầu tiên của chuyển đổi giới tính. Một số vấn đề cần lưu ý đối với việc chuyển đổi giới tính:
Ngoài ra, cần lưu ý rằng việc phẫu thuật chuyển giới sẽ không thực sự biến một người từ nam sang nữ hoặc ngược lại, mà thực ra nó chỉ tạo cho họ một ngoại hình "mô phỏng" theo giới tính cụ thể mà họ muốn, còn nhiều đặc điểm khác thì không thể thay đổi được, ví dụ như:
Phẫu thuật chuyển giới thường được áp dụng với những người chuyển giới do mắc chứng bệnh mặc cảm giới tính - Gender dysphoria (tên cũ là "Rối loạn định dạng giới"), tuy nhiên vấn đề này gây ra nhiều tranh cãi về y đức (nên giúp các bệnh nhân này điều trị tâm lý để họ không còn muốn chuyển giới nữa, chứ không nên phẫu thuật cắt sửa những bộ phận khỏe mạnh của họ). Việc phẫu thuật chuyển đổi giới tính cũng có thể được thực hiện trên người lưỡng tính (tức là những người có bộ phận sinh dục bị khuyết tật, không xác định rõ là nam hay nữ), thường là trong giai đoạn trẻ em[2][3] Mục lục
Nguyên nhânSửa đổiNhững trường hợp bị khuyết tật bẩm sinh về cơ quan sinh dục khiến việc xác định giới tính trở nên không rõ ràng, cần phải phẫu thuật để chỉnh sửa khiếm khuyết thì gọi là "xác định lại giới tính". Việc phẫu thuật của họ không được coi là chuyển đổi giới tính mà chỉ là sự chỉnh hình lại để giới tính trở nên rõ ràng. Trong khi đó, người có mong muốn "chuyển đổi giới tính" thì có cơ thể hoàn toàn bình thường, nhưng về mặt tâm thần của họ có những biểu hiện sau:
Những trường hợp này còn gọi là Rối loạn định dạng giới (Gender Identity Disorder). Năm 1980, Hiệp hội Tâm thần học Mỹ (APA) chính thức phân loại Rối loạn định dạng giới là một dạng bệnh tâm thần[4]. Các điều khoản chẩn đoán về chuyển giới, rối loạn định dạng giới ở thanh thiếu niên và người trưởng thành được liệt kê chung trong Bảng phân loại quốc tế về bệnh (ICD) và Thống kê các chứng rối loạn tâm thần của Hội chẩn đoán y khoa Hoa Kỳ (DSM) dưới mã số F64.0, F64.1, 302,85 và 302,6 tương ứng.[5], đến năm 2015 thì được phân loại lại với mã số F64.8, F-64.9 và 302.8 cùng tên gọi mới là chứng bệnh mặc cảm giới tính (Gender dysphoria)[6][7]. Trung tâm cai nghiện và Sức khỏe tâm thần Hoa Kỳ xếp rối loạn này vào Mục DSM-V, kèm với đó là phác đồ điều trị của nhóm này[8]. Rối loạn định dạng giới cũng được phân loại như là một chứng rối loạn tâm thần bởi Trung tâm quốc tế về Phân loại bệnh và các vấn đề sức khỏe liên quan, biểu hiện của nó là những hành vi, thái độ chối bỏ giới tính của bản thân mình, gồm các tiêu chuẩn chẩn đoán[9]:
Ước tính có khoảng 0,005% đến 0,014% nam giới và 0,002% đến 0,003% nữ giới được chẩn đoán mắc chứng Rối loạn định dạng giới, dựa trên các tiêu chí chẩn đoán hiện tại[10] Rối loạn định dạng giới nếu không được phát hiện và chữa trị thì tâm lý trên sẽ trở nên mạnh hơn, bệnh nhân sẽ chối bỏ giới tính của cơ thể và muốn được tiến hành phẫu thuật chuyển đổi giới tính.[11] Tiến sĩ Paul R. McHugh – trưởng khoa tâm thần của Bệnh viện Johns Hopkins, Giáo sư tâm thần với danh hiệu phục vụ xuất sắc (Distinguished Service Professor) khẳng định: người chuyển giới (Transgenderism) là một rối loạn tâm thần và cần được điều trị, chuyển đổi giới tính thực ra là điều “không thể làm được về mặt sinh học”. Những người cổ vũ hợp pháp hóa việc phẫu thuật chuyển giới đã vô tình ủng hộ việc bệnh nhân rối loạn tâm thần tự tàn phá cơ thể mình, trong khi lẽ ra phải giúp họ tìm cách chữa trị về tâm thần. Phẫu thuật chuyển đổi giới tính không phải là cách giải quyết cho những người bị chứng bệnh mặc cảm giới tính. Ông nói[12]: Những người lập chính sách và truyền thông đã không làm việc có ích cho công chúng hoặc những người nghĩ rằng giới tính của họ không đúng với thể chất. Trái lại, họ bóp méo bản chất rối loạn tâm thần của những người này thành một dạng "nhân quyền cần được bảo vệ", họ cổ vũ người chuyển giới "sống thật với bản thân", trong khi bản chất thực sự của chuyển giới là một rối loạn tâm thần cần có sự thông hiểu, điều trị và phòng ngừa. Cảm giác mãnh liệt về việc chối bỏ giới tính cơ thể đã tạo nên một rối loạn tâm thần theo hai khía cạnh. Thứ nhất là sự không tương ứng giữa tâm lý với thực tại thể chất. Khía cạnh thứ hai là cảm giác này có thể đưa đến kết quả tâm lý rất đáng sợ: Đây là một rối loạn tâm thần gây hại tương tự như việc một người gầy ốm nhưng lại chán ăn và luôn nghĩ rằng họ bị thừa cân Những người ủng hộ chuyển giới không muốn biết rằng những nghiên cứu cho thấy khoảng 70-80% trẻ em bộc lộ những cảm giác rối loạn giới tính đã mất đi những cảm giác này một cách tự nhiên theo thời gian. Và vì thế, chúng tôi (Bệnh viện Johns Hopkins) đã ngừng phẫu thuật chuyển giới, vì làm hài lòng một bệnh nhân tâm thần không thể là lý do biện minh cho việc cắt cụt những bộ phận bình thường của cơ thể họ. Thay đổi giới tính vốn là điều không thể làm được về mặt sinh học. Những người phẫu thuật chuyển giới sẽ không thay đổi từ nam sang nữ hoặc ngược lại. Thực chất, họ vẫn là những người nam bị nữ hoá hoặc người nữ bị nam hoá. Các tuyên bố kiểu như "chuyển đổi giới tính là quyền dân sự" và việc hợp pháp hóa phẫu thuật chuyển giới thực ra chính là sự cổ súy cho bệnh nhân rối loạn tâm thần tự gây hại cho sức khỏe của mình."Theo đó, việc phẫu thuật chuyển giới chỉ nên được thực hiện với những người lưỡng tính (tức là những người có bộ phận sinh dục bị khuyết tật, không xác định rõ là nam hay nữ). Còn đối với những người có cơ thể hoàn toàn bình thường nhưng lại muốn phẫu thuật chuyển giới (do tình trạng tâm thần bị chứng bệnh mặc cảm giới tính) thì không nên cho phép phẫu thuật chuyển giới bởi sẽ gây tác hại rất lớn cho sức khỏe. Với những người bị chứng bệnh mặc cảm giới tính này, cần phải điều trị tâm lý để bệnh nhân cảm thấy chấp nhận giới tính của cơ thể và không còn mong muốn phẫu thuật chuyển giới nữa. Ảnh hưởng về pháp lý, xã hội và cá nhânSửa đổiHệ lụy về pháp lýSửa đổiBên cạnh việc xung đột với các tư tưởng tôn giáo hoặc các giá trị văn hóa, việc cho phép chuyển đổi giới tính gây lo ngại về những hậu quả pháp lý sẽ xảy ra nếu việc này bị lợi dụng hoặc được pháp luật cho phép tiến hành, ví dụ như[13][14][15][16][17][18]:
Có trường hợp cố tình chuyển giới để gian lận tuổi nghỉ hưu. Một người đàn ông Argentina bị cáo buộc đã cố ý thay đổi giới tính trên giấy tờ từ "nam" sang "nữ" để được về hưu ở tuổi 60 thay vì 65 như quy định, dù thực tế người đàn ông này hoàn toàn là nam, đã có quan hệ yêu đương với nhiều phụ nữ và còn rất ghét người chuyển giới[19] Vấn đề hôn nhân của người đã phẫu thuật chuyển giới cũng là một vấn đề rất phức tạp. Nếu được thay đổi giấy tờ tùy thân, họ có thể kết hôn mà vợ/chồng họ không hề biết mình đã lấy phải người chuyển giới. Khi mọi chuyện bị lộ ra thì sự tan vỡ gia đình là khó tránh khỏi. Ví dụ, năm 2014, một người đàn ông tại Bỉ đã phát hiện ra vợ của mình thực chất là đàn ông chuyển giới, sau khi 2 người đã chung sống với nhau suốt 19 năm. Sau khi biết được sự thật, người chồng đã rất suy sụp và phải cần đến các liệu pháp điều trị tâm lý do bị cú sốc quá lớn, đồng thời ông đã lập tức nộp đơn xin ly dị lên tòa án[20]. Do những hệ lụy rất phức tạp về sức khỏe, xã hội và pháp lý nên đến cuối năm 2016, chỉ có 62 quốc gia (trên tổng số 220 quốc gia và vùng lãnh thổ) cho phép phẫu thuật chuyển giới, trong 62 quốc gia này thì chỉ có 10 quốc gia ở châu Á[21] Ngoài ra, để tránh sự mập mờ về giấy tờ hoặc lách luật, phần lớn trong số 62 quốc gia này chỉ cho phép người chuyển giới thay đổi giới tính trên giấy tờ sau khi họ đã phẫu thuật chuyển đổi bộ phận sinh dục, còn nếu chỉ sử dụng hormone hoặc chỉ phẫu thuật chuyển giới một phần (tức là chỉ phẫu thuật ngực nhưng không phẫu thuật bộ phận sinh dục) thì vẫn chưa thể được thay đổi giới tính trên giấy tờ[1]. Hệ lụy về sức khỏeSửa đổiPhẫu thuật chuyển giới làm thay đổi toàn bộ trục "não bộ - tuyến yên - buồng trứng" ở nữ và "não bộ - tuyến yên - tinh hoàn" ở nam, phá hủy nhiều bộ phận quan trọng sản sinh hormone giới tính. Do đó, người chuyển giới trước và sau khi can thiệp phẫu thuật luôn phải sử dụng hormone liên tục, khiến tâm lý bị đảo lộn, cơ thể của họ bị yếu đi trông thấy, dễ nhiễm bệnh. Tiêm không đúng cách và liều lượng có thể nguy hiểm tính mạng. Hormone nhân tạo như estrogen là tác nhân gây cao huyết áp, một số bệnh ung thư, bệnh tim mạch và điều đặc biệt nguy hiểm là nó có thể tạo ra cục huyết khối trong máu, dẫn đến tử vong do nhồi máu phổi, nhồi máu não hoặc nhồi máu mạc treo. Nhưng nếu không tiêm hormone thì các đặc điểm của giới tính cũ sẽ trở lại như ban đầu (do hormone nhân tạo bị cơ thể đào thải). Những người chuyển giới không sử dụng đều đặn hormone thì sẽ có ngoại hình rất kỳ dị, "bán nam bán nữ", giống như thái giám (tức là có ngoại hình mang đặc điểm của cả hai giới, ví dụ như khuôn mặt phụ nữ nhưng lại mọc râu, hoặc khuôn mặt đàn ông nhưng giọng lại the thé). Khi tiêm hormone giới tính nhân tạo, cơ thể người chuyển giới sẽ bị biến đổi rất nhiều, gây ra những di chứng lớn đối với sức khỏe[22]:
Quá trình phẫu thuật không phải chỉ một cuộc là xong, mà sẽ phải trải qua vài chục cuộc tiểu phẫu với những đau đớn và nguy cơ tai biến cả về thể chất lẫn tâm lý. Sau vài năm, họ sẽ lão hóa nhanh chóng, sức khỏe của họ trở nên tồi tệ do những biến chứng từ phẫu thuật và tiêm hoóc-môn, những cơn đau thể xác giày vò cả ngày lẫn đêm. Đối với nam chuyển sang nữ, những lớp mỡ sẽ biến mất, vú teo lại mà trơ ra là khung xương thô kệch của đàn ông. Đối với nữ chuyển sang nam, râu tóc của họ sẽ rụng, dương vật giả sẽ teo đi (thậm chí bị hoại tử), khung xương chậu bị tổn thương khiến đi lại khó khăn. Những người không có đủ tiền để uống/tiêm kích thích tố đều đặn thì những hậu quả này thậm chí sẽ xuất hiện nhanh hơn[23]. Ca sĩ chuyển giới Nong Poy (Thái Lan) chia sẻ: khi chuyển giới tức là chấp nhận rút ngắn tuổi thọ xuống khoảng 20 năm, người chuyển giới khó có thể sống ngoài 40 tuổi[24] Những người chuyển giới đều chung số phận: Vĩnh viễn không thể có con, phải uống/tiêm thuốc kích thích tố nam hoặc nữ suốt đời, vẻ "mỹ miều" bên ngoài chỉ trụ được 5-10 năm, sau đó thân hình, da dẻ mau chóng già nua nhanh hơn nhiều so với người bình thường. Về đời sống tình dục cũng rất bất ổn do các bộ phận nhân tạo không thể có chức năng như bộ phận của người thường (dương vật giả không thể có cảm giác và không thể xuất tinh, còn âm đạo giả thì không có cảm giác tình dục và không thể chế tiết chất dịch). Hiếm hoi lắm mới có một người chuyển giới tìm được hạnh phúc gia đình thực sự[25]. Nghiên cứu năm 2014 ở Mỹ cho thấy người chuyển giới có tỷ lệ đặc biệt cao về trầm cảm và tự sát do những thất vọng về cuộc sống sau khi chuyển giới. Tỷ lệ tự sát ở nhóm này ít nhất ở mức 30-40%, trong khi ở những ước lượng cao lên tới 50-60%[26] Những rủi ro liên quan với việc tiêm hormone, cắt sửa bộ phận sinh dục và các phẫu thuật khác như bệnh ung thư (vú và tuyến tiền liệt), bệnh tim (đột quỵ, bệnh tim mạch), và tắc mạch máu não trong những người chuyển giới đang tiếp tục được nghiên cứu[27]. Chấp nhận chuyển đổi giới tính đồng nghĩa với việc chấp nhận những đau đớn khủng khiếp mà nhiều người sau này đã hối hận, rằng nếu được quay trở lại như ban đầu thì họ sẽ không bao giờ phẫu thuật chuyển giới. Tại Thái Lan (một "thiên đường" của việc chuyển đổi giới tính), nhà hoạt động Nathee Teerarojanapong nói về kết quả không mong đợi từ việc chuyển đổi giới tính: "Tôi nhận được nhiều cuộc gọi từ những người nói họ cảm thấy tiếc vì đã chuyển giới. Họ đã phạm một sai lầm lớn và muốn trở lại như cũ nhưng không thể". Giáo sư Miroslav Djordjevic (Serbia), nhà phẫu thuật tạo hình hàng đầu thế giới, cho biết rằng có nhiều bệnh nhân chuyển giới đã phẫu thuật cắt bỏ bộ phận sinh dục. Một thời gian sau, những người này hối hận và tìm gặp ông với mong muốn được phẫu thuật trở lại giới tính như xưa. Những người đó bị tình trạng trầm cảm nặng sau khi đã phẫu thuật chuyển giới, một số thậm chí còn có ý định tự sát[28]. Bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình Trần Ngọc Vinh cho biết: việc chuyển đổi giới tính không chỉ đơn giản là việc chuyển đổi bộ phận sinh dục mà các diễn biến tâm lý, đời sống sau đó của người chuyển giới mới là vấn đề lớn. Bác sĩ Trần Ngọc Vinh tiết lộ: "Hầu hết bệnh nhân sau khi sang Thái Lan phẫu thuật chuyển đổi giới tính xong đều thấy ân hận, thất vọng. Đối với mọi người xung quanh, họ vẫn tỏ ra là hạnh phúc, mãn nguyện nhưng khi nói chuyện với các bác sĩ tâm lý, bác sĩ chuyên khoa thì lại khác. Nhiều người chuyển giới không thể tìm được những khoái cảm (trong cuộc sống và tình dục) như đối với giới tính ban đầu. Họ đâm ra chán con người mới của mình mà trước đó, họ khát khao vô cùng". Bác sĩ Nguyễn Hà cho biết: "Sau một thời gian “hồ hởi” sống với giới tính mới của mình, nhiều người chuyển giới suy sụp vì không tìm được niềm vui trong cuộc sống... Một số người nam chuyển sang nữ sau một thời gian sống dặt dẹo thì chuyển nghề làm... gái mại dâm". Do vậy, các bác sĩ chuyên môn khuyên rằng: dù mang tâm lý không chấp nhận giới tính bẩm sinh của mình thì con người cũng không nên can thiệp phẫu thuật vào giới tính của cơ thể, vì phẫu thuật chuyển giới để lại hệ lụy rất khó kiểm soát về sau, nhất là vấn đề tâm lý[25]. Tiến sĩ Y, Sinh học Đào Đại Cường, giảng viên khoa Dược, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: chỉ những người bị khuyết tật bộ phận sinh dục (có bề ngoài là nam, nhưng bên trong lại có bộ phận sinh dục của phụ nữ hoặc ngược lại) thì mới nên phẫu thuật chuyển giới để có thể xác định đúng giới tính thật của mình. Còn với những ai từ trong ra ngoài hoàn toàn là nam hoặc nữ, không bị khuyết tật mà vẫn muốn phẫu thuật chuyển giới, thì họ nên ngừng ngay ý định đó, bởi lẽ khi chấp nhận phẫu thuật có nghĩa là họ đang ký vào bản án tử hình cho chính bản thân mình[29] Điều kiện để được phẫu thuật chuyển giớiSửa đổiDo những hệ lụy rất phức tạp về sức khỏe và pháp lý nên đến cuối năm 2016, chỉ có 62 quốc gia (trên tổng số 220 quốc gia và vùng lãnh thổ), trong đó có 10 quốc gia châu Á cho phép phẫu thuật chuyển giới[21]. Ngay cả ở những nước cho phép phẫu thuật chuyển giới thì các thủ tục cũng rất ngặt nghèo, ví dụ như:
Điều kiện để được chuyển đổi giới tính trên giấy tờ tùy thânSửa đổiNhư đã nêu trên, việc thay đổi giới tính trên giấy tờ của một người chuyển giới sẽ kéo theo những hệ lụy rất phức tạp về pháp lý, quyền nhân thân đối với người đó, bởi giữa nam và nữ có những quy định về quyền nhân thân khác nhau (tuổi nghỉ hưu, nghĩa vụ quân sự, hôn nhân, ưu tiên nghề nghiệp...) Trong số những nước cho phép chuyển giới, điều kiện để được chuyển đổi giới tính trên giấy tờ tùy thân cũng khác nhau[33]:
Phạm vi, quy trình phẫu thuậtSửa đổiPhẫu thuật chuyển giới khác với phẫu thuật thẩm mỹ cho người chuyển giới. Chỉ khi can thiệp vào bộ phận sinh dục thì mới được coi là phẫu thuật chuyển giới, còn việc người chuyển giới phẫu thuật chỉnh sửa các bộ phận khác như phẫu thuật ngực (cắt hoặc độn vú), chỉnh sửa vai, khuôn mặt... để cho giống với giới tính mới (nhưng lại không chỉnh sửa vào bộ phận sinh dục) thì đó vẫn chỉ được coi là phẫu thuật thẩm mỹ mà thôi.[34]. Theo quy trình ở các quốc gia cho phép phẫu thuật chuyển đổi giới tính, một người trước khi chuyển giới phải trải qua các giai đoạn sau:
Sau khi phẫu thuật cắt bỏ bộ sinh dục cũ và tạo bộ sinh dục mới, người chuyển giới vẫn sẽ phải duy trì sử dụng Hormone giới tính cả đời, bởi các bộ phận sinh dục mới thực chất chỉ là các thiết bị mô phỏng hình dáng, chứ không có chức năng sinh dục như các bộ phận nguyên bản. Ngoài ra, những người đã chuyển giới phải thường xuyên được điều trị tâm lý do họ thường thất vọng với cơ thể mới, nên có tỷ lệ trầm cảm, tự sát rất cao. Tại Việt NamSửa đổiỞ Việt Nam, Bộ luật dân sự năm 2015 [35] đã có quy định về chuyển giới và thay đổi giới tính trên giấy tờ tùy thân. Tuy nhiên, điều kiện để được phẫu thuật chuyển giới hiện chưa được quy định cụ thể tại Luật chuyên ngành. Bác sĩ Nguyễn Minh Tuấn - Phó Viện trưởng Viện Sức khỏe tâm thần quốc gia cho rằng, về mặt chuyên môn cũng như pháp lý, để được thay đổi về mặt giấy tờ pháp lý, bắt buộc người chuyển giới phải phẫu thuật thay đổi bộ phận sinh dục. Nếu chỉ dùng hormone hoặc phẫu thuật ngực mà đã được chuyển đổi giấy tờ thì sẽ dẫn tới nhiều trường hợp “mập mờ” (giấy tờ là "nam" nhưng lại có cơ quan sinh dục nữ hoặc ngược lại), hoặc dẫn tới những trường hợp “tập nhiễm” gây mất trật tự xã hội, cũng như tình trạng lạm dụng các dịch vụ y tế tại các cơ sở y tế chuyên khoa. Mặt khác, các trường hợp không thực sự cần thiết (không có cơ thể bị khuyết tật bẩm sinh) thì không nên cho phép phẫu thuật chuyển giới, vì quá trình phẫu thuật chuyển giới ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, làm giảm tuổi thọ và còn tốn kém chi phí, đặc biệt là các vấn đề pháp lý nảy sinh về sau này[1] Tiến sỹ Nguyễn Đình Phú cho biết: cần phân biệt nhu cầu chuyển đổi giới tính bởi các nguyên nhân khác nhau: do khuyết tật bẩm sinh, khuyết tật tâm lý hay nhu cầu thẩm mỹ cá nhân. Không loại trừ những trường hợp chuyển đổi giới tính để lảng tránh xã hội, trốn tránh trách nhiệm, thậm chí trốn lệnh truy nã. Một số chuyên gia y tế cũng đặt vấn đề chỉ cho phép chuyển đổi giới tính đối với người bị khuyết tật bẩm sinh nặng ở cơ quan sinh dục, cần phẫu thuật để chỉnh sửa khiếm khuyết. Người có cơ thể hoàn toàn bình thường, không bị dị tật nhưng về mặt tâm lý lại tự cho bản thân thuộc giới tính khác thì không nên cho phép chuyển đổi giới tính[36] Tóm lại, theo ý kiến của các bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật thì chỉ nên cho phép phẫu thuật chuyển giới với các trường hợp bị dị tật bộ phận sinh dục, khuyết tật nhiễm sắc thể giới tính, rối loạn hoóc-môn giới tính và các tình trạng khuyết tật thể chất về giới tính. Còn với những ai không bị khuyết tật cơ thể mà vẫn muốn phẫu thuật chuyển giới do tâm lý bị mắc chứng bệnh mặc cảm giới tính (tên khác là "Rối loạn định dạng giới") thì tuyệt đối không nên cho phép phẫu thuật chuyển giới, thay vào đó cần chữa trị tâm lý cho họ để họ không còn muốn phẫu thuật chuyển giới nữa[12][29] (chính sách tương tự như Philippines). Xem thêmSửa đổi
Tham khảoSửa đổi
|