Đầu lòng hai ả to nga là gì

  • lý thuyết
  • trắc nghiệm
  • hỏi đáp
  • bài tập sgk

Giải nghĩa từ "tố nga" trong câu thơ "Đầu lòng hai ả tố nga" và cho biết tác dụng của việc sử dụng từ đó trong câu thơ?

Các câu hỏi tương tự

    Nguyễn Du sinh ra trong thời loạn lạc, đất nước xảy ra nội chiến giữa hai miền Nam-Bắc, quân thanh kéo quân xâm lược nước ta. Sinh thời, ông chứng kiến nhiều nỗi bất hạnh, oan khuất của nhân dân và cảm thông sâu sắc cho số phận của họ, đặc biệt đối với những người phụ nữ. Hoàn cảnh sống và tâm hồn đa cảm của Nguyễn Du đã cho ra đời danh tác Truyện Kiều và lưu truyền muôn đời. Truyện Kiều kể về cuộc đời đầy trắc trở, đau đớn đoạn trường của nàng Kiều tài sắc, từ đó lên ánh hiện thực đau lòng của xã hội phong kiến đương thời. Tác phẩm đặc biệt thành công trong nghệ thuật miêu tả nhân vật, tiêu biểu là đoạn trích Chị em Thúy Kiều với bốn câu thơ đầu tiên.

    Câu thơ đầu đoạn trích đã giới thiệu sơ lược hai nhân vật được miêu tả “Đầu lòng hai ả tố nga”. Từ ngàn xưa trăng đã xuất hiện nhiều trong thơ ca, trăng mang vẻ đẹp dịu dàng, thanh cao mà đầy quyến rũ. “Tố nga”là từ Hán Việt có nghĩa đen là vầng trăng tàn trong Truyện Kiều là được dùng để giới thiệu hay tiểu thư xinh đẹp, thật là tinh tế! Câu thơ thứ hai “Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân” đã giới thiệu thứ bậc của hai cô con gái trong gia đình, Kiều là chị, Vân là em. Câu thơ còn gợi cho chúng ta những suy nghĩ về cuộc đời hai người con gái này Kiều là chị nên phải bán mình chuộc cha, còn em là Vân phải nghe lời chị lấy Kim Trọng làm chồng. Hai câu thơ cuối đã gợi tả vẻ đẹp chung của hai chị em “Mai cốt cách tuyết tinh thần/ Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”. Thường thì người ta hay dùng hình ảnh liễu để ca ngợi vẻ đẹp mong manh yễu điệu của các cô gái nhưng Nguyễn Du đã dùng cây mai. Cây mai mộc mạc nhưng vẫn rất thanh cao, những cành mai gầy guộc nhưng lại có một sức sống rất mạnh mẽ. Bởi vì bên trong thân mai ấy là một dòng nhựa căng tràn, dòng nhựa ấy chỉ cần đợi khi gió xuân về, nắng xuân ấm áp thì trên những nhành mai sắc đầy sắc vàng rực rỡ khoe sắc hương. Tác giả đã mượn hình ảnh cây mai để nói về sức sống căng tràn của hai cô gái trẻ khi cô đang ở tuổi thanh xuân thì. “Tuyết” thì tinh khiết, trắng sạch cũng như tâm hồn của hai chị em nhà họ Vương vậy, ngây thơ và trong sáng. Với bút pháp ước lệ tượng trưng kết hợp với hình thức tiểu đối câu thơ nhấn mạnh vẻ đẹp toàn diện của hai nàng. Vẻ đẹp ấy đạt đến mức tuyệt đỉnh “mười phân vẹn mười” tuy nhiên “Mỗi người một vẻ”, không hòa lẫn vào nhau. Thành ngữ “mười phân vẹn mười” cho thấy bút pháp lý tưởng hóa cao độ của nhà thơ, bởi lẽ ở đời mấy ai được mười phân vẹn mười! Câu thơ không chỉ nhằm thông báo vẻ đẹp hoàn mỹ của Thúy Vân, Thúy Kiều mà còn chất chứa niềm ngưỡng mộ trước cái đẹp tuyệt đỉnh nhưng lại rất riêng của mỗi người. 

      Chỉ với bốn câu thơ thôi nhưng cũng đủ để lại ấn tượng sâu sắc về hình ảnh hai chị em Thúy Kiều trong lòng bạn đọc và tài năng sáng tạo bậc thầy của nhà thơ đất Tiên Điền. 

Bài viết không sao chép, không viết tắt, đầy đủ bố cục mong giúp ích cho bạn

Ý nghĩa của từ tố nga là gì:

tố nga nghĩa là gì? Ở đây bạn tìm thấy 7 ý nghĩa của từ tố nga. Bạn cũng có thể thêm một định nghĩa tố nga mình


33

  8


Tố Nga là một từ dùng để diễn tả một người con gái đẹp. Trong Truyện Kiều,Nguyễn Du đã viết: Đầu lòng hai ả tố nga, Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Người con gái được đặt tên là Tố Nga là chỉ sự mong ước của cha mẹ sau này con sẽ xinh đẹp "mười phân vẹn mười".

kieuoanh292 - Ngày 09 tháng 8 năm 2013


16

  7


(Từ cũ, Văn chương) người con gái đẹp "Đầu lòng hai ả tố nga, Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân." (TKiều) Đồng ngh� [..]


7

  0


Đời Đường, Vũ Tám Tư có nàng hầu là Tố Nga nhan sắc đẹp lắm. ông Định Lương Công đến chơi, Tám Tư gọi ra, nàng bổng lẫn mất. Tám Tư thấy chổ gốc nhà có mùi hương bay ra thơm ngát bèn đến lắng nghe thì ra đấy chính là Tố Nga. Nàng nói: "Thiếp là con yêu của mặt tră [..]

Nguồn: informatik.uni-leipzig.de

Đầu Lòng Hai Ả Tố Nga là câu thơ đặc sắc của Truyện Kiều ( Nguyễn Du ). Ông là một đại thi hào của dân tộc, đóng góp một phần không nhỏ cho sự nghiệp phát triển văn học của nước ta. Thơ chữ Hán Nguyễn Du cho thấy phần sâu kín trong tâm trạng ông. Nó như một thứ nhật ký, giãi bày mọi nỗi niềm, mọi ý nghĩ trong cảnh sống thường nhật của chính ông

Bài thơ Truyện Kiều nổi tiếng bày tỏ sự đồng cảm xót thương của ông đối với số phận bi thảm của một cô gái ” tài sắc vẹn toàn ” bị xã hội vùi dập không thương tiếc đồng thời ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa

Ngay bây giờ chúng ta hãy cùng nhau cảm nhận bút pháp tài hoa của ông qua bài thơ Truyện Kiều Hồi 1 ngay bây giờ nhé!


I. Đôi Nét Về Nhà Thơ Nguyễn Du 

– Nguyễn Du 阮攸 (13-1-1766 – 16-9-1820), tự Tố Như 素如, hiệu Thanh Hiên 清軒, quê gốc làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời niên thiếu ở Thăng Long. Cha là Nguyễn Nghiễm đã làm tới chức tể tướng triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, người xứ Kinh Bắc (Nguyễn Nghiễm có tám vợ, hai mươi mốt người con). Mười tuổi, Nguyễn Du mồ côi cha, mười ba tuổi mồ côi mẹ. Vì thế tiếng là con quan đại thần nhưng ngay từ thời thơ ấu Nguyễn Du đã phải sống vất vả thiếu thốn.

– Truyện Kiều và Văn chiêu hồn, hai kiệt tác chữ Nôm của Nguyễn Du, rộng xin được giới thiệu riêng vào dịp khác. Tập sách này chỉ chọn lựa một số bài thơ chữ Hán tiêu biểu của ông.

– Thơ chữ Hán Nguyễn Du cho thấy phần sâu kín trong tâm trạng ông. Nó như một thứ nhật ký, giãi bày mọi nỗi niềm, mọi ý nghĩ trong cảnh sống thường nhật của chính ông. Cả ba cuốn Thanh Hiên thi tập (viết trong khoảng 1785-1802, khi Nguyễn Du lánh ẩn ở quê vợ, Thái Bình, rồi trở về Hồng Lĩnh và ra lại Bắc Hà làm quan triều Gia Long), Nam trung tạp ngâm (1805-1812, khi Nguyễn Du làm quan ở Huế rồi cai bạ Quảng Bình) và Bắc hành tạp lục (1813-1814, thơ viết trên đường đi sứ Trung Hoa) đều có một giọng u trầm thấm thía, đầy cảm xúc nội tâm.

– Thơ chữ Hán Nguyễn Du như một tiếng thở dài luận bàn nhân tâm thế sự và xót thương thân phận. Một hình ảnh trở đi trở lại là mái tóc bạc, Nguyễn Du có mái tóc bạc sớm, mái tóc như biểu tượng của lo nghĩ, của những nghiền ngẫm buồn thương và bế tắc “Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên, Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên” (Tráng sĩ ngẩng mái đầu tóc bạc, bi thương than với trời xanh: chí lớn một đời và miếng ăn hàng ngày cả hai đều mờ mịt).

– Với một tài năng, lại từng là con quan tể tướng, lời than ấy thật xót xa. Tây Sơn ra Bắc 1786, Nguyễn Du ôm mối ngu trung với nhà Lê, không cộng tác, tìm đường lánh ẩn chịu sống nghèo khổ. Những thiếu thốn vật chất đôi lúc lộ ra trong thơ: Quê nhà đại hạn, mười đứa con sắc mặt xanh như rau (“Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng”)

– Lời nhận xét thật chua chát, bế tắc. Mái tóc bạc như một chứng tích tiều tuỵ cho cái nghịch lý ấy: Phơ phơ tóc bạc sống gửi ở nhà người, rồi: Già đến, tóc bạc đáng thương cho ngươi. Nói là già đến, nhưng lúc viết Thanh Hiên thi tập Nguyễn Du chỉ ở tuổi 20 đến 37. “Trù trướng lưu quang thôi bạch phát” (Ngậm ngùi vì ngày tháng giục tóc bạc). Mái tóc bạc thành bạn tri âm cho Nguyễn Du than thở: Tóc sương là bạn đi cùng.

– Nguyễn Du ôm một nỗi niềm éo le. Giáo lý Khổng Mạnh dạy: tôi trung không thờ hai vua. Nhưng với Nguyễn Du, vua phải thờ thì hèn kém, thậm chí rước voi về giày mồ (Lê Chiêu Thống), còn vua phải chống thì lại anh hùng, bảo vệ độc lập dân tộc (Quang Trung). Đau đớn, bế tắc của Nguyễn Du là ở đấy. Biết mà không vượt qua được, ông mong được hậu thế cảm thông: “Bất tri tam bách dư niên hậu

– Hiện thực cuộc sống bi thương trong xã hội phong kiến cả ở nước ta lẫn ở Trung Hoa thuở ấy, từ cảnh ngộ dâu bể của cô Cầm đánh đàn ở Thăng Long đến nỗi cơ cực của ông già hát rong ở đất Thái Bình (Trung Quốc) đã cho Nguyễn Du thấy thân phận bèo bọt và những bất công mà kiếp người phải chịu. Từ chính cảnh ngộ của mình ông thông cảm sâu sắc, tạo nên tình cảm thấm thía cho những bài thơ thương đời. Thương đời và thương mình đều da diết như nhau.

Xem thêm :  Bí ẩn “những mối tình trai” của nhà thơ xuân diệu

– Nguyễn Du hay nói tới thân phận tha hương, lưu lạc. Nỗi nhớ quê nhà luôn luôn bàng bạc trong các bài thơ. Ông thấy tài năng văn chương như con chim phượng nhốt trong lồng nát và công danh thì cùng đường như con rắn đã chui trong hang (“Bình sinh văn thái tàn lung phượng, Phù thế công danh tẩu hác xà”).

– Ông viết bài thơ chống lại bài Chiêu hồn Khuất Nguyên của Tống Ngọc, ông xui Khuất Nguyên đừng về vì thành quách vẫn còn nguyên mà người đã đổi khác, bụi bặm cuồn cuộn làm nhơ nhớp cả quần áo. Ông khái quát: Đời bây giờ người người đều đều là Thượng Quan (Thượng Quan là kẻ gièm pha làm hại Khuất Nguyên) và mặt đất thì chỗ nào cũng là sông Mịch La (con sông Khuất Nguyên trẫm mình). Ở các bài vịnh nhân vật và luận về các sự kiện lịch sử Trung Hoa trong Bắc hành tạp lục, Nguyễn Du đã xuất phát từ quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của con người để cân đo lại trọng lượng các vĩ nhân và các chiến công ầm ỹ một thời.

– Đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du chúng ta hiểu cội nguồn chủ nghĩa nhân đạo của ông thể hiện trong Truyện Kiều và những ký thác đời ông vào hình tượng Kiều, nhân vật sắc tài mà bạc mệnh.


II. Đầu Lòng Hai Ả Tố Nga – Câu Thơ Đặc Sắc 

Nguyễn Du nổi tiếng là một nhà thơ có tài sáng tác thơ nôm xuất thần cùng những lời thơ làm ” rung động ” trái tim bạn đọc. Trong đó bài thơ ” Truyện Kiều ” làm nên tên tuổi của ông có câu thơ ” Đầu lòng hai ả tố nga ” luôn cuốn hút bạn đọc

Chúng ta cùng nhau khám phá và cảm nhận bài thơ nhé!

Hồi 01

Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu. Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. 5. Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cảo thơm lần giở trước đèn, Phong tình có lục còn truyền sử xanh. Rằng: năm Gia Tĩnh triều Minh, 10. Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng. Có nhà viên ngoại họ Vương, Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung, Một trai con thứ rốt lòng, Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia. 15. Đầu lòng hai ả tố nga, Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân. Mai cốt cách, tuyết tinh thần. Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười. Vân xem trang trọng khác vời, 20. Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang, Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Kiều càng sắc sảo mặn mà, So bề tài sắc vẫn là phần hơn. 25. Làn thu thuỷ, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Một hai nghiêng nước nghiêng thành, Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai. Thông minh vốn sẵn tính trời, 30. Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm. Cung, thương làu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương. Khúc nhà tay lựa nên chương, Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân. 35. Phong lưu rất mực hồng quần, Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.


III. Phân Tích Nghệ Thuật Tả Người Trong Bài Thơ Truyện Kiều 

Ở xã hội phong kiến thời xưa, người phụ nữ không được tôn vinh, coi trọng mà ngược lại, họ bị chà đạp không thương tiếc. Tuy nhiên, Nguyễn Du đã vượt qua sự bất công đó với tấm lòng nhân đạo của mình. Ông hết sức nâng niu, đề cao vẻ đẹp và tài năng của người phụ nữ. Không những thế, ông còn thương cảm trước số phận của họ. Tất cả những điều này được thể hiện rõ nét qua đoạn trích Chị em Thuý Kiều trong Truyện Kiều. Đoạn thơ còn cho thấy nghệ thuật tả người điêu luyện của Nguyễn Du.

Để giới thiệu chung về chị em Thuý Kiều, Nguyễn Du đã có bốn cậu thơ đầu đầy ấn tượng:

” Đầu lòng hai ả tổ nga Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân Mai cốt cách, tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.”

Chuẩn bị cho sự xuất hiện của hai chị em, tác giả đã phần nào cho ta biết đó là những cô gái đẹp:

” Đầu lòng hai ả tố nga.”

Người chưa xuất hiện mà đường như bóng dáng đang thấp thoáng qua tấm màn mỏng gợi một vẻ đẹp bí ẩn chưa khám phá. Càng tò mò, ta càng muốn khám phá vẻ đẹp của hai ả tố nga và chỉ biết là tố nga tức người con gái đẹp nhưng chưa biết đẹp thế nào. Thế mà Nguyễn Du lại như muốn kéo dài thêm thời gian, khiến người đọc càng nóng lòng muốn biết rõ mặt, ngắm nhìn hai ả tố nga ấy. Nguyễn Du kéo dài thời gian bằng cách giới thiệu chi tiết hơn nữa:

” Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần.”

Người đã đẹp về hình thể rồi mà còn đẹp cả bên trong tâm hồn nữa! Câu thơ có sử dụng biện pháp so sánh và hình ảnh ước lệ: mai và tuyết khiến người đọc hình dung cả hai chị em đều có cốt cách thanh cao như mai và tinh thần, phẩm hạnh trong trắng sáng ngời như tuyết trắng. Nguyễn Du dùng biện pháp ước lệ của văn chương cổ, viết theo những phép tắc sẵn cổ nhưng ông không viết lại y nguyên mà thêm vào đó những câu chữ chứa đựng cảm tình yêu mến, trân trọng.

Xem thêm:   16 Câu Đố Mà Thám Tử Cần Bạn Giúp Mới Giải Được

Xem thêm :  Chia sẻ tài khoản Netflix Premium miễn phí (update T9/2021)

Để kết thúc phần tả chung về hai chị em, ông đã khẳng định lần nữa:

” Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.”

Lời khen được ông chia đều cho cả hai, cả hai không giống nhau, mỗi người một nét riêng nhưng nét nào cũng mười phân vẹn mười.

Nguyễn Du tả Thuý Vân trước. Ông tả Thuý Vân bằng những hình ảnh rất cụ thể, chỉ với bốn dòng thơ nhưng đủ gợi tả một vẻ đẹp trong sáng, phúc hậu và trẻ trung, tươi tắn của một cô gái đang độ tuổi trăng rằm:

” Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.”

Ta ngây ngất trước vẻ đẹp mà thiên nhiên ban tặng cho Thuý Vân: một khuôn mặt đầy đặn, tròn trịa và sáng ngời như trăng tròn. Nguyễn Du lại vẽ lên một đôi mày thật đẹp. Cùng với nét ngài nở nang ấy, nụ cười, mái tóc và màu da của Thuý Vân cũng không gì sánh được:

” Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”

Nụ cười của Vân đẹp như hoa, thật tự nhiên và tươi tắn, giọng nói trong như ngọc. Người ta thường nói “hàm răng, mái tóc là góc con người”. Mái tóc của Vân đẹp diệu kì, đến cả mây mềm mại, thướt tha như thế mà cũng phải chấp nhận chịu thua. Mây không chỉ chịu thua mái tóc của Vân ở độ mềm mại mà còn thua ở độ xanh mượt của tóc. Tóc Vân xanh hơn mây còn có ý muốn nói Vân đang ở độ tóc xanh tức là trẻ trung, đang xuân. Làn da nàng trắng trẻo, mịn màng đến nỗi tuyết nhường màu da.

Phép ẩn dụ và nhân hoá được sử dụng hết sức thành công trong bốn dòng thơ miêu tả Thuý Vân. Tác giả mang hết mọi vẻ đẹp trong sáng, tinh khôi nhất trong thiên nhiên như trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc để so sánh vẻ đẹp quí phái, cao sang của nàng, vẻ đẹp của Thuý Vân còn hơn cả những cái tinh khôi nhất của thiên nhiên và thiên nhiên bị khuất phục trước vẻ đẹp của nàng.

Vẻ đẹp, tâm hồn của Vân là thế. Còn Thuý Kiều? Liệu cô có được như Thuý Vân hay không?

” Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn Làn thu thuỷ, nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai Thông minh vốn sẵn tính trời Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm Cung thường lầu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương Khúc nhà tay lựa nên chương

Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.”

Trước hết, ta thấy có sự khác biệt khi Nguyễn Du tả Thuý Vân và Thuý Kiều. Rõ ràng Nguyễn Du chỉ dùng bốn câu thơ ngắn gọn để miêu tả Thuý Vân còn Thuý Kiều thì dùng đến mười hai câu thơ. Tại sao có sự ưu ái hơn về số câu thơ dành cho Thuý Kiều? Điều này là sự cố ý hay chỉ là vô tình của Nguyễn Du? Thuý Kiều có gì hơn Thuý Vân không mà thoáng qua đầ thấy sự đặc biệt ở những câu thơ nói về Thuý Kiều.

Đầu tiên nói về nhan sắc, vừa mở đầu phần thơ nói về Thuý Kiều, Nguyễn Du đã có một sự so sánh khéo:

” Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn.”

Đến đây ta mới hiểu rõ tại sao Thuý Vân được Nguyễn Du tả trước Thuý Kiều. Nguyễn Du muốn tả Thuý Vân trước để làm nền rồi so sánh với Thuý Kiều, qua đó thấy rõ sự nổi trội của Thuý Kiều. Đó là nghệ thuật đòn bẩy. Lúc đầu ta cứ ngỡ không ai có thể đẹp bằng Thuý Vân bởi bức chân dung Thuý Vân đã tuyệt hảo, hoàn mĩ. Nhưng không ngờ Thuý Kiều lại đẹp hơn Thuý Vân nữa. Nguyễn Du đã nhấn mạnh: Kiều càng sắc sảo mặn mà, so bề tài sắc lại là phần hơn. Các từ càng, phần hơn đã cho thấy Thuý Kiều hơn Thuý Vân, nổi trội hơn Thuý Vân cả về tài lẫn sắc. Như thế ta thấy rõ sự khác nhau giữa hai vẻ đẹp: một người đoan trang, ưa nhìn và đẹp nhẹ nhàng, thanh thoát, còn một người lại sắc sảo mặn mà khiến cho người ta phải “nhìn càng đắm, ngắm càng say”.

Tiếp đến, Nguyễn Du miêu tả chi tiết hơn về sắc và tài của Thuý Kiều. Ở đây ta lại thấy những nét mới trong thuật tả người của Nguyễn Du. Cũng là tả người nhưng khi tả Thuý Vân, Nguyễn Du dùng biện pháp khác, tả Thuý Kiều Nguyễn Du lại dùng biện pháp khác. Điều này làm ta có những suy nghĩ khác về hai nhân vật. Đoạn thơ tả Thuý Kiều sẽ giúp ta hiểu rõ hơn điều này:

” Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.”

Hai nét bút lượn trên giấy thanh thoát với gam màu xanh dịu nhẹ, trong trẻo, đầy ấn tượng khiến ta có nhiều liên tưởng. Đôi mắt của Thuỷ Kiều trong như làn nước mùa thu, đôi mày cong lượn, tươi non như núi mùa xuân. Như thế ta thấy với Thuý Vân, Nguyễn Du đã tả chi tiết từ khuôn mặt, nụ cười, mái tóc, tiếng nói, nước da.. Nhưng với Kiều ông chỉ cốt tả đôi mắt. Tại sao lại như vậy? Tất nhiên với ngòi bút thiên tài ấy, cách tả Thuý Kiều không thể giống như tả Thuý Vân. Người ta thường nói: “đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”. Qua đôi mắt, Nguyễn Du muốn nói lên các vẻ đẹp khác của Thuý Kiều. Từ đôi mắt xanh trong ấy, ta cảm nhận Kiều đang dạt dào sức sống thanh xuân và còn thấy được, độ sâu thẳm trong tâm hồn nàng. Từ những dụng ý trên, Nguyễn Du đã có được mạch chuyển tiếp thật tài tình cho câu thơ sau:

” Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. ”

Đọc câu thơ này ta thấy hơi rùng mình. Những từ ghen, hờn được tác giả nhân hoá để dùng cho hoa và liễu là những loài đẹp nhất, dịu dàng, tươi thắm nhất thế mà phải thua Thuý Kiều, vì vậy mà chúng đố kị, ghen ghét với nàng, Mượn cây lá thiên nhiên, Nguyễn Du muốn dự báo và suy ngẫm về tương lai, cuộc đời Thuý Kiều: “Một vừa hai phải ai ơi. Tài tình chi lắm cho trời đất ghen” (ca dao). Đây được xem như là một qui luật, định mệnh khắc nghiệt với con người, đặc biệt là người phụ nữ.

Như thế ta đã thấy rõ được tại sao khi tả Thuý Vân, Nguyễn Du tả hết sức chi tiết, còn Thuý Kiều chỉ điểm qua từng chi tiết đặc biệt như đôi mắt chẳng hạn. Vẻ đẹp của Thuý Kiều không thể tả rõ được, chỉ có thể hình dung đó là một tuyệt thế giai nhân. Một hai nghiêng nước nghiêng thành.

Sắc đẹp đó có thể khiến người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước. Vì vậy mà Nguyễn Du khẳng định lần nữa: Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hái. Câu thơ này muốn nói về sắc thì chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.

” Thông minh vốn sẵn tính trời Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm Cung thường lầu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương Khúc nhà tay lựa nên chương

Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.”

Với sáu câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Du đã có thể giải thích ý tài đành hoạ hai. Đã vốn được trời ban cho một trí tuệ thông minh, sáng suốt lại có ý chí học hỏi, luyện tập thì tất nhiên là khó có người vượt qua nổi. Thuý Kiều giỏi mọi lĩnh vực: hội hoạ, thơ ca, chơi cờ,… nhưng lĩnh vực tài nhất và cũng là hợp với người con gái dịu dàng, xinh đẹp như Kiều nhất là âm nhạc. Đây là sở trường hơn người của Thuý Kiều:

Đó là những nét đẹp về hình thể và tài năng của Thuý Vân và Thuý Kiều. Những người như thế thì cuộc sống hiện tại của họ ra sao đây? Cách sống cua họ như thế nào?

” Phong lưu rất mực hồng quần Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê Êm đềm trướng rủ màn che

Tường đông ong bướm đi về mặc ai. ”

Hai chị em có sự phong lưu đúng chất của người phụ nữ quyền quí, gia giáo. Chính vì thế mà khi đã tới tuổi cập kê vẫn sống trong cảnh êm đềm trướng rủ màn che.

Tóm lại, với hai bốn câu thơ, với các thủ pháp nghệ thuật tả người, nghệ thuật so sánh, phong cách sử dụng tiểu đối,… Nguyễn Du đã diễn tả được sự hoàn mĩ trong nhan sắc và cốt cách của Thuý Kiều, Thuý Vân. Cả vẻ đẹp lẫn tài năng nhân vật, tuy được vẽ ra rất khéo, bút pháp đa dạng (mỗi nhân vật có một cách vệ riêng) nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ của nghệ thuật và tư tưởng thời trung đại, với những đường nét ước lệ, cao quý. Nhưng đáng chú ý là dụng ý của tác giả khi phân biệt nét khác nhau của hai nhân vật, hai số phận, nhấn mạnh nét này bỏ qua nét kia, làm hiện rõ hai bức chân dung, dự báo số phận về sau của hai người.

Trên đây, uct.edu.vn đã dành tặng cho bạn hồi 1 Thúy Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Với bút pháp điêu luyện bài thơ đã bộc lộ lên nỗi niềm xót thương của ông đối vơi số phận bèo bọt của người phụ nữ Việt Nam xưa. Bài thơ này vẫn được vẹn nguyên giá trị cho đến hiện nay. Cảm ơn các bạn đã luôn đồng hành cùng uct.edu.vn trong suốt thời gian qua! 

Video liên quan

Chủ đề