Kinh tế học truyền thông: Bối cảnh ra đời và vấn đề hiện nay(ĐCSVN) - Vào những năm 70 của thế kỷ XX, với sự bùng nổ của thị trường các phương tiện nghe - nhìn, sự ra đời manh nha của mạng Intenet, quá trình hợp nhất doanh nghiệp tư bản và xu hướng hội tụ các phương tiện truyền thông, khái niệm kinh tế học truyền thông (media economics) bắt đầu xuất hiện và được đề cập, nghiên cứu khá rộng rãi trên toàn thế giới, trước hết là ở Mỹ và các nước phương Tây.
Đây là môn khoa học nghiên cứu nền kinh tế truyền thông (media economy) ngày ấy đang ra đời trong nền kinh tế thế giới. Nếu như kinh tế học, so với các ngành triết học, chính trị học, văn học, dân tộc học…, là ngành khoa học trẻ hơn, thì rõ ràng kinh tế học truyền thông là một chuyên ngành còn rất trẻ trong khoa học kinh tế. Người ta nhắc nhiều đến sự ra đời năm 1988 và hoạt động của Tạp chí Kinh tế học truyền thông (Journal of Media Economics) với tôn chỉ mục đích “nghiên cứu những phương diện kinh tế của hoạt động truyền thông và những vấn đề kinh tế chính trị có liên quan đến truyền thông toàn cầu” như sự kiện khai sinh chuyên ngành kinh tế học truyền thông. Ngay sau 1988, hàng loạt các công trình nghiên cứu đã được xuất bản: Picard, R.D: Media Economics: Concepts and Issues, Beverly Hills, Sage, 1989; Alexander, A.Owers and Carveth, R: Media Economics: Theory and Practice, Lawrence Eribaun Associates, New York, 1993; Albarran, A.B: Media Economics: Understanding Markets, Industries and Concepts, Iowa State University Press, Ames, IA, 1996; Albarran, A.B and S. Chan-Olmsted: Global Media Economics: Commercialization, Concentration and Integration of World Media Markets, Iowa State University Press, JA, 1988… Đây được xem như những nền tảng lý luận đầu tiên cho chuyên ngành kinh tế học trẻ trung này.
Chuyên ngành kinh tế học truyền thông được tiếp tục phát triển trong bối cảnh tư duy kinh tế phương Tây vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của kinh tế học vĩ mô theo trường phái của Keynes. Bởi vậy, trong thời gian đầu, kinh tế học truyền thông không có nhiều lựa chọn học thuật, chỉ bó hẹp không gian của mình vào 4 nội dung: Các vấn đề của kinh tế học vi mô; mô hình tổ chức công nghiệp truyền thông; chính sách truyền thông và kinh tế chính trị học truyền thông. Các vấn đề của kinh tế học vi mô rất được chú trọng nghiên cứu bao gồm: Cạnh tranh và xu hướng tập trung của loại hình báo in; đặc điểm kinh tế của hoạt động báo in; cấu trúc báo hình và khả năng cạnh tranh của nó với các loại hình báo chí khác; nguồn thu từ quảng cáo và tác động đến các hoạt động truyền thông khác; sức cạnh tranh của phát thanh; thực trạng tập trung sở hữu các thiết bị truyền thông và các doanh nghiệp truyền thông; công nghiệp xuất bản, công nghiệp điện ảnh; chi tiêu của người tiêu dùng sản phẩm truyền thông; rào cản đối với xuất - nhập khẩu các sản phẩm truyền thông… Mô hình tổ chức công nghiệp truyền thông được giới khoa học kinh tế truyền thông đánh giá là một vấn đề liên quan đến thiết chế sản xuất và thị trường tiêu thụ đặc thù. Mọi người dành nhiều sự quan tâm đến cấu trúc, quản lý và vận hành thị trường truyền thông. Và đương nhiên, lợi nhuận của nền công nghiệp truyền thông được nghiên cứu khá rộng rãi, công phu. Chính sách truyền thông được nghiên cứu trên các khía cạnh rất thiết thực: quan hệ giữa truyền thông và chính quyền; chính sách chống độc quyền; chính sách đường truyền dẫn; quy chế truyền hình; quy định về hợp tác giữa các tổng biên tập… Kinh tế chính trị học truyền thông được hiểu như phân ngành mới của kinh tế chính trị học. Nó nghiên cứu các khái niệm thực sự mới lạ như phương pháp luận kinh tế học truyền thông, tư bản truyền thông, không gian truyền thông, doanh nghiệp truyền thông, thị trường truyền thông, bối cảnh văn hóa - xã hội của truyền thông… Kể từ thời điểm chuyên ngành kinh tế học truyền thông ra đời đến nay, hoạt động truyền thông trên thế giới đã có nhiều bước phát triển sâu rộng từ công nghệ, phương tiện, công cụ, không gian truyền thông đến cách thức tổ chức hoạt động, chính sách, chiến lược truyền thông, nhu cầu tiêu dùng sản phẩm truyền thông… Hơn nữa, những phát triển này của hoạt động truyền thông lại diễn ra trong một thế giới đang thay đổi trên mọi lĩnh vực, từ cơ tầng kỹ thuật - công nghệ và kinh tế - vật chất đến chính trị, xã hội, văn hóa, đặc biệt là quá trình toàn cầu hóa ngày càng đa tầng, đa chiều cạnh và đa khuynh hướng hiện nay. Hiện thực phong phú, phức tạp này trên thực tế đã trở thành mảnh đất màu mỡ để kinh tế học truyền thông tiếp tục phát triển. Mọi hoạt động kinh tế, như chúng ta đều rất sáng tỏ, đều được triển khai trong một môi trường thể chế chính trị và môi trường văn hóa - xã hội cụ thể, cho nên mọi chuyên ngành kinh tế học đều có nền tảng kinh tế chính trị học rất xác định. Sự ra đời của chuyên ngành kinh tế chính trị học truyền thông, như được khái quát ở phần trên, phản ánh rất rõ lô gích này. Bởi vậy, đối với chúng ta ở Việt Nam, rất cần tiếp thu có chọn lọc những kết quả, thành tựu của kinh tế học truyền thông trên thế giới và bám sát thực tiễn truyền thông của đất nước để bổ sung, phát triển thành môn kinh tế học truyền thông Việt Nam. Tinh thần chung là kế thừa và phát triển; tôn trọng cái phổ quát và đảm bảo cái đặc thù; gắn lý luận với thực tiễn, tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận. Trong quá trình này, xin được nêu lên một số định đề sau đây: Một là, quan điểm của Đảng đã nhấn mạnh rất rõ nhiệm vụ xây dựng một “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường”. Kinh tế truyền thông, với tính cách là bộ phận của nền kinh tế hiện nay ở nước ta, sẽ được vận hành trong khung khổ thể chế vĩ mô đó, được nhìn nhận như mô hình tổng quát cho suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhìn nhận ở phương diện này, kinh tế học truyền thông Việt Nam sẽ có nhiều điểm chung với kinh tế học truyền thông trên thế giới. Hai là, công tác truyền thông, báo chí, xuất bản… ở nước ta do Nhà nước quản lý và Đảng lãnh đạo một cách tập trung, thống nhất. Chúng ta có tự do báo chí, nhưng không có báo chí tư nhân, độc lập. Ở những mức độ khác nhau, báo chí, xuất bản đều có nhiệm vụ truyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mặc dù báo chí Việt Nam có chức năng giám sát, phản biện xã hội, nhưng không có báo chí đối lập. Riêng điều này thôi cũng tạo ra nhiều nội dung riêng biệt của kinh tế học truyền thông Việt Nam. Ba là, nhìn từ phương diện không gian và thị trường truyền thông, rõ ràng đã hình thành một chuỗi giá trị toàn cầu mà trong đó diễn ra quá trình sản xuất và kinh doanh mọi sản phẩm, dịch vụ, công nghệ… truyền thông. Việt Nam là một trong những quốc gia có mức độ hội nhập quốc tế sâu rộng nhất thế giới hiện nay, đặc biệt là hội nhập kinh tế. Bởi vậy, xây dựng và phát triển chuyên ngành kinh tế học truyền thông của nước ta không thể bó hẹp trong không gian quốc gia truyền thống. Bốn là, trong hoạt động truyền thông, có mạng xã hội, các trang tin điện tử cá nhân, trang tin điện tử phi chính thức được gọi chung là truyền thông xã hội (để phân biệt với truyền thông chính thống do nhà nước quản lý) và các hoạt động quảng cáo - giải trí mà đa phần do tư nhân xây dựng chương trình, sau đó được trình chiếu trên các phương tiện truyền thông cả chính thức và phi chính thức. Để tạo thuận lợi cho kinh tế truyền thông tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường, cần xác định kịp thời đâu là những hoạt động truyền thông được Nhà nước bao cấp, đâu là những hoạt động truyền thông phi lợi nhuận và đâu là những hoạt động truyền thông có thu, có lãi? Năm là, cần thống nhất xác định những gì của kinh tế truyền thông là sản phẩm hàng hóa được trao đổi trên thị trường theo đúng giá trị của nó, những gì không phải là hàng hóa thì không được đem ra thương trường?; những gì thuộc độc quyền Nhà nước, những gì triển khai được theo cơ chế hợp tác công - tư, những gì có thể giao và nên giao cho khu vực tư nhân thực hiện…? Truyền thông được xem như “quyền lực thứ tư”. Xây dựng kinh tế của “quyền lực thứ tư” này không nên được nhìn nhận đơn giản trên phương diện kinh tế thuần túy, mà rất cần xem nó là những gì sẽ được biểu hiện tập trung thành chính trị, như các nhà kinh điển đã cảnh báo về mặt phương pháp luận. Còn về mặt thực tiễn, lập trường cực đoan, bảo thủ đã làm cho truyền thông mất tính sống động và lập trường hữu khuynh, vô nguyên tắc đối với truyền thông đã góp phần xô đổ tòa tháp của cả 3 quyền lực thứ nhất, thứ hai, thứ ba ở không ít nơi trên thế giới. Nhắc lại điều này khi ngày 21 tháng 6, Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam, đang đến gần là điều rất có ý nghĩa! Nguyễn Viết Thảo, nguyên Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
|