Hạn chế lớn nhất của giáo dục nho học trong thời phong kiến ở nước ta là gì

Giáo dục Nho giáo có hạn chế gì?

B. Không tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế

Đáp án chính xác

C. Nội dung chủ yếu là kinh sử

D. Chỉ con em quan lại, địa chủ mới được đi học

Xem lời giải

Answers ( )

  1. Hạn chế lớn nhất của giáo dục nho học trong thời phong kiến ở nước ta là gì

    Mình góp vài ý là:

    +Đối tượng được cho đi học còn rất hạn chế.

    + Đề cao giáo dục đạo đức, lễ nghĩa là tốt nhưng ứng dụng một cách máy móc, không linh động.

    +Nội dung dạy học thiên về KHXH mà chưa chú trọng đến KHTN và thực tiễn của đất nước.

    +Giáo dục nho học quá coi trọng việc làm quan, làm chính sự, coi đó là thước đo thành công của người đi học và kết quả đào tạo của nhà trường.

    Vài ý mình tìm được nha, còn lại bạn có thể suy nghĩ hoặc tham khảo tài liệu nhé !

  2. Hạn chế lớn nhất của giáo dục nho học trong thời phong kiến ở nước ta là gì

    Mục đích của nền giáo dục Phong kiến không nhằm vào những con người làm khoa học, lao động sản xuất để phát triển xã hội mà đào tạo những con mọt sách, những đồ đệ phục vụ tầng lớp phong kiến: quân – quân, thần – thần, phụ – phụ, tử – tử,
    Nội dung giáo dục nghèo nàn, nặng về văn chương; nội dung về lao động sản xuất, khoa học kỹ thuật hầu như không có. (Do ảnh hưởng tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, mà Khổng Tử thì không quan tâm đến lao động sản xuất).
    Phương pháp giáo dục giáo điều, uy quyền, nặng về học cổ, ít quan tâm phát triển xã hội.
    Tổ chức bất bình đẳng trong giáo dục: trọng nam kinh nữ, con em tầng lớp quý tộc mới được đi thi, không phải mọi người đều có cơ hội đi học.
    Triều đình chỉ lo giáo dục cho con em vua chúa và quan lại ở Kinh đô còn ở những nơi khác phải mời thầy đồ về giảng dạy.
    Tài liệu học tập hết sức hạn chế, chỉ có 2 loại: Do Trung Quốc biên soạn là tứ thư, ngũ kinh và 1 loại do người Nam soạn.
    Tổ chức thi cử rất nghiêm ngặt nhưng nội dung thi rất khập khiễng, các đề thi chủ yếu ca tụng vua chúa, ca ngợi triều đình, ca ngợi nho giáo. Thời gian thi qua các kỳ kéo dài, ngắn: có kỳ 3 năm, có kỳ 10 năm.

Nêu những giá trị hạn chế của nho giáo và ảnh hưởng của nho giáo đến việt nam hiện nay

  • doc
  • 27 trang
LỜI MỞ ĐẦU
Như ta đã biết , Nho giáo đã có một sự ảnh hưởng rất lớn đến xã hội
Việt Nam . Nó là một trong ba hệ tư tưởng chủ đạo cùng với Phật và Đạo
giáo . Nho giáo đã từng là vũ khí của kẻ xâm lược , đã từng là hệ tư tưởng
thống trị trong xã hội phong kiến . Nho giáo đã giữ một vị trí đặc biệt và có
một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân ta qua các giai
đoạn lịch sử . Và cho đến ngày nay , nó cũng để lại những tàn dư dai dẳng .
Chính vì thế việc nghiên cứu về Nho giáo , về những ảnh hưởng của Nho
giáo đến xã hội Việt Nam là điều hết sức quan trọng và cần thiết . Khi đó
chúng ta có thể hiểu được những ưu điểm và những mặt hạn chế của Nho
giáo để bài trừ những hủ tục , những tư tưởng phản động và gạn lọc lấy
những mặt tích cực trong thời kì quá độ ngày nay .

NÊU NHỮNG GIÁ TRỊ HẠN CHẾ CỦA NHO GIÁO
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐẾN VIỆT NAM HIỆN NAY

1

I.

SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO .

1.

Sự hình thành và phát triển của Nho giáo .

Khi nói đến Khổng giáo thì ta cũng hiểu đó là Nho giáo .Sở dĩ như
vậy là vì Khổng tử là người đã sáng lập ra Nho giáo và khi người ta gọi tên
thì cũng gắn học thuyết này với tên tuổi người đã sáng lập ra nó . Tuy nhiên
những tư tưởng Nho giáo không phải chỉ đến thời Khổng tử mới có mà nó
đã có từ những thế kỉ trước . Trước thời Xuân Thu các nhà nho được gọi là
“sỹ” chuyên học văn chương và lục nghệ góp phần trị vì đất nước . Đến đời
mìmh , Khổng Tử đã hệ thống những tư tưởng và học thuyết trước đây
thành học thuyết , gọi là Nho gia hay Nho học .
Ngay từ nhỏ , Khổng tử đã nổi tiếng là người thông minh , học giỏi
siêng năng và thích chơi trò cúng tế . Sau này ông làm quan cho nước Tề
lên đến chức Nhiếp tướng bộ coi việc hình án , ấn định luật lệ , phép tắc
trong nước . Trong bốn năm nhậm chức , Khổng tử đã thẳng tay trừng trị
bọn loạn quan , nịnh quan trong triều , đem lại trong nước Lỗ cảnh “ ban
đêm ngủ không phải đóng cửa , ban ngày ra đường không ai nhặt của rơi ,
luân thường đạo lí được coi trọng ”
Song vua nước Lỗ đam mê tửu sắc ,đàn hát ca múa xa hoa , bỏ bê việc
triều đình nên Khổng Tử chán ngán , bỏ qua nước Vệ . Không được trọng
dụng ở Vệ , ông qua Trần , về Vệ , sang Tống lại qua Trần ,về Vệ . Mười
bốn năm ông cùng học trò bôn ba mong gặp người sử dụng học thuyết của
mình , song ý nguyện của ông đã không thành . Đến đời Hán vũ đế , năm
130 trước công nguyên thì đạo nho được phục hưng và từ đó nho giáo trở
thành hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội phong kiến . Nho giáo có mặt trong
tất cả các triều đại phong kiến Trung Hoa , nó để lại dấu ấn của mình không
chỉ trong sách vở mà trong cả cuộc sống thực của nhiều thế hệ . Và nó cũng
đã ảnh hưởng rất nhiều đến các triều đại phong kiến , đến phong tục , tập
quán của các nước phương Đông .
2.

Một số tư tưởng chính trong hệ tư tưởng Nho giáo .

Khổng Tử san định sách Dịch , Thi ,Thư , Lễ , Nhạc của đời trước để
lại , viết sách Xuân Thu để bộc lộ quan điểm của mình . Nhiều quan điểm
khác của ông được thể hiện qua các cuộc đàm đạo mà nội dung của nó sau
2

này được trìng bày trong Luận ngữ , do học trò của ông chép lại .Đời Hán
Vũ đế năm 130 trước công nguyên sách nhạc chỉ còn một thiên , được đem
nhập vào bộ lễ kí gọi là Thiên nhạc kí . Những sách khác được người đời
sưu tầm , bổ sung tạo thành năm kinh là Kinh Dịch , Kinh Thi , Kinh Lễ và
Kinh Xuân Thu .
Kinh Dịch : giải thích sự vân hành cũa vũ trụ , dùng để bói điềm lành ,
dữ trong dời sống của con người . Theo người Trung Hoa thượng cổ , trời
đất có âm , dương tương tác với nhau tạo thành sinh hoá . Song do quỷ thần
can thiệp vào nên âm dương lúc ẩn , lúc hiện . Kinh Thư : là bộ sách từ đời
Nghiêu đến đời Tần Mục Công . Bộ sách trình bày tỉ mỉ hoạt động ,đường
lối , tư tưởng của người cổ về tiếp nhân , xử thế , đề cao phương pháp trị vì
thiên hạ bằng đạo lí , thuận thiên thời , thuận thuỷ thổ , thuận nhân tâm ,
thuận lòng dân mà các thánh vương ngày xưa đã sử dụng .
Kinh Thi : là bộ sách chép lại những bài ca , bài dao của người Trung
Hoa cổ dại . KhổngTử san định Kinh Thi để mong người đời hiểu điều hiểu
trung , biết thương , biết ghét và mở mang tri thức .
Kinh Lễ : gồm ba bộ ; Chu Lễ , Nghi Lễ và Lễ Kí . Trong đó Chu Lễ
nói về cách tổ chức hành chính , chính trị xã hội trong thời Chu , Nghi Lễ
quy định thể thức lễ nghi trong cuộc sống , còn Lễ Kí là phần do các môn
đệ của Khổng Tử bình về các phong tục .Kinh lễ là sự vận dụng các quan
diểm về vũ trụ vào cuộc sống để quy định mọi cử chỉ , hành vi , bổn phận
của con người từ tấm bé cho đến khi nhắm mắt tắt hơi .
Kinh Xuân Thu : Xuân Thu là bộ sách Khổng tử viết về nước Lỗ , từ
đời Lỗ Ân Công đến đời Lỗ Ai Công , là chuyện về nhà Chu cùng các chư
hầu khác .Có thể coi đây là bộ biên niên sử mà KhổngTtử trong khi tránh
đụng chạm đến các thế lực đang cầm quyền đã dùng nó để vạch ra nguyên
nhân loạn lạc của xã hội đương thời .

3

II. NHỮNG MẶT HẠN CHẾ VÀ GIÁ TRỊ TRONG HỌC THUYẾT
NHO GIÁO CỦA KHÔNG TỬ .
1.

Quan niệm về thế giới .

1.1. Những mặt tích cưc.
Trong quan điểm về thế giới của Khổng Tử mang tính duy vật chất
phác , tuy nhiên như thế đã là rất tiến bộ và đã góp phần chống lại quan
điểm của chủ nghĩa duy tâm cho rằng khởi nguyên của thế giới là ý thức .
Khổng tử cho rằng khởi nguyên của thế giới là vật chất và cái vật chất ấy
lúc đâù là cõi hỗn mang mờ mịt. Trong cái hỗn mang ấy có cái “lý” gọi là
“thái cực” vô hình huyền diệu chứa đựng hai mặt tiềm ẩn , đối lập liên hệ
với nhau là âm dương điều hoà giữa âm dương , trời đất sẽ sinh ra vạn vật .
Những quan điểm về trời đất của ông cũng là những quan điểm tiến bộ .
Ông cho rằng thế giới luôn vận động và biến đổi không ngừng , vận động
không chỉ là sự chuyển đổi vị trí mà còn là sự chuyển hóa lẫn nhau .Ông
cho rằng Thái cực có bản thể và động thể . Vì nó là vô hình nên không nhận
biết được bản thể của nó , song có thể nhận biết được động thể của nó biểu
hiện qua sự tương tác chuyển hoá lẫn nhau giữa âm , dương . Ông dạy học
trò của mình “Cũng như dòng nước chảy , mọi vật đều trôi đi , không có
vật gì ngừng nghỉ ” hoặc “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa cứ vận hành , vạn
vật cứ sing hoá mãi ” .
1.2. Những hạn chế
Trong quan điểm của Khổng Tử có những quan điểm duy vật nhưng
cũng có những quan điểm duy tâm . Khổng Tử rất tin ở trời , với ông trời
như một quan toà công minh cầm cân , nảy mực phán xét mọi sự vật . Trời
quyết định sự thành , bại trong cuộc sống của con người . Khổng Tử đặt hết
niềm tin và ý chí vào trời . Ông khuyên mọi người phục tùng ý chí đó và
coi việc hiểu biết mệnh trời như một điều kiện để trở thành một con người
hoàn thiện “ không hiểu mệnh trời không phải là người quân tử ”( Luận
Ngữ , Nghiêu viết ,3) Quan điểm của Khổng Tử về trời đất như vậy tất yếu
dẫn đến thuyết “sống chết có mạng , giàu sang tại trời ” ( Luận ngữ , Nhan
Uyên ) . Sở dĩ quyền lực và sức mạnh của trời là sự thần thánh hoá quyền
lực và sức mạnh của thế lực cầm quyền trên mặt đất . Với quan điểm triết
4

học cơ bản là duy tâm , muốn ru ngủ quần chúng bằng niềm tin vào mệnh
trời và số phận , Không Tử đã thể hiện rõ thái độ của mình trong việc ủng
hộ giai cấp chủ nô khi chế độ chiếm hữu nô lệ đã bước vào thời kì suy tàn
và khởi nghĩa vũ trang của nhân dân đang nổ ra khắp nơi .
Những hạn chế trong quan điểm về thế giới của ông còn thể hiện
ngay cả trong những quan điển duy vật . Những quan điểm mà ông đã rút
ra chỉ là từ những suy luận của chính mình , chỉ là sự hình dung trong đầu
óc mà không đưa ra bất cứ cơ sở khoa học nào để chứng minh .Như nhà
triết học phương tây Franxi Bêcơn ví đó như phương pháp “con nhện” . Đó
là “chỉ biết ngồi rút ra sự thông thái của mình từ chính bản thân mình ,
muốn thay thế việc nghiên cứu giới tự nhiên và những quy luật của nó bằng
những luận điểm trừu tượng , bằng việc rút ra những kết quả bằng những
kết luận chung, không tính đến sự tồn tại thực tế của chúng.”(1)
2.

Quan niệm về chính trị và đường lối cai trị đất nước .

Khi sáng tạo ra học thuyết Nho giáo , Khổng Tử đã đứng trên lập
trường của giai cấp thống trị mà ở vào thời của ông là giai cấp chủ nô .
Chính vì thế mà học thuyết do ông sáng tạo ra cũng là để bảo vệ lợi ích và
địa vị thống trị cho giai cấp mình .Để trị vì đất nước , khôi phục trật tự xã
hội , Khổng Tử chủ trương thực hiện truyết chính danh .
2.1. Những giá trị .
Trước hết ta xác định những giá trị trong quan điểm về chính trị của
Khổng Tử thì trước đây dưới chế đọ cũ không thực hiên được nhưng trong
điều kiên xã hội ngày nay ta có thể tiếp thu những gía trị ấy . Không tử
hằng mơ ước một xã hội lí tưởng trong đó người già được nuôi dưỡng , trẻ
em được chăm sóc , người lớn có công ăn việc làm , nhân dân được ấm no
hạng phúc , không có trộm cướp, chiến tranh , của rơi ngoài đường không
ai nhặt . Khổng tử răn dạy các bậc vua chúa : vua phải là những người có
đạo đức cao cả , có tài năng lỗi lạc , phải là bậc thánh có thể cảm hoá nhân
dân , quan phải là những tôi hiền , tướng giỏi có đủ tài để giúp vua an dân
trị nước đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân , xứng đáng là cha mẹ của
1

( Trích Giáo trình triết học Mac-Lênin , NxB chính trị Quốc

Gia )

5

dân .Không tử đề ra khẩu hiệu “ý dân là ý trời , ý dân với ý trời là một , vua
phải làm theo ý dân tức ý trời ” .Khổng tử chủ trương dùng lễ nhạc để giáo
hoá nhân dân , bần cùng bất đắc dĩ mới phải dùng đến biện pháp hành
chính , đến pháp luật .Không chủ trương dùng luật pháp mà dùng đạo đức
làm công cụ để ổn định trật tự xã hội , Khổng tử đã nhìn thấy sức mạnh của
đạo đức trong cuộc sống . Đạo đức và luật pháp đều là những nguyên tắc ,
những chuẩn mực điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ giữa
người với người , giữa cá nhân với xã hội . Song , nếu luật pháp là những
yêu cầu tối thiểu thì đạo đức là những yêu cầu tối đa về việc thực hiện
những quan hệ này . Nếu luật pháp được thực hiện do sự cưỡng chế từ bên
ngoài thì những nguyên tắc , những chuẩn mực đạo đức được thực hiện từ
bên trong do tính tự giác của mỗi người quy định , khi bản thân người ấy đã
nhận thức được quan hệ của mình với những người xung quanh . Pháp luật
trừng trị những hành động phạm pháp căn cứ vào hậu quả của nó nhưng
không thể trừng trị sự vi phạm còn nằm trong ý đồ nào đó của các thành
viên trong xã hội . Đạo đức thì khác hẳn , ý thức đạo dức của mỗi người sẽ
tự trừng trị mình ngay từ khi người đó nghĩ đến hành động gây hậu quả .
Chính vì vậy khi vai trò của đạo đức được nâng cao đến một mức độ nhất
định và khi sự trừng giới bên trong mỗi người được củng cố vững mạnh
đến một mức độ nhất định thì sự thi hành trừng giới bên ngoài – sự thi hành
pháp luật sẽ trở thành thừa .
2.2.Những hạn chế .
Có thể nói những hạn chế bắt nguồn từ ngay những ưu điểm . Những
quan diểm như vua quan là cha là mẹ dân , rồi dùng lễ nhạc để giáo hoá
nhân dân ...thực chất đều là những quan điểm tiến bộ của Khổng Tử nhưng
những tư tưởng ấy đều bị giai cấp phong kiến xuyên tạc để ru ngủ nhân dân
, để củng cố địa vị thống trị của giai cấp phong kiến . Trong thực tế , bọn
vua chúa hầu hết lànhững người dâm ô , truỵ lạc , tàn bạo nhất đạo đức suy
đồi nhất , đồng thời cũng là những người được hưởng lạc nhiều nhất trên
đời . Còn bọn quan lại hầu hết là một lũ nịnh trên , đè dưới , đục khoét
dân , làm những điều táng tận lương tâm , miễn là được vinh thân phi gia .
Thoảng hoặc có một vài viên quan liêm chính , quan tâm đến quyền lợi
quốc gia dân tộc , thì những viên quan đó bị bao vây cô lập , nhiều khi bị
6

hãm hại nếu không mau chóng treo ấn từ quan . Nguyên nhân là vì từ vua
chí quan đều mưu mô lợi ích cá nhân , lòng tham không đáy . Vì xung
quanh đều tham ô , nịnh hót , một mình trung thực , liêm chính thì ai tha
cho . Quyền hành của bọn vua chúa thì vô hạn . Bọn quan lại cũng dựa vào
đó mà tha hồ áp bức bóc lột nhân dân . Như vậy làm sao có thể thực hiện
được nhân chính .Khổng tử đề ra khẩu hiệu ý dân là ý trời thì có vẻ tôn
tọng quyền làm chủ của dân lắm nhưng trong thực tế , đối với bọn vua chúa
, chỉ một lời nói hay một cử chỉ vô ý phạm thượng thì đã bị tội chém đàu
rồi làm sao có thể thực hiện được dân chủ . Khổng Tử chủ trương dùng lễ
nhạc để giáo hoá nhân dân , cái ấy là điều tốt nhưng tư tưởng ấy chỉ có thể
thành sự thực trong một xã hội văn minh nhất , ý thức con người đã phát
triển đến trình độ cao . Còn với điều kiện thời bấy giờ và thậm chí cho tới
cả ngày nay thì luật pháp vẫn cứ là một công cụ hữu hiệu để duy trì trật tự
xã hội . Nó luôn gắn với đạo đức và có đủ sức mạnh để khẳng định hay phủ
định một bộ luật đạo đức nào đó . Với tư cách là những đòi hỏi mang tính
cưỡng chế , luật pháp giữ vai trò cực kì quan trọng trong việc hình thành ý
thức đạo đức , hành vi dạo đức , thói quen đạo đức hay nói cách khác nó
cũng chính là công cụ để rèn luyện cho con người sự tự ý thức . Và thực
tiễn dã chứng minh , ngược lại với chủ trương của Khổng Tử , người ta
dùng những hình phạt rất tàn khốc như roi vọt tra tấn nhục hình , gông cùm
chem giết ... để trấn áp nhân dân gây ra biết bao oan khiên . Giai cấp phong
kiến còn lợi dụng lễ nhạc để củng cố thêm tôn ti trật tự phong kíên . Từ đó
đề ra những tư tưởng sang hèn , phân biệt người trên , kẻ dưới , tư tưởng
độc đoán chuyên quyền hết sức nặng nề trước đây , mà ngày nay chưa được
quét sạch hết .
Nói chung , những quan điểm của Khổng Tử trong chính trị và đường
lối cai trị đất nước chủ yếu là để bảo vệ giai cấp thống trị mang nặng tư
tưởng trọng quan khinh dân làm cho những người khi đã tham gia vào tầng
lớp thống trị thì ngày càng trở nên xa rời quần chúng nhân dân . Thái độ
của dân đối với vị vua thời bấy giờ là thái độ sợ hãi và tôn sùng một vị
hoàng đế được thần thánh hoá và đối lập với quần chúng nhân dân . Vua
được gọi là thiên tử nghĩa là con trời , đó là hình ảnh mà Nho giáo đã dựng
lên cho vị vua thời bấy giờ . Tư tưởng đức trị nhân trị , phương pháp giáo
7

dục nêu gương đã càng ngày càng làm cho xã hội phong kiến đã trở nên
ngày càng thối nát , mục ruỗng , giai cấp thống trị ngày càng trở nên lộng
hành . Tuy nhiên Nho giáo cũng góp phần ổn định trật tự xã hội và củng cố
trật tự phong kiến đáp ứng đòi hỏi của chế độ trung ương tập quyền .
3.

Quan điểm tam cương ngũ thường .

Trong các mối quan hệ xã hội , Nho giáo xác định 5 mối quan hệ cơ
bản và thông thường của mỗi đời người trong thiên hệ được gọi là ngũ luân
gồm 5 quam vua-tôi , cha-con , chồng-vợ , anh-em , bè bạn . Mỗi quan hệ
lại có những tiêu chuẩn riêng cho từng đối tượng như cha hiền , con thảo ,
anh tốt , em ngoan , chồnh biết tình nghĩa , vợ nghe lẽ phải , bề trên từ hiéu
bề dưới kính thuận , vua nhân từ , tôi trung thành . Trong ngũ luân có 3 mối
quan hệ cơ bản nhất , Nho gia gọi là tam cương
3.1.Những giá trị .
Đối với quan hệ vua tôi , trước hết Khổng Tử chống nối ngôi vua theo
kiểu cha truyền con nối . Ông lên án việc truyền chức tước theo huyết
thống , dòng dõi . Khổng tử cho rằng người cần quyền phải có đức , có tài
mà không càn tính đến đẳng cấp xuất thân của họ .Khổng Tử đẫ nêu ra
những đòi hỏi đối với người đứng đầu quốc gia mà bao hàm người đó phải
đạt được nhân đạo và thiên đạo -để trở thành một vị minh quân một bề trên
chính trực .Về những yêu cầu cụ thể đối với vua , Khổng Tử chủ trương :
vua phải đảm bảo cho dân được ấm no , phải xây dựng lực lượng quân sự
hùng hậu và đặc biệt là phải chiếm được lòng tin của dân . Ngoài ra vua
còn phải biết quý trọng người đức độ và có năng lực làm việc phải biết
rộng lượng đối với những người cộng sự của mình . Ông dạy rằng : “nhà
cầm quyền nên thi hành 3 việc này : 1) trước hết,nên phân phát công việc
cho những quan chức dưới quyền của mình , họ làm xong thì mình xem xét
lại . 2) những ai phạm lỗi nhỏ thì dung thứ cho họ ; 3) cử dùng những
người hiền đức và tài cán “ .Còn dân đối với vua thì phải đặt chữ trung lên
hàng đầu .
Trong quan hệ cha con , Khổng tử chủ yếu đề cập đến chữ hiếu .
Khổng Tử nhấn mạnh đến cái tâm con cái dành cho cha mẹ ,không phải chỉ

8

là phụng dưỡng người đã sinh ra mình mà trước hết phaỉ là lòng thàng kính
.
3.2. Những hạn chế .
Trong ngũ luân nghĩa là có năm mối quan hệ đó là quan hệ vua-tôi ,
cho-con , anh-em , chồng-vợ , bè bạn thì quan hệ vua tôi đứng đầu .Ông
cho rằng đã là quần thần thì phải tuyệt đối trung thành , tin tưởng và phục
tùng nhà vua . Quan điểm của ông là “Quân xử thần tử , thần bất tử , bất
trung . phụ xử tử vong ,tử bất vong , bất hiếu” hay “cha mẹ đặt đâu . con
nằm đấy” . Điều ấy cho thấy Khổng tử đã chủ trương thực hiện ngu trung ,
ngu hiếu . Khổng Tử đòi hỏi một sự phục tùng tuyệt đối của con cháu đối
với cha ông bởi thời nay không bằng thời xưa và cha ông bao giờ cũng là
mẫu mực cho con cháu . Khổng tử đòi hỏi phải học theo người xưa và sau
khi cha chết 3 năm không được đổi ý cha .
Trong quan hệ vợ chồng thì tư tưởng khinh rẻ phụ nữ là tư tưởng nổi
bật trong Khổng giáo . Không Tử cho phụ nữ là người khó dạy (phụ nữ
nhân nan hoá) ,nên ông buộc người phụ nữ phải theo tam tòng tứ đức . Địa
vị người đàn ông được tôn trọng tuyệt đối .Ông quy đạo đức người phụ nữ
vào 4 điểm công –dung – ngôn –hạnh . Đó là thứ đạo đức biến người đàn
bà thành một công cụ cho người đàn ông . Người đàn ông khi chọn vợ thì
quan trọng nhất là sắc đẹp . Đàn ông thì có quyền năm thê , bảy thiếp còn
“gái chính chuyên thì lấy một chồng” . Trong xã hội những người đàn ông
có nhiều vợ còn được xem là những người có địa vị cao trong xã hội . Công
của người phụ nữ là tinh thần tận tuỵ lao động bếp núc ,vá may , phục vụ
cho cuộc sống an nhàn của người đàn ông . Những người phụ nữ xưa kia
đều phải nuôi chồng học hành đến khi đỗ đạt làm quan . Đó như là một
nhiệm vụ của người phụ nữ thời bấy giờ . Giống như nhà thơ Tú Xương
ngày xưa đã ví von người chồng như một đứa con thâm chí còn là gánh
nặng hơn một đứa con . Ngôn là lời nói dịu dàng , biết gọi dạ bảo vâng ,
tuyệt đối lễ phép với chồng , bố chồng và mẹ chồng . Hạnh của người phụ
nữ chỉ tập trung vào điểm giữ được trinh tiết mặc dầu người người chồng
xấu xa , hèn mọn như thế nào .Hạnh ấy khuyên người phụ nữ không nên tái
giá khi chồng đã chết . Trong xã hội cũ , những người phụ nữ như thế sẽ
được triều đình phong kiến phong cho bốn chữ là “Tiết hạnh khả phong” .
9

Pháp luật phong kiến cho phép người chồng đuổi vợ và cắt đứt hôn nhân
trong trường hợp vợ hỗn với bố mẹ chồng , hoặc vợ tàn tật hoặc vợ không
có con .Đạo đức phong kiến đòi hỏi ngươì vợ phải tiết liệt chứ không đòi
hỏi người chồng phải tiết liệt .
4.

Về những chuẩn mực đạo dức .
Nội dung đạp đức của Khổng Tử quan trọng nhất là nhân , trí , dũng

4.1.Những giá trị
Trong quan điểm về phạm trù nhân , Khổng Tử cho rằng , đối với
mình “người có nhân trước hết phải làm những việc khó , sau mới hưởng
thành quả mới có thể gọi là nhân”, người nhân sẵn sàng vui vẻ sống trong
bất cứ hoàn cảnh nào , dù đấy là vinh hoa hay đói nghèo , túng thiếu .
người có nhân cái cao cả nhất là đức nhân của mình , có thể vì nhân mà sát
thân chứ không vì thân mà hại nhân , vì có đức nhân con người sẽ tự kiềm
chế được mình để tuân theo lễ tiết của xã hội . (Luận ngữ , Nhan Uyên ,1)
để vững vàng trầm tư như núi trước mọi thử thách cuộc đời . Đối với người
có nhân nguyên tắc suốt đời phải theo là “thương yêu người khác” ( Luận
ngữ, Nhan Uyên ,21) . Giải thích điều này Khổng Tử dạy : “ người nhân
muốn tự lập lấy một mình , thì phải lao lập cho người , muốn thành đạt cho
mình thì cũng là thành đạt cho người . Người nhân ứng xử với mình như
thế nào thì cũng ứng xử với người như thế ”. (Luận ngữ ,Ung giã , 28 ) .
Nhân chung quy lại như Khổng Tử đã nói là : “người có đức nhân là người
nghiêm trang , tề chỉnh , rộng lượng , khoan dung , đức tín , lòng thành ,
siêng năng , cần mẫn và biết thi ân bố đức ”(Luận ngữ , Dương Hoá ,6) .
Về những điều này ông lí giải :” Nghiêm trang , tề chỉnh sẽ làm người khác
không dám khinh nhờn , rộng lượng khoan dung sẽ làm người khác bị thu
phục , đức tín , lòng thành sẽ làm người khác tin cậy , thi ân bố đức sẽ làm
nguời khác bị sai khiến và cần mẫn , siêng năng sẽ đem lại nhiều điều bổ
ích “ ( Luận ngữ , Dương hoá ,6) .
Như vậy , với những chuẩn mực được đưa ra cho đức nhân, Nho giáo
của Khổng Tử đã góp phần giáo dục nhân dân , chú ý đến việc tự khẳng
định mình của mỗi thành viên trong xã hội . Nó cũng cho thấy tính tích cực
về vai trò của tự ý thức và tự giáo dục của chủ thể trong cuộc sống cộng

10

đồng Đạo nhân đã thiết lập nên những mối quan hệ tốt đẹp giữa người với
người trong xã hội , nó là sợi dây liên kết các cá thể với nhau , với gia đình
và với xã hội
Trong quan niệm về trí của Khổng Tử thì trí được hiểu là sự minh mẫn
nói chung để phân biệt đánh giá con người và tình huống , qua đó tự xác
định cho mình cách ứng xử cho phải đạo . Nói chung theo Khổng Tử phải
có trí con nguời mới vươn tới được đức nhân , nên không thể là người nhân
mà thiếu chí .
4.2.Những hạn chế .
Nếu giá trị của đức nhân là để giáo dục con người thì những hạn chế
của nó cũng thể hiện ngay trong việc giáo dục con người . Đức nhân đòi
hỏi con người phải quên mình . Ông cho rằng người nhân sẵn sàng sống
trong bất kì hoàn cảnh nào dù đấy là vinh hoa hay đói nghèo . Ông khuyên
mọi người nên an phận nghèo . Đối vơí một con người thì vật chất chỉ là
giúp con người tồn tại , còn ngoài ra nó không phải là mục đích , là cái cần
thiết cho con người . Ông ca ngợi một cuộc sống giản dị , trong sạch “ăn
không cầu no” .Đó cũng là một điều tốt nhưng nếu như ai cũng an phận
cũng chấp nhận đói nghèo mà tu thân để có được đức nhân thì chính nhân
không đem lại một cuộc sống thái bình mà nó chỉ đem lại cho người dân sự
nghèo đói , sự rằng buộc dưới ách thốnh trị của giai cấp cầm quyền . Hơn
nữa tư tưởng an phận nghèo còn làm cho cuộc sống của ngươì dân ngày
càng nghèo khổ , túng thiếu . Nó ngăn cản sự tiến bộ của loài người và đây
cũng là nguyên hân làm kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế phong kiến
đặc biệt là đối với những nước đã bị giam hãm quá lâu trong chế độ phong
kiến hà khắc .
Trong quan niệm về trí Khổng Tử cho rằng mục đích cao nhất của
người có trí là ra làm quan , nhậm chức triều đình , tham gia gánh vác công
việc quốc gia và để biết kỉ cương của xã hội mà tuân theo . Do quan niệm
hoc để làm quan nên Khổng Tử không dạy làm ruộng trồng trọt . Ông cho
rằng đó là công việc của những người bậc dưới . Khi Phàn Trì học trò của
ông xin ông học cách trồng cây thí ông đã trách ;”Gã Phàn Trì trí nhỏ hẹp
lắm thay “ và ông cũng thường giận dữ khi có người muốn bàn đến chiến
trận , binh đao. Như vậy ông đã phủ nhận tầm quan trọng của việc nghiên
11

cứu thực tiễn, ông đã đem quá trình nhận thức của con người đóng trong
một cái khung nhất thành bất biến và chân lí không còn là tri thức vể thế
giới khách quan nữa , thực tiễn không còn là cơ sở động lực của quá trình
nhận thức mà thay vào đấylà vai trò của sách vở và sự tự biện. (12)
Nói chung , về đạo đức , Khổng Tử khá sâu sắc khi cụ thể hoá những
nguyên tắc đạo đức thành những chuẩn mực đạo đức cho mẫu người lí
tưởng . Ông cũng thể hiện quan điểm đúng đắn khi nhìn con người không
chỉ thuần tuý dựa vào lời nói mà phải kết hợp giữa động cơ và kết quả ,
giữa lí trí và tình cảm trong việc đánh giá con người . Những quan điểm
của ông cũng có những giá trị nhất định trong việc giáo dục đạo đức nói
riêng và giáo dục nói chung .Tuy nhiên xét cho đến cùng , bộ luật đạo đức
của Khổng Tử trọng danh hơn thực , trọng xưa hơn nay và đã gạt ra ngoài
nhiều giá trị đạo đức mang tính nhân loại phổ biến .(3)
5.

Về giáo dục .

5.1. Những giá trị .
Khổng Tử đã đề ra những phương pháp học rất đúng đắn mà cho đến
ngày nay nó vẫn còn có giá trị đối với chúng ta . Đó là khởi học từ mức
thấp đến mức cao , và phải biết nghe nhiều , học nhiều để qua đó tìm những
điều hay để học , thấy những điều dở để tránh . Khổng Tử cũng rất coi
trọng việc ứng dụng vào cuộc sống nhưng điều đã học .Về vai trò của giáo
dục , ông cho rằng giáo dục có sức mạnh cảm hoá con người , hình thành
nên nhân cách con người . Về phương pháp giáo dục , Khổng Tử rất coi
trọng nguyên tắc làm gương . Bản thân ông là một tấm gương sáng ngời về
học tập . ông thường với các môn đồ : “Ta học tập không chán , dạy người
không biết mỏi ”. Khổng Tử học tập suốt đời : ta 15 tuổi đã có chí học đạo
thánh hiền , 30 tổi thì vững vàng , 40 tổi thì không ngờ vực ,50 tổi biết
mệnh trời ,60 tuổi thì ta nghe thông suốt mọi việc , 70 tuổi thì làm theo ý
muốn , mà không sai khuôn phép”.Về phương pháp học tập , Khổng Tử
khuyên các môn đồ :” Học cho rộng ,hòi cho sâu , suy nghĩ cho chín , trình
bày rõ ràng , tích cực thi hành điều mình đã học tập được “ .Theo ông học
tập chính là học đạo thành hiền , học tập đạo làm người . Khổng Tử đề ra
2
3

( Trích Đại cương triết học Trung Quốc , NxB chính trị Quốc Gia , 1997 )
( Trích Đại cương triết học Trung Quốc , NxB chính trị Quốc Gia , 1997 )

12

thuyết tu thân là thuyết xây dựng con người bằng 5 bước : muốn tu thân
trước tiên phải chính tâm , muốn chính tâm trước tiên phải thành ý , muốn
thành ý trước tiên phải trỉ tri , trỉ tri là ở cách vật . Cách vật là trong mọi sự
vật ta phài phân biệt đúng sai rồi lấy cái đúng , bỏ cái sai . Nói theo ngôn
ngữ hiện đại trong những hiện tượng tự nhiên , xã hội vô cùng phức tạp ta
phải đi vào nghiên cứu bản chất của nó chứ không chỉ dừng lại ở hiện
tượng . Khi đó , ta có thể nắm được những quy luật vận động phát triển của
tự nhiên và xã hội có nghĩa là chúng ta đã đạt được đến trỉ tri . Một khi đã
đạt được đến trỉ tri chúng sẽ có nhân thức vững vàng gọi là thành ý . Một
khi đã có những nhận thức vững vàng , thì chúng ta có lập trường quan
điểm đúng , tức là chính tâm . Có lập trường quan điểm đúng là hoàn thành
việc tu thân , việc xây dựng con người . Đây là quan điểm thể hiện tính duy
vật tiến bộ của ông về lí luận nhận thức .
5.2. Những hạn chế .
Tất cả những gì Khổng Tử đã làm , xứng đáng để ông là một nhà giáo
dục lớn của xã hội đương thời và kinh nghiệm giáo hoá của ông luôn là
những bài học để mọi người quan tâm . Song quan điểm giáo duc của ông
chủ yếu dừng lại ở giao tiếp lễ nghi chứ không hẳn mở mang dân trí nói
chung . Khổng Tử cũng đã bứt tri thức khỏi lao động sản xuất – lĩnh vực
quan trọng nhất của đới sống xã hội và nhất là mục đích giáo dục của ông
đã bộc hoàn toàn quan điển của một ông thầy chủ nô quý tộc đang truyền
đạo để củng cố điịa vị thống trị của giai cấp mình .
Nói chung , trong quan điểm của Khổng Tử thể hiện nhiều ưu điểm
nhưng không phải là không có những khuyết điểm . Đôi khi , cùng nói về
một sự việc nhưng Khổng Tử lại có những cách nói khác nhau thậm chí là
trái ngược nhau . Quan điểm của ông có nhiều mâu thuẫn , điều đó thể hiện
tâm trạng bị giằng xé của ông trước nhưng biến chuyển của xã hội . Lợi ích
gia cấp và tính chất không nhất quán đã là cơ sở để thế hệ sau ông khai thác
, xuyên tạc và phủ cho nó tấm áo choàng tôn giáo đầy bí ẩn .Chẳng han như
, khi quan niệm về trời , một mặt ông truyền bá sức mạnh của trời , mặt
khác ông lại nhấn mạnh hoạt động của con người , coi hoạt động của con
người giữ địa vị quan trọng nhất trong cuộc sống của họ .Ông đặt con
người sánh ngang với trời đất , con người có thể góp phần với trời đất để
13

cải tạo vũ trụ . Mặt khác , ông lại cũng cho rằng trời có thể quyết định đến
số phận con người . Khi đề cập đén trí , ông một mặt tin vào mệnh trời cho
rằng tri thức là bẩm sinh , là do trời sinh ra , mặt khác ông lại đề cập đến
một nguồn gốc khác của trí , đó là trí không phải ngẫu nhiên mà có , nó là
kết quả của quá trình học hỏi trong đời sống . Trong quan điểm về giáo
dục , một mặt Khổng tử chủ trương dạy cho tất cả mọi người , không phân
biệt đẳng cấp , giàu nghèo , chủng tộc...nhưng ông lại chủ trương đối với
dân việc gì cần thiết thì sai khiến chứ không nên giảng giải vì dân không có
khả năng hiểu ý nghĩa công việc mình làm . Khi quan niệm về quân tử và
tiểu nhân , theo ông chức tước giàu sang chưa chắc đứng ở hàng quân tử ,
giầy rơm , áo vải chưa chắc đứng ở hàng tiểu nhân . Trong khi dó ông lại
gạt nhân dân lao động ra khỏi lớp người quân tử vì nhân dân lao động , sự
đói rét , bệnh tật , thiếu thốn trong cuộc sống không cho phép nhân dân lao
động không nghĩ đến cái ăn cái ở mà chỉ trọn bề theo đạo . Nó không thể
tạo điều kiện cho họ thông thạo Thi , Thư , Lễ . Nhạc . Cho nên tuy không
chỉ rõ nhưng ông đã xếp nhân dân lao động vào lớp người tiểu nhân
III. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.

Sự du nhập , hình thành và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam .

Nho giáo du nhập vào Việt Nam thời kì Bắc thuộc , đó là một quá
trình lâu dài , bằng con đường xâm lược và giao lưu văn hoá , kinh tế Việt
Nam và Trung Quốc , trước hết đó là công cụ của Hán Đường tiến hành
đồng hoá . Nho giáo du nhập vào Việt Nam không còn là Nho giáo nguyên
sơ mà đã được Hán nho trước nhất là Đổng Trọng Thư cải tạo cho thích
hợp với chế độ phong hiến trung ương tập quyền . Cùng xâm nhập với Nho
còn có Phật và Đạo . Cả ba học thuyết này đều có ảnh hưởng đến tư tưởng
Việt Nam , vào các phong tục tập quán của người Việt cho đến nay .
Trên 1000 năm Bắc thuộc , bọn xâm lược ra sức truyền Nho, Phật ,
Đạo vào nước ta . Nhưng số người học Nho không nhiều lắm ; còn Phật và
Đạo lại đi sâu vào dân gian hoà lẫn trong tín nguỡng bản địa
Sau khi giành độc lập , nhân dân ta đã sử dụng Nho , Phật và Đạo để
bắt tay xây dựng đất nước , trước hết là để xây dựng một tổ chức Nhà nước
độc lập để đủ sức chống lại sự uy hiếp và xâm lược từ phương Bắc . Sở dĩ
14

Nho giáo và Phật giáo được chọn làm hệ tư tưởng chính trong xã hội Việt
Nam là vì cả ha học thuyết này ít nhiều ảnh hưởng trong xã hội Việt Nam .
Sự truyền bá và tiếp nhận tư tưởng này diễn ra khá thuận lợi và nhanh
chóng . Chế độ phong kiến Việt Nam phát triển theo xu hướng tập quyền
thống nhất nên có nhu cầu sử dụng Nho học . Nhà nước Đại Việt thời Lý đã
đưa Nho giáo phát triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực ở Việt Nam . Năm
1070 , nhà Lý lập Văn Miếu và Quốc Tử Giám , năm 1075 nhà Lý mở khoa
thi Nho học và năm 1195 mở khoa thi Tam giáo . Nho học du nhập vào
nước ta đến đây trở thành cái bản dịa được nhà nước Đại Việt sử dụng và
trân trọng .
Vào thời Trần , Nho học lại phát triển nhanh chóng hơn . Cũng vào
thời kì này thi cử nho giáo đã vào quy củ , các khoa thi tiến sĩ cứ 7 năm
được tổ chức một lần .
Tuy nhiên , ảnh hưởng của Nho giáo vào Việt Nam cho đến cuối dời
Trần –Hồ vẫn chưa thật đậm nét . Có thể những bộ phận quan chức cao cấp
phần nào còn áp dụng những lễ giáo kiểu phương Bắc , còn trong dân gian
thì vẫn theo phong tục tập quán lâu đời .
Sang thời Hậu Lê , Nho giáo được đẩy lên cực thịnh . Lê Thánh Tông
đưa Nho học vào tổ chức nhà nước ở cả ba mặt :
+ Giáo dục và khoa cử : Thời Lê sơ giáo dục và khoa cử Nho học đạt
đến mức đỉnh thịnh . Một tầng lớp sĩ đông đảo có mặt ở khắp nông thôn và
thành thị . Ơ Văn Miếu được lập bia Tiến sĩ , Nho sĩ được đề cao đến mức
cao nhất . Qua giáo dục và khoa cử , Nho giáo thâm nhập vào xã hội ngày
càng sâu sắc hơn .
Tổ chức chính quyền : có tham khảo các kiểu nhà nước TốngMinh
+ Pháp luật : luật Hồng Đức được xây dựng trên tinh thần Đại Việt
nhưng cũng tham khảo nhiều pháp luật Đường Minh .
Ở các lĩnh vức khác như triết học , tôn giáo , nghệ thuật thì cả ba đạo
Nho ,Phật , Lão đèu có ảnh hưởng , nhưng nặng nhẹ khác nhau . Phật , Dạo
đi vào dân gian làng xã khá sâu sắc
Vào các thế kỉ XVI, XVII, XVIII , Nho học và Nho giáo Việt Nam
đều đi xuống . Xu hướng tam giáo đồng tôn trong xã hội phát triển . Có thể
nói , vào các thế kỉ XVII , XVIII kiểu Nho thuần tuý không còn đáng kể ,
15

một nền học thuật và tư tưởng đa thanh , đa sắc đã xuất hiện ngày càng
nhiều , ngày càng sâu hơn . Nhà Nho các thế kỉ này đều trên cơ sở Nho kết
hợp với Phật , Đạo . Có thể nói , đến thế kỉ XVIII , Nho học , Nho giáo
không đáp ứng được yêu cầu của xã hội , dã bất lực trước công việc giải
quyết khủng hoảng xã hội . Trong lĩnh vực chính , trị tư tưởng các nhà
nước và các quan lại ãi phu vẫn lấy tam cương làm lý tưởng . Nhưng sự lên
xuống của cuộc sống cá thể , của xã hội phải có Phật , Đạo bổ sung thành
công cụ tinh thần phong phú , đa dạng . Tam giáo đồng tôn hay đồng hành
đồng tẩm trên cơ sở Nho là một hướng giải quyết về lý thuyết tư tưởng và
xã hội .
Đến đầu thế kỉ XIX ,nhà Nguyễn vẫn duy trì độc tôn Nho giáo trong
khi các nước khác ngay cả Trung Quốc cũng đã bắt đầu có những phản
kháng . Khoa thi Hương cuối cùng vào năm 1918 và thi hội cuối cùng vào
năm 1919 . Tác phẩm “ Khổng học đăng” của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội
Châu là sự bùng lên cuối cùng của Nho giáo trước khi dập tắt .
Có thể nói , Nho giáo được duy trì lâu nhất ở Việt Nam . Có một học
giả nước ngoài khi sang Việt Nam đã có nhận xét như sau : “ dường như
Nho giáo Việt Nam từ thế kỉ XIX có vẻ nặng sâu hơn chính ở Trung Quốc .
Nói như thế không phải là không có cơ sở . Một thực tế ở Việt Nam là ,
Nho giáo ở Việt Nam chưa một làn bị phê phán gay gắt như các học giả ở
Trung Quốc hay Nhật Bản . Sự phê phán Nho giáo ở nước ta mới chỉ xuất
hiện ểong các tác phẩm văn học hay trong dân gian . Vùng đồng bằng Bắc
Bộ là vùng có lẽ chịu ảng hưởng sâu sắc nhất và lâu đời nhất ở Viẹt Nam .
2.

Những ảnh hưởng của Nho giáo đến Việt Nam trong suốt quá
trình lịch sử .

Nho giáo đã giữ một vị trí đặc biệt và có một vai trò quan trọng trong
đời sống tinh thần của nhân dân ta qua các giai đoạn lịh sử . Tư tưởng
truyền tthống của dân tộc ta đã đấu tranh và tác động qua lại với Nho giáo
trong suốt quá trình du nhập , phát triển , suy tàn của nó ở Việt Nam . Nho
giáo quán triệt trong toàn bộ nôị dung kiến thức của tầng lớp sĩ phu . Nó
thâm nhập vào đời sống nhân dân và ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lí dân tộc .
Và nó cũng để lại những tàn dư dai dẳng ngay cả trong xã hội ngày nay .

16

Nho giáo bắt đầu thâm nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc . Quân
xâm lựơc phương Bắc đã đưa Nho giáo vào nước ta không phải để giao lưu
văn hoá mà mục dích chính là để ru ngủ quần chúng nhân dân ta , để đồng
hoá nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam ta , để từ đó biến đất
nước ta thàng một bộ phận của chúng , để xoá tên của đất nước Việt
Nam .Chúng lợi dụng những quan điểm của Nho giáo để từ dó cải biến đi
cho phù hợp với mục đích đi xân lược của chúng . Những tư tưởng Nho
giáo lúc bấy giờ không có nhũng tác dụng tích cực mà chỉ mang tính chất
nô dịch và để quy hàng nhân dân ta . Tuy nhiên trong suốt hơn một ngàn
năm Bắc thuộc Nho giáo vẫn chưa có vai ủò gì đáng kể trong xã hội Việt
Nam .Nó là cái bình phong để che giấu đậy sự ngu muội , thái độ đầu hàng
và hoạt động bán nước của vua quan trước sự tấn công của chủ nghĩa đế
quốc . Thực dân Pháp xân lược nước ta và thiết lập nền thống trị của
chúng .Nho giáo đã bị gạt bỏ với việc chấm dứt thi cử từ năm 1919 nhưng
sau đó lại dược khôi phục nhằm ràng buộc nhân dân ta bằng trật tự và lễ
giáo phong kiến .
Nếu như trong suốt hơn một ngàn năm , Nho giáo vẫn không ảnh
hưởng nhiều đến xã hội Việt Nam thì sau khi nhân dân ta đánh đuổi được
quân xâm lược , giành được độc lập dân tộc thì chỉ trong một thời gian
ngắn Nho giáo đã trở nên phổ biến và sau này còn đứng ở vị trí độc tôn .
Ngay sau khi giành được độc lập dân tộc , Nho giáo đã được sử dụng để
thiết lập nên bộ máy nhà nước và cũng từ đó Nho giáo thâm nhập vào đời
sống xã hội của dân tộc ta . Có thể nói Nho giáo đã ảnh hưởng đến tất cả
các lĩnh vực của dân tộc ta từ chính trị , xã hội ....cho đến văn hoá , giáo
dục . Trong đó chính trị , giáo dục , gia đình là những lĩnh vực chịu ảnh
hưởng sâu sắc nhất của Nho giáo . Ơ đây ta nghiên cứu một số lĩnh vực
chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của Nho giáo .
2.1. Nho giáo ảnh hưởng đến chính trị và đường lối cai trị đất nước .
Như đã nói ở trên , ngay sau khi giành được độc lập , Nho giáo đã
được sử dụng để xây dựng lại đất nước , truớc là xây dựng một tổ chức nhà
nước độc lập để đủ sức chống lại sự uy hiếp và xâm lược từ phương Bắc .
Do ảnh hưởng của Nho giáo mà chế dộ phong kiến Việt Nam đã phát triển
theo hướng trung ương tập quyền thống nhất nghĩa là nhà nước chỉ có một
17

người đứng đầu và có quyền lực tối cao , là nhà vua . Hình thức nối dõi cha
truyền con nối cũng là do sự ảnh hưởng của Nho giáo . Nho giáo cũng ảnh
hưởng nhiều đến đường lối cai trị đất nước của các triều đại phong kiến
Việt Nam . Trước hết là trong giáo dục , các đời vua trong các triều đại đều
áp dụng chế độ khoa cử Nho giáo . Hệ thống trường học đều là trường học
Nho giáo , những người được đi học thì đựơc gọi là Nho gia . Hay trong
việc ban hành các bộ luật mà bộ luật đầu tiên của Việt Nam là bộ luật Hồng
Đức cũng được tham khảo từ các bộ luật của các triều dại phong kiến
Trung Hoa . Về văn hoá Nho giáo cũng đựơc sử dụng rộng rãi trong các
lĩng vực như triết học , văn học , nghệ thuật....Về đường lối đối ngoại ,
chúng ta thực hiên đường lối đối ngoại khép kín . Điều này đã làm ảnh
hưởng rất lớn đến nền kinh tế nước ta . Cùng với tư tưởng an phận làm , coi
xã hôi đồng tiền là nhơ bẩn đã khiến cho các nhà Nho , một bộ phận trí
thức ,nhân tài của quốc gia đã không chú ý đến việc phát triển kinh tế khiến
cho đất nước ngày càng trở nên tụt hậu so với bên ngoài . Trong khi các
nước phươngTây ngày càng giàu có và hiện đại , nó cũng để lại hậu quả
cho đến ngày nay .
2.2. Sự ảnh hương của Nho giáo trong gia dình Việt Nam .
Để hiểu được sâu sắc nhất sự ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội Việt
Nam ta không thể không tìm hiểu sự ảnh hưởng của nho giáo đến gia đình
Việt Nam . Gia đình là tế bào của xã hội , là hạt nhân của xã hội . Gia đình
bao gồm các mối quan hệ xã hội và có liên quan mật thiết đến các lĩnh vực
khác của xã hội . Nói đến gia đình Việt Nam ta không thể không nói đến
chữ hiếu . Người Việt thường nói đến hiếu là một đạo , xa hơn là một tín
ngưỡng , một điều luật mà mọi ngươì phải tuân theo . Phạm trù hiếu là một
ếet đặc trưng trong quan điểm tam cương . ngũ thường của Khổng Tử , và
đây cũng là nét ảnh hưởng sâu sắc nhất của nho giáo đối với gia đình Việt
Nam . Trong các triều đại phong kiến xưa , chữ hiếu luôn được đề cao và
đứng đầu trong quan hệ gia đình và đựơc pháp luật hoá trong các bộ luật .
Trong công việc cai trị của các triều đại Lê –Nguyễn đặc biệt chú trọng đến
vấn đề gia đình , đều đề cao quan niệm hiếu làm nguyên tắc trị nước . Hiéu
vốn là nội dung đạo đức trong gia đình Việt Nam từ rất xưa trong phong tục
tín ngưỡng như thờ cúng tổ tiên ...nhưng về sau được Nho giáo khẳng định
18

thêm sâu sắc và được thể chế hoá thành luân lí xã hội . Trước hết các chính
quyền thời Lê –Nguyễn đã đưa tư tưởng hiếu vào khoa cử , giáo dục , tuyển
lược quan lại và hoạt động của quan trường . Trong giáo dục , ngoài Tứ
Thư , Ngũ Kinh làm sách giáo khoa giảng dạy , các triều Lê-Nguyễn đều đề
cao Hiếu Kinh . Trong hình án luật , những vi phạm trong gia dình cũng có
tôị danh và đều bị xử phạt . Quy định của luật pháp nhà nguyễn quy định
khi xử tội phạm thường xét đến hoàn cảnh gia đình , tình cảnh ông bà và
bổn phận của con cháu .Các vua Minh Mệnh , Thiệu Trị , Tự Đức đều có
những biện pháp giảm nhẹ tội hình để biểu dương gương hiếu thảo . Cụ thể
như năm 1824 , Hoàng Văn Khuê xin thay cho cha là Hoàng Văn Kim bị
tội đồ giam cùm 3 năm nhưng Vua Minh Mệnh chiếu cố cho tấm lònh hiếu
thảo tha cho Khêu và giảm cho Kim một nửa thời gian tội . Các nhà nước
Lê-Nguyễn đều có luật lệ trong việc coi giữ mồ mả và đặt ruộng hương hoả
thờ cúng tổ tiên . Cha mẹ chết nếu có nhiều ruộng đất phải dành ít ra 1/20
làm ruộng hương hoả , luật nhà Lê còn quy điịnh việc bảo vệ ruộng mộ .
Đối với người Việt , tang ma là chuyện rất quan trọng đựơc gọi gọi là việc
hiếu . Luật nhà Nguyễn còn quy định quan lại phải thôi chức , nghỉ việc để
chịu tang cha mẹ từ 12 tháng đến 27 tháng
Trải qua gần 500 năm bằng nhiều phương pháp khác nhau các nhà
nước Lê Nguyễn đã liên tục đề cao hiếu , củng cố gia đình .
Như vậy , dưới tác động của Nho giáo mà cụ thể là quan điểm tam
cương , ngũ thường chữ hiếu đã được nâng cao lên thành đạo hiếu . Nội
dung chính của đạo hiếuthể hiện trước hết con cháu phải nuôi dưỡng ông
bà , cha mẹ . Đây là yêu cầu tói thiểu của mỗi thành viên trong gia đình .
Hiếu thể hiện nhân cách của con người , là giá trị xã hội cao quý . Kẻ bất
hiếu được xem là xấu xa nhất , có tội danh trong luật pháp ; đạo hiếu của
giáo huấn được triều đại nào cũng đề cao , cũng củng cố . Hiếu tồn tại và
được duy trì như tín điều tôn giáo không thể chuyển dổi
Sự kết hợp gia đình , họ hàng với làng xã với nhà nứơc tạo ra một nét
đặc thù , tạo ra một cơ chế xã hội , lấy huyết thống làm cơ sở , đây là một
đặc điểm trong gia đình Việt Nam chịu ảnh hưởng của Nho giáo . Làng Việt
Nam không phải là tổng số giản đơn các gia đình mà là một thực thể liên
kết khá chặt chẽ qua phong tục tập quán và hương ước .Có nhiều hương
19

ước làng quy định trong quan hệ nam nữ ngăn cấm các quan hệ được coi là
vụng trộm , là bất chính . Con trai đã ưng lấy con gái nhà nào rồi thì không
được đến nhà người ấy nữa . Làm đủ sáu lễ ròi thì mới được đến nhà con
gái làm lễ cưới .
Làng xóm cũng góp sức xây dựng kỉ cương gia đình theo quan niệm
hiếu . Trong hương ước của nhiều làng có ghi người làng phải lấy luân lí
làm trọng , nghĩa là làm cha thì tính nết cho lành, làm con thì thờ cha mẹ
cho có hiếu , làm anh thì ở với anh em cho hiền hoà , làm em thì ở với anh
chị cho cung kính , chồng nói thì vợ phải nghe , làm người trong nhà nên
cư xử như thế nếu không thì chẳng khác loài súc vật . Ai có lỗi không đợi
người nhà trình làng , có người khác trình làng thì làng theo tội nặng nhẹ
mà phạt . Hương ước làng cũng đề cao kẻ sĩ , đề cao giáo lí Nho giáo và
đăc biệt hơn là có nhiều điều khoản củng cố gia đình truyền thống theo
kiểu tam tòng tứ đức . Để giữ vững kỉ cương gia đình , hương ước nhiều
làng còn có hình phạt kèm theo . Hương ước không hẳn là sản phẩm của
Nho giáo nhưng bằng hương ước , làng xã truyền thống đã can thiệp sâu
sắc vào từng gia đình theo khuyng hướng Nho giáo .(4)
Trong gia đình , đôi khi có những biến động lớn mà một cá thể con
người không thể chống đỡ nổi phải dựa vào một cộng đồng lớn hơn nhà
mình . Cộng đồng ấy trước hết là dòng họ( 5). Sự liên kết giữa các gia đình
trong dòng họ trước hết được duy trì trươc hết bằng tín ngưỡng thờ tổ tiên .
Đã là người Việt thì từ xa xưa đến nay đều có tục thờ cúng tổ tiên . Nhưng
Nho giáo đã làm cho nó sâu sắc hơn như một đạo .Vào thời Lê Nguyễn , tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên được thực hiện trên cơ sở vật chất là ruộng họ .
Ruộng họ tồn tại khiến tổ tiên được củng cố . Tổ tiên được thần thành hoá
là một trong những tín ngưỡng thiêng liêng nhất của người Việt theo tinh
thần Nho giáo . Ngày cúng giỗ tổ tiên thực sự là một ngày lễ của gia đình
và họ hàng gần xa . Tục thờ cúng tổ tiên góp phần gắn kết các gia đình
trong dòng họ gần gũi nhau hơn và củng cố đạo hiếu trong gia đình .

4
5

( Trích Một số vấn đề Nho giáo ở Việt Nam , NxB chính trị Quốc Gia , 1998 )
( Trích Một số vấn đề nho giáo ở Vệt Nam , NxB chính trị Quốc Gia , 1998 )

20

Tải về bản full

Mục lục

  • 1 Lịch sử
    • 1.1 Thời Bắc Thuộc
    • 1.2 Các triều đại quân chủ đầu tiên
    • 1.3 Nhà Lý
    • 1.4 Nhà Trần
    • 1.5 Nhà Lê
    • 1.6 Nhà Nguyễn
    • 1.7 Từ năm 1945 trở về sau
  • 2 Khoa bảng
  • 3 Đặc điểm
  • 4 Ảnh hưởng
    • 4.1 Ảnh hưởng đến nhân sinh
    • 4.2 Ảnh hưởng đến văn học
  • 5 Chú thích
  • 6 Xem thêm

Giáo dục nho giáo có hạn chế gì?

29/10/2020 152

Câu hỏi Đáp án và lời giải
Câu Hỏi:
Giáo dục nho giáo có hạn chế gì?
A. Không khuyến khích việc học hành thi cử B. Không tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế C. Nội dung chủ yếu là kinh sử D. Chỉ con em quan lại, địa chủ mới được đi học
Câu hỏi trong đề: ​Trắc nghiệm Lịch sử 10 bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X-XV
Đáp án và lời giải
đáp án đúng: B
Giáo dục nho giáo có hạn chế là không tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế

Hoàng Việt (Tổng hợp)

Báo đáp án sai
Đang xử lý...

Cảm ơn Quý khách đã gửi thông báo.

Quý khách vui lòng thử lại sau.