Khái niệm nợ xấu ngân hàng thương mại

Nợ xấu hay nợ khó đòi là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, điều này thường xảy ra khi các con nợ đã tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản. Nợ xấu gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên thường quá ba tháng căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp.

Bản chất của nợ xấu là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định không thể thu hồi lại được và bị xóa sổ khỏi danh sách các khoản nợ phải thu của chủ nợ. Đối với các ngân hàng, nợ xấu tức là các khoản tiền cho khách hàng vay, thường là các doanh nghiệp, mà không thể thu hồi lại được do doanh nghiệp đó làm ăn thua lỗ hoặc phá sản,.... Nhìn chung, một doanh nghiệp luôn phải ước tính trước những khoản nợ xấu trong chu kỳ kinh doanh hiện tại dựa vào những số liệu nợ xấu ở kì trước.


Nợ xấu là một số tiền được viết bởi các doanh nghiệp như là một tổn thất cho doanh nghiệp và được phân loại như là một khoản chi phí vì nợ cho doanh nghiệp là không thể được thu thập, và tất cả những nỗ lực hợp lý đã được tận dụng để thu thập các số tiền nợ. Điều này thường xảy ra khi các con nợ đã tuyên bố phá sản hoặc chi phí của việc theo đuổi hành động hơn nữa trong một nỗ lực để thu thập các khoản nợ vượt quá các khoản nợ của chính nó. [1][2][3]

Nợ được ngay lập tức bằng văn bản của tín dụng con nợ tài khoản và do đó loại bỏ bất kỳ số dư còn lại trong tài khoản đó. Nợ xấu đại diện cho tiền bị mất do một doanh nghiệp là lý do tại sao nó được coi là một khoản chi phí.

Nợ khó đòi là các khoản nợ mà một doanh nghiệp hoặc cá nhân là không để có thể thu thập. Các lý do thanh toán không dùng tiềm năng có thể bao gồm các tranh chấp về cung cấp, giao hàng, và điều kiện của hàng hóa hay sự xuất hiện của khu vực tài chính tài chính căng thẳng trong hoạt động của khách hàng. Khi tranh chấp xảy ra nó là khôn ngoan để thêm món nợ này, một phần của chúng để dự phòng nợ khó đòi. Điều này được thực hiện để tránh nêu rõ tài sản của doanh nghiệp được báo cáo net nợ nghi ngờ. Khi không còn bất kỳ nghi ngờ rằng một nợ uncollectible nợ trở nên xấu. Một ví dụ của một uncollectible trở thành nợ sẽ là: - một lần thanh toán cuối cùng đã được thực hiện từ [thanh lý của một khách hàng của công ty trách nhiệm hữu hạn, không có thêm hành động có thể được thực hiện.

Còn được gọi là "dự phòng nợ xấu", đây là một trường hợp tài khoản]] được liệt kê trong hiện tại tài sản của bảng cân đối kế toán. Dự phòng nợ khó đòi sẽ tổ chức một số tiền để cho phép giảm trong các khoản phải thu sổ kế toán do không thu các khoản nợ. Điều này cũng có thể được gọi là phụ cấp đối với các khoản nợ xấu. Khi một món nợ khó đòi trở thành uncollectable, số tiền sẽ là viết off.

Trợ cấp cho các khoản nợ phải thu khó đòi ' là số tiền dự kiến ​​sẽ được thu gom, nhưng vẫn còn có khả năng được thu thập (khi không có khả năng khác cho họ được thu thập, họ được coi là tài khoản uncollectible '). Ví dụ, nếu tổng các khoản phải thu là $ 100.000 và số tiền được dự kiến ​​sẽ vẫn chưa thu là $ 5.000, net hiện tại tài sản phần của bảng cân đối kế toán sẽ:

Tổng các khoản phải thu

$ 100.000

Trừ: Trợ cấp đối với các khoản nợ xấu

$ 5,000

Net khoản phải thu

$ 95.000

Trong kế toán tài chính và tài chính, 'nợ xấu' là một phần của thu s không còn có thể được thu thập, thông thường là từ các khoản phải thu vay. Nợ xấu trong kế toán được coi là một chi phí.

Có hai phương pháp vào tài khoản cho các khoản nợ xấu:

  1. Trực tiếp viết ra phương pháp (Non-GAAP) - phải thu không thu được coi là phải trả trực tiếp cho các báo cáo thu nhập.
  2. Phương pháp Allowance (GAAP) ' - ước tính được thực hiện vào cuối mỗi năm tài chính của số tiền nợ xấu. Điều này sau đó được tích lũy trong một cung cấp mà sau đó được sử dụng để giảm các khoản phải thu cụ thể và khi cần thiết.

Bởi vì [[phù hợp với nguyên tắc của kế toán, thu và chi phí s nên được ghi lại trong khoảng thời gian mà chúng được phát sinh. Khi bán hàng được thực hiện trên tài khoản, doanh thu được ghi cùng với các khoản phải thu. Bởi vì có một rủi ro mà khách hàng có thể [[mặc định (tài chính)| mặc định trên thanh toán, các khoản phải thu phải được ghi lại tại giá trị thuần có thể thực hiện. Các phần của các khoản phải thu được ước tính là không thu được thiết lập sang một bên trong một tài khoản contra tài sản được gọi là 'Trợ cấp cho Tài khoản khó đòi. Ở cuối mỗi chu kỳ kế toán, điều chỉnh mục được thực hiện để tính uncollectible thu như chi phí. Số tiền thực tế của thu uncollectible được viết tắt là chi phí từ Trợ cấp cho các tài khoản khó đòi '.

Tính cách có thể đánh thuế được

Một số loại chi phí các khoản nợ xấu, cho dù kinh doanh hoặc sự nghiệp có liên quan, được xem là khấu trừ. Phần 166 của Internal Revenue Code cung cấp trình độ phải được đáp ứng để đáp ứng tình trạng khấu trừ [4]

Tiêu chí để khấu trừ

Để được coi là khấu trừ, các khoản nợ:

  • Phải là một thực sự nợ, và
  • Vô giá trị trong năm tính thuế.

Nợ được định nghĩa như là một khoản nợ phát sinh từ một mối quan hệ con nợ, chủ nợ dựa trên một nghĩa vụ hợp lệ và được thi hành để trả một khoản tiền xác định được tiền. Các khoản nợ trong câu hỏi cũng phải được coi là vô giá trị. Sự phân biệt này được tiếp tục chia thành các mức độ sưu tầm. Người ta phải xác định xem các khoản nợ đủ tiêu chuẩn là hoàn toàn hoặc một phần vô giá trị. Một tình trạng một phần vô giá trị có nghĩa là một phần của khoản nợ có thể được phục hồi trong thời gian tương lai. Nhiều yếu tố được đưa vào xem xét bao gồm tình trạng phá sản của con nợ, điều kiện y tế, đứng tín dụng, vv [5]

Mục 166 không hạn chế số tiền khấu trừ cho phép. Có phải là một khoản thuế vốn, hoặc cơ sở, trong câu hỏi để được phục hồi. Nói cách khác, là có một cơ sở điều chỉnh để xác định được hay mất cho các khoản nợ trong câu hỏi.

Một yếu tố bổ sung trong việc áp dụng các tiêu chí phân loại nợ (sự nghiệp hoặc kinh doanh). Một doanh nghiệp nợ xấu được định nghĩa như là một khoản nợ được tạo ra hoặc có được kết nối với một thương mại hoặc kinh doanh của người nộp thuế. Trong khi đó, một món nợ sự nghiệp được định nghĩa như là một khoản nợ không được tạo ra hoặc có được kết nối với một thương mại hoặc kinh doanh của người nộp thuế. Phân loại là khá đáng kể về các khấu trừ. Một sự nghiệp nợ xấu phải được hoàn toàn vô giá trị để được khấu trừ. Tuy nhiên, một món nợ kinh doanh xấu là khấu trừ cho dù đó là một phần hoặc hoàn toàn vô giá trị.

  • Nợ xấu bao vây ngân hàng
  • Tín dụng đen, cơ bão của nợ xấu
  • Các chuyên gia lo lắng về nợ xấu Lưu trữ 2012-07-05 tại Wayback Machine
  • Công khai nợ xấu của ngân hàng
  • Nợ xấu 202.000 tỷ đồng

  1. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2012.
  2. ^ “allbusiness.co”. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
  3. ^ “Bad Debt financial definition of Bad Debt. Bad Debt finance term by the Free Online Dictionary”. TheFreeDictionary.com. Truy cập 7 tháng 6 năm 2014.
  4. ^ “TaxAlmanac”. Truy cập 7 tháng 6 năm 2014.[liên kết hỏng]
  5. ^ “Tax Topics”.

  • khoản nợ Bad
  • NYSSCPA của bảng chú giải các thuật ngữ kế toán

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Nợ_xấu&oldid=68867661”

Khái niệm nợ xấu ngân hàng thương mại

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Các yếu tố tác động đến nợ xấu tại ngân hàng thương mại Việt Nam

Bằng phương pháp phân tích hồi quy đa biến tuyến tính cho dữ liệu bảng được thu thập trong giai đoạn 2012 - 2020 cho 22 ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố tác động đến nợ xấu của NHTM Việt Nam bao gồm các yếu tố vi mô, như: tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, quy mô ngân hàng, tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu, tốc độ tăng trưởng tín dụng và yếu tố vĩ mô như tỷ lệ lạm phát.

Luật hoá Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu theo hướng rút gọn thủ tục

Giải pháp tín dụng và xử lý nợ xấu trong điều kiện nền kinh tế bị tác động bởi đại dịch COVID-19

Nỗ lực xử lý nợ xấu

Giải pháp hạn chế tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng

Dựa trên kết quả này, nghiên cứu đưa ra một số khuyến nghị cho các NHTM Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước, gồm có quản lý tỷ lệ trích lập dự phòng, kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng, giữ vững tăng trưởng tỷ suất sinh lời, chiến lược gia tăng quy mô ngân hàng hợp lý và kiểm soát tốt lạm phát.

1. Đặt vấn đề

Hệ thống trung gian tài chính nói chung và NHTM nói riêng đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, là cầu nối cho dòng vốn được luân chuyển từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Vì vậy, hoạt động cho vay là hoạt động vô cùng quan trọng đối với các NHTM. Tuy nhiên, gắn liền với hoạt động cho vay là rủi ro nợ xấu không thể tránh khỏi. Nợ xấu ảnh hưởng đáng kể đến các chức năng của ngân hàng thông qua sự suy yếu tài sản ngân hàng và sự suy giảm trong thu nhập khi các khoản nợ không thu hồi được ngày càng lớn.

Tình trạng nợ xấu không được cải thiện sẽ khiến các ngân hàng thương mại bị mất uy tín trong hoạt động kinh doanh hay trong trường hợp xấu nhất là dẫn đến phá sản. Hơn nữa, nợ xấu là một trong những nguyên nhân chính gây bất lợi cho sự ổn định và tăng trưởng vĩ mô của nền kinh tế, thậm chí có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính. Đối với Việt Nam, trong năm 2020, nợ xấu có xu hướng tăng do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 đã tác động tiêu cực đến năng lực trả nợ của doanh nghiệp và cá nhân vay vốn. Vì thế, hiện nay, kiểm soát và xử lý nợ xấu nhằm giúp các ngân hàng dần phục hồi ổn định trở thành một vấn đề trọng tâm của hệ thống ngân hàng.

Nghiên cứu về nợ xấu của NHTM và các yếu tố tác động đến nợ xấu của NHTM là vô cùng cần thiết đối với các NHTM Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

2. Cơ sở lý thuyết về các yếu tố tác động đến nợ xấu của NHTM

2.1. Khái niệm nợ xấu

Theo IMF (2004), một khoản cho vay được coi là nợ xấu khi tiền thanh toán lãi và/hoặc tiền gốc đã quá hạn 90 ngày trở lên, hoặc các khoản thanh toán lãi đến 90 ngày hoặc hơn đã được tái cơ cấu hay gia hạn nợ, hoặc các khoản thanh toán dưới 90 ngày, nhưng có các nguyên nhân nghi ngờ việc trả nợ sẽ không được thực hiện đầy đủ. Tại Việt Nam, nợ của các tổ chức tín dụng được chia thành 5 nhóm theo chất lượng bao gồm: nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn), nhóm 2 (nợ cần chú ý), nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn). Đồng thời, theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 và theo Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013, nợ xấu theo tiêu chuẩn của Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước quy định là nợ thuộc các nhóm 3, nhóm 4 và nhóm 5. Trong đó, tiêu chí đánh giá nợ xấu cũng chủ yếu dựa vào thời gian quá hạn trả nợ trên 90 ngày và khả năng trả nợ của khách hàng.

Tóm lại, theo các khái niệm trên, nợ xấu được xác định theo 2 yếu tố chính: (i) nợ quá thời hạn thanh toán cả gốc, lãi từ 90 ngày trở lên và (ii) sự nghi ngờ về khả năng trả nợ của người đi vay.

Chỉ tiêu đo lường nợ xấu thông dụng của một NHTM là tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ. Vì vậy, nghiên cứu này sử dụng khái niệm nợ xấu của Việt Nam và giá trị nợ xấu, cũng như tổng dư nợ trong các báo cáo chính thức của các NHTM để tính tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ trong việc thực hiện nghiên cứu định lượng.

2.2. Các yếu tố tác động đến nợ xấu của NHTM

Dựa theo các nghiên cứu của Keeton, W.R. và Morris, C. (1987); Salas, V. và Saurina, J. (2002) và Ghosh, A. (2015), các yếu tố vi mô tác động đến nợ xấu của NHTM có thể kể đến là tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, quy mô ngân hàng, tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu và tốc độ tăng trưởng tín dụng.

Còn theo các nghiên cứu của Fofack (2005) và Klein, N. (2013), các yếu tố vĩ mô gồm tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát cũng có ảnh hưởng đến nợ xấu của NHTM.

3. Mô hình, dữ liệu và phương pháp nghiên cứu

3.1. Mô hình nghiên cứu

Kế thừa các nghiên cứu trước, nhóm tác giả đã chọn tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ làm biến phụ thuộc đại diện cho nợ xấu của NHTM. Biến độc lập là những yếu tố tác động đến nợ xấu của NHTM, gồm các yếu tố vi mô là tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, quy mô ngân hàng, tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu, tốc độ tăng trưởng tín dụng và các yếu tố vĩ mô là tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát.

Mô hình nghiên cứu được thể hiện như sau:

NPLi,t= β0+ β1*SIZEi,t+ β2*ROEi,t+ β3*LLRi,t+ β4*GROWi,t+ β5*GDPt+ β6*INFt + εi,t

Trong đó:

β0là hệ số chặn; β1, ..., β6là các hệ số hồi quy riêng của các biến độc lập; i là ký hiệu cho các NHTM trong mẫu nghiên cứu; t là ký hiệu cho các năm trong giai đoạn nghiên cứu; εi,tlà đại diện cho sai số của mô hình.

Riêng các biến của mô hình được giải thích trong Bảng 1.

Bảng 1. Giải thích các biến và kỳ vọng dấu các biến

Khái niệm nợ xấu ngân hàng thương mại
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp

Ghi chú: + là tác động cùng chiều, - là tác động ngược chiều.

3.2. Dữ liệu nghiên cứu

Đối với biến phụ thuộc và các biến độc lập vi mô, nhóm tác giả thu thập dữ liệu theo năm từ năm 2012 đến năm 2020 của 22 NHTM Việt Nam gồm báo cáo thường niên và báo cáo tài chính đã qua kiểm toán của các ngân hàng này. Các biến độc lập vĩ mô được thu thập từ website của World Bank (WB) và Tổng cục Thống kê Việt Nam (GSO), chuyên mục Tình hình kinh tế - xã hội.

Dựa vào dữ liệu thu thập và công thức tính các biến trong Bảng 1, nhóm tác giả đã tính được giá trị biến phụ thuộc và các biến độc lập vi mô, vĩ mô trong mô hình nghiên cứu bằng phần mềm Excel. Các biến số được thể hiện dưới dạng tỷ lệ phần trăm.

3.3. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện mô hình nghiên cứu, nhóm tác giả áp dụng phương pháp dữ liệu bảng cho phương trình hồi quy đa biến tuyến tính với các mô hình Pooled OLS, FEM, REM bằng phần mềm thống kê Stata 14.0.

4. Kết quả và thảo luận

Đầu tiên, thống kê mô tả các biến số được thực hiện với kết quả như Bảng 2.

Bảng 2. Thống kê mô tả các biến số

Khái niệm nợ xấu ngân hàng thương mại
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp từ phần mềm Stata 14.0

Theo Bảng 2, biến NPL đại diện cho nợ xấu của các NHTM Việt Nam có giá trị trung bình là 3.72% và độ lệch chuẩn là 3.68%. Với độ lệch chuẩn này, giá trị dao động của nợ xấu không thay đổi nhiều qua các năm trong giai đoạn nghiên cứu 2012 - 2020. Giá trị nhỏ nhất là 0% thuộc về Ngân hàng TMCP Việt Á vào năm 2018 - nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển nhanh và vững chắc, nên nợ xấu có tỷ lệ rất thấp.

Giá trị lớn nhất là 15.92% của Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng vào năm 2020 - năm đại dịch COVID-19 xuất hiện, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và cá nhân vay vốn, làm suy giảm năng lực trả nợ của các đối tượng này và làm nợ xấu gia tăng. Tuy nhiên, theo kết quả thu thập được, giá trị NPL qua các năm của các NHTM Việt Nam không có giá trị đột biến, do đây là tỷ lệ mà các ngân hàng luôn cố gắng giữ ở mức độ ổn định và thấp nhất có thể.

Tiếp theo, bước lựa chọn mô hình hồi quy được thực hiện bao gồm hồi quy các mô hình Pooled OLS, FEM, REM và tiến hành các kiểm định F-test, kiểm định Hausman Test. Kết quả cho thấy, mô hình FEM là phù hợp hơn cả. Đồng thời, kết quả hồi quy ở mô hình FEM cho thấy hệ số hồi quy của biến GDP không có ý nghĩa thống kê ở mức 10%.

Ngay sau đó, các kiểm định khuyết tật của mô hình bao gồm kiểm định đa cộng tuyến bằng ma trận hệ số tương quan, kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi bằng kiểm định Wald và kiểm định hiện tượng tự tương quan bằng kiểm định Wooldridge đã được thực hiện cho mô hình FEM. Kết quả chỉ ra mô hình không có hiện tượng đa cộng tuyến nghiêm trọng nhưng có các hiện tượng phương sai thay đổi và tự tương quan. Để khắc phục các khuyết tật này, nghiên cứu đã sử dụng phương pháp FGLS để thực hiện hồi quy cho mô hình FEM với kết quả được thể hiện trong Bảng 3. Như vậy, đây là kết quả ước lượng đáng tin cậy để giải thích tác động của những yếu tố vi mô và vĩ mô đến nợ xấu của các NHTM Việt Nam.

Bảng 3. Kết quả ước lượng mô hình bằng phương pháp FGLS

Khái niệm nợ xấu ngân hàng thương mại
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp từ phầm mềm Stata 14.0

Các ký hiệu *,**,*** tương ứng với mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%.

Từ kết quả thể hiện trong Bảng 3, phương trình hoàn chỉnh được viết lại như sau:

NPLi,t= -0.1499 + 0.0109*SIZEit+ 0.0774*ROEit+ 1.1723*LLRit+ 0.4941* GROWit+ 0.443*INFt

R2của mô hình có giá trị 78,16% nên có thể kết luận rằng các biến độc lập trong mô hình giải thích được với tỷ lệ khá cao là 78,16% sự biến thiên xung quanh giá trị trung bình của tỷ lệ nợ xấu NPL. Như vậy, kết quả nghiên cứu được tóm tắt trong Bảng 4.

Bảng 4. Tóm tắt kết quả nghiên cứu

Khái niệm nợ xấu ngân hàng thương mại
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp

Ghi chú: + là tác động cùng chiều, - là tác động ngược chiều

Với kết quả trong Bảng 4, thảo luận sẽ tập trung vào biến độc lập ROE có kết quả nghiên cứu trái ngược với kỳ vọng dấu lúc đầu hoặc biến độc lập không có ý nghĩa thống kê như biến GDP.

Đối với biến độc lập ROE - tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu, kết quả nghiên cứu cho thấy tác động ngược chiều của ROE đến biến phụ thuộc NPL là ngược với kỳ vọng dấu lúc đầu. Cụ thể, khi các NHTM Việt Nam hoạt động tín dụng tốt sẽ tạo ra nhiều lợi nhuận, khoản lợi nhuận này sẽ giúp giảm bớt hay hạn chế được tối đa nợ xấu và việc trích lập dự phòng. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu đi ngược lại suy luận lý thuyết, vì thực tế, các NHTM muốn đẩy mạnh hoạt động tín dụng để gia tăng lợi nhuận thì sẽ gia tăng dư nợ càng nhiều. Vì vậy, điều này đồng nghĩa với việc lợi nhuận có thể tăng thêm, nhưng nợ xấu từ đó cũng gia tăng, do thời điểm này, ngân hàng có thể bỏ qua yếu tố quản lý rủi ro tín dụng chặt chẽ và nới lỏng việc cho vay để gia tăng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng nhiều hơn. Lập luận này cũng phù hợp với tình hình hiện tại của các NHTM Việt Nam khi cố gắng đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng tín dụng để gia tăng lợi nhuận và tăng hệ số ROE. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu tại các NHTM Việt Nam theo đó cũng nhiều hơn trong thời gian qua, làm cho hệ số ROE có mối tương quan dương với tỷ lệ nợ xấu NPL.

Đối với tốc độ tăng trưởng GDP, kết quả nghiên cứu cho thấy yếu tố này không có ý nghĩa thống kê trong mô hình, hay rõ ràng hơn là tốc độ tăng trưởng GDP không có tác động đến nợ xấu tại các NHTM Việt Nam. Luận giải cho vấn đề này, cần lưu ý là trong giai đoạn nghiên cứu 2012 - 2020, nền kinh tế Việt Nam phục hồi và tăng trưởng trở lại với tốc độ tăng trưởng GDP qua các năm khá đều nhau. Cụ thể theo Bảng 2, độ lệch chuẩn của biến GDP chỉ là 1,27% cho thấy biến số ít thay đổi. Điều này làm cho biến GDP khó thể hiện rõ sự tác động đến sự thay đổi của nợ xấu. Ngoài ra, biến GDP không tác động đến nợ xấu còn cho thấy khả năng tại các NHTM Việt Nam, việc trả nợ của khách hàng chỉ phụ thuộc vào ý chí trả nợ của khách hàng chứ không liên quan đến nền kinh tế có tăng trưởng hay không.

Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cho thấy 2 nhân tố tác động nhiều nhất đến nợ xấu tại các NHTM Việt Nam đó là tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng với hệ số 1.1723 và tốc độ tăng trưởng tín dụng có hệ số 0.4941. Luận cứ để lý giải là vì tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng chỉ được trích lập khi ngân hàng có nợ quá hạn xuất hiện và khả năng gặp rủi ro mất vốn của ngân hàng. Còn đối với tăng trưởng tín dụng càng mạnh, nếu ngân hàng có thể kiểm soát tốt việc thu hồi nợ gốc và lãi, thì ngân hàng ngày càng giàu có. Song, yếu tố này cũng mang một rủi ro tiềm ẩn là nếu tăng trưởng tín dụng càng mạnh, khả năng khó thu hồi được lãi cũng như nợ gốc càng gia tăng và làm tình trạng nợ xấu ngày càng nghiêm trọng.

5. Kết luận và khuyến nghị

Kết quả nghiên cứu cho thấy có 4 yếu tố vi mô ảnh hưởng đến nợ xấu của NHTM Việt Nam giai đoạn 2012 - 2020, cụ thể: tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng (biến LLR), quy mô ngân hàng (biến SIZE), tốc độ tăng trưởng tín dụng (biến GROW) có tác động cùng chiều, còn tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu (biến ROE) lại tác động ngược chiều. Đối với các yếu tố vĩ mô, kết quả chỉ ra rằng tỷ lệ lạm phát (biến INF) có tác động cùng chiều, trong khi tốc độ tăng trưởng GDP (biến GDP) không có tác động đến nợ xấu của NHTM Việt Nam.

Dựa trên kết luận này, các khuyến nghị được đề xuất như sau:

Đối với tỷ lệ trích lập dự phòng, các NHTM Việt Nam cần có chính sách trích lập dự phòng hợp lý, hệ thống giám sát, quản lý chặt chẽ và hài hòa giữa quản trị những tổn thất do nợ xấu gây ra, đảm bảo lợi nhuận để đầu tư và phát triển. Bên cạnh đó, các ngân hàng cần kiểm tra đánh giá chính xác tình hình nợ xấu hiện nay cũng như phân loại nợ xấu để có biện pháp riêng xử lý phù hợp, tránh trường hợp trích lập dự phòng không cần thiết.

Đối với tăng trưởng tín dụng, để tỷ lệ nợ xấu được duy trì ở mức an toàn, các NHTM Việt Nam cần xem xét, đánh giá kỹ càng các khoản vay, đồng thời tránh chạy đua lợi nhuận, đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng nhưng chất lượng tín dụng kém dễ dẫn đến nợ xấu tăng cao. Bên cạnh đó, NHTM cần có biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp để họ có thể tiếp cận nguồn vốn vay với chi phí thấp nhất. Vì dòng vốn cho vay nếu không được sử dụng hiệu quả sẽ rất khó kiểm soát và gặp nhiều rủi ro nên các khoản mục cho vay phải dựa trên tiềm lực tài chính, dự án khả thi và sức khỏe thực sự của doanh nghiệp.

Đối với tỷ suất sinh lời ROE, để giúp tỷ suất sinh lời được tăng trưởng vững chắc nhằm hạn chế nợ xấu, các NHTM nên chọn chiến lược hoạt động bền vững ổn định, tránh tình trạng tăng trưởng tín dụng nóng, đồng thời hoạt động tín dụng phải gắn chặt với các công cụ quản lý hoạt động tín dụng chặt chẽ để phòng ngừa các rủi ro tín dụng.

Đối với quy mô ngân hàng, các NHTM Việt Nam cần có chiến lược tái cấu trúc ngân hàng hợp lý trong công tác gia tăng tổng tài sản hay quy mô ngân hàng. Các ngân hàng cần hạn chế việc do muốn mở rộng quy mô dẫn đến tăng trưởng tín dụng nóng, chấp nhận mạo hiểm và rủi ro quá mức bằng cách tăng sử dụng vốn cho vay của mình với chất lượng khách hàng thấp để gia tăng lợi nhuận. Điều này sẽ tiềm ẩn rủi ro tín dụng và dẫn đến nợ xấu tăng cao.

Đối với lạm phát, các NHTM cần hiểu rằng, khi môi trường kinh tế có lạm phát cao thì Chính phủ sẽ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, từ đó làm cho lãi suất cho vay và tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các NHTM tăng lên. Vì vậy, trong những thời điểm như thế, các ngân hàng không nên mở rộng hoạt động tín dụng hoặc cần thận hơn với việc chọn lựa khách hàng vay để tránh tính trạng dẫn đến nợ xấu cho ngân hàng. Về phía chính quyền, Ngân hàng Nhà nước phải luôn đảm bảo thực hiện các chính sách kiểm soát tốt lạm phát, chẳng hạn như các biện pháp điều hành nhằm kiềm chế tín dụng tăng trưởng quá mức, nhưng vẫn đáp ứng nhu cầu vốn hợp lý để sản xuất, kinh doanh hiệu quả.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Fofack. (2005).Non-performing Loans in Sub-Saharan Africa: Causal Analysis and Macroeconomic Implications. World Bank Policy Research Working Paper series 3769. USA: The World Bank.
  2. IMF. (2004).Financial Soundness Indicators (FSIs): Compilation Guide. [Online] Available at https://www.imf.org/external/pubs/ft/fsi/guide/2006/index.htm
  3. Ghosh, A. (2015). Banking-industry specific and regional economic determinants of non-performing loans: Evidence from US states.Journal of Financial Stability,20, 93-104.
  4. Keeton, W.R. and Morris, C. (1987). Why Do Banks Loan Losses Differ?Federal Reserve Bank of Kansas City Economic Review,72(5), 3-21.
  5. Klein, N. (2013). Non-performing loans in CESEE: Determinants and Impact on Macroeconomic Perfomance.IMF Country Report, 13/86, 1-28.
  6. Salas, V. and Saurina, J. (2002). Credit Risk in Two Institutional Regimes: Spanish Commercial and Savings Banks.Journal of Financial Services Research, 22(3), 203-224.

In bài viết

ngân hàng thương mại yếu tố tác động nợ xấu

THÔNG TIN CẦN QUAN TÂM

  • Khái niệm nợ xấu ngân hàng thương mại

    Giá vàng tuần tới: Cẩn trọng áp lực bán tháo

  • Khái niệm nợ xấu ngân hàng thương mại

    Chính sách tín dụng góp phần thực hiện tăng trưởng xanh

  • Khái niệm nợ xấu ngân hàng thương mại

    Dragon Capital: Ngân hàng Nhà nước có thể sẽ trì hoãn quyết định tăng lãi suất điều hành sang năm 2023

Tin nổi bật

Khái niệm nợ xấu ngân hàng thương mại

Khung pháp lý và thực tiễn bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán tại một số quốc gia và Việt Nam

Khái niệm nợ xấu ngân hàng thương mại

Cục Thuế TP. Cần Thơ quyết liệt vào cuộc chống thất thu thuế trong lĩnh vực bất động sản

Khái niệm nợ xấu ngân hàng thương mại

Chính sách phát triển kinh tế xanh và bảo vệ môi trường ở Việt Nam

Khái niệm nợ xấu ngân hàng thương mại

Định mức phân bổ chi thường xuyên ngân sách nhà nước và một số đề xuất trong giai đoạn mới

Khái niệm nợ xấu ngân hàng thương mại

Đảng bộ Bộ Tài chính: Viết tiếp truyền thống 77 năm vẻ vang của ngành Tài chính