Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ được 2 năm thì mất con trai ông là Khúc Hạo lên thay dung hay sai

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh bộ câu hỏi trắc nghiệm Lịch sử lớp 6 Bài 26: Bài tập Cuộc đấu tranh giành quyền tự chủ của họ Khúc, họ Dương chọn lọc, có đáp án. Tài liệu có 5 trang gồm 10 câu hỏi trắc nghiệm cực hay bám sát chương trình sgk Lịch sử 6. Hi vọng với bộ câu hỏi trắc nghiệm Lịch sử 6 Bài 26 có đáp án này sẽ giúp bạn ôn luyện trắc nghiệm để đạt kết quả cao trong bài thi trắc nghiệm môn Lịch sử 6.

CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM LỊCH SỬ LỚP 6 
BÀI 26: BÀI TẬP CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH QUYỀN TỰ CHỦ CỦA HỌ 
KHÚC, HỌ DƯƠNG 

Câu 1: Vua Đường phong Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ có ý nghĩa gì đối với cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc của nhân dân ta? A. Mua chuộc Khúc Thừa Dụ phục vụ cho nhà Đường B. Xoa dịu mâu thuẫn giữa nhân dân An Nam với nhà Đường C. Đem lại quyền tự chủ cho người Việt, tạo điều kiện để giành độc lập hoàn toàn D. Bảo đảm sự yên ổn cho vùng biên cương nhà Đường 

Lời giải 

- Tiết độ sứ là chức quan cai quản một đơn vị hành chính lớn gồm nhiều châu, quận. - Việc vua Đường phong Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ đã cho phép người Việt được tự mình cai quản vùng đất An Nam. Đây là thắng lợi bước đầu, đem lại quyền tự chủ cho người Việt (mặc dù danh nghĩa vẫn lệ thuộc vào nhà Đường), đặt cơ sở cho cuộc đấu tranh giành độc lập hoàn toàn ở giai đoạn sau Đáp án cần chọn là: C 

Câu 2: Đâu không phải chính sách của Khúc Hạo nhằm xây dựng một đất nước tự chủ?  

A. Đặt lại các khu vực hành chính và cử người trông coi mọi việc B. Xem xét và định lại mức thuế, bãi bỏ các thứ lao dịch C. Lập lại sổ hộ khẩu D. Xưng vương, xây dựng một bộ máy nhà nước mới 

Lời giải 

Sau khi Khúc Thừa Dụ mất, Khúc Hạo lên thay và tiến hành xây dựng đất nước tự chủ như: - Đặt lại các khu vực hành chính, cử người trông coi mọi việc đến tận xã. 

- Xem xét và định lại mức thuế, bãi bỏ các thứ lao dịch của thời Bắc thuộc.

- Lập lại sổ hộ khẩu… => Đáp án D: Khúc Hạo vẫn nối nghiệp cha xưng là Tiết độ sứ Đáp án cần chọn là: D 

Câu 3: Cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán xâm lược lần thứ nhất thắng lợi có ý nghĩa gì quan trọng?   

A. Kết thúc hơn 1000 năm đô hộ của phong kiến phương Bắc B. Mở ra thời kì mới: độc lập, tự chủ lâu dài C. Bảo vệ nền tự chủ của dân tộc từ sau cuộc nổi dậy của Khúc Thừa Dụ D. Đem lại nền tự chủ cho dân tộc sau một thời gian dài bị đô hộ 

Lời giải 

- Kể từ sau cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ, nhân dân ta đã giành được quyền tự chủ trên thực tế mặc dù danh nghĩa vẫn là một phủ của nhà Đường. - Sau khi nhà Đường sụp đổ, Trung Quốc rơi vào tình trạng hỗn loạn. Sau khi được thành lập, năm 930 nhà Nam Hán đem quân tấn công nước ta với hy vọng sáp nhập vùng An Nam đô hộ phủ vào lãnh thổ của mình => Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nam Hán lần thứ nhất đã đập tan tham vọng của nhà Nam Hán, bảo vệ vững chắc nền tự chủ của dân tộc giành được từ sau cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ Đáp án cần chọn là: C 

Câu 4: Khúc Hạo gửi con trai sang làm con tin nhà Nam Hán nhằm mục đích gì?   

A. Cắt đứt quan hệ với nhà Đường, thiết lập quan hệ với nhà Nam Hán B. Thể hiện sự thần phục với nhà Nam Hán để giảm thiểu nguy cơ bị xâm lược C. Tạo ra sự bảo trợ của nhà Nam Hán trước sự đe dọa của Hậu Lương D. Tạo ra sự bảo trợ của nhà Nam Hán trước sự đe dọa của Dương Đình Nghệ 

Lời giải 

Trong bối cảnh nhà Nam Hán có tham vọng thôn tính nước ta, thiết lập nền cai trị mới sau nhà Đường, Khúc Hạo đã chủ động gửi con trai là Khúc Thừa Mĩ sang làm con tin để thể hiện sự thần phục của họ Khúc với chính quyền Nam Hán, hy vọng sẽ tạm hoãn được tham vọng bành trướng của Nam Hán Đáp án cần chọn là: B 

Câu 5: Vì sao Khúc Thừa Dụ chỉ xưng tiết độ sứ mà không xưng vương?   

A. Do muốn lợi dụng danh nghĩa quan lại nhà Đường để xây dựng nền tự chủ B. Do nhân dân không ủng hộ Khúc Thừa Dụ xưng vương C. Do Khúc Thừa Dụ không đủ thực lực để xưng vương D. Do Khúc Thừa Dụ không muốn tạo ra khoảng cách với nhân dân 

Lời giải 

Tiết độ sứ là một chức quan của nhà Đường. Sở dĩ sau khi chiếm được thành Tống Bình, Khúc Thừa Dụ không xưng vương mà chỉ xưng tiết độ sứ vì ông muốn sử dụng bỏ bọc quan lại nhà Đường để xây dựng nền tự chủ thực tế cho dân tộc. Nếu ông xưng vương thì có thể nhà Đường sẽ đem quân đáp án => xưng tiết độ sứ là một sự lựa chọn khôn khéo để có thể bình yên xây dựng nền tự chủ lâu dài cho dân tộc khi nhà Đường đang có loạn. Đáp án cần chọn là: A 

Câu 6: Nhân vật nào được đánh giá là nhà cải cách đầu tiên trong lịch sử Việt Nam?   

A. Lý Bí B. Khúc Thừa Dụ C. Khúc Hạo D. Dương Đình Nghệ 

Lời giải 

Cuộc cải cách đầu tiên trong lịch sử Việt Nam được tiến hành vào năm 907 do Khúc Hạo tiến hành. Ông chính là nhà cải cách đầu tiên thiết lập được sự quản lý của mình tới tận làng xã, điều mà các triều đại phong kiến phương Bắc không thể làm được. 

- Về bộ máy hành chính:

+  Chia cả nước thành 5 cấp bao gồm lộ, phủ, châu, giáp, xã. Ở giáp, xã lần dầu được đặt ra các chức quan quản lý + Lập hộ tịch, hộ khẩu - Về chính sách thuế: căn cứ vào phân phối ruộng đất theo chế độ công xã sẽ đánh thuế bình quân; bỏ hẳn thuế đinh, khắc phục nạn thu thuế nhiều tầng, nhiều loại Thành công của cuộc cải cách đã giúp ổn định tình hình kinh tế, xã hội, phát huy thành quả từ cuộc khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ, là cơ sở vững chắc cho thắng lợi năm 938 của Ngô Quyền sau này Đáp án cần chọn là: C 

Câu 7: Sau khi đánh chiếm thành Tống Bình, Khúc Thừa Dụ tự xưng là   

A. Thái úy B. An Nam Quốc Vương C. Tiết độ sứ D. Thái thú 

Lời giải 

Năm 905, Tiết độ sứ An Nam là Độc Cô Tổn bị giáng chức. Khúc Thừa Dụ được sự ủng hộ của nhân dân đã đánh chiếm thành Tống Bình rồi tự xưng là Tiết độ sứ, xây dựng một chính quyền tự chủ Đáp án cần chọn là: C 

Câu 8: Khúc Hạo chủ trương xây dựng đất nước tự chủ theo đường lối   

A. Khoan thư sức dân là kế sâu rễ bền gốc B. Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân C. Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh D. Chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị, nhân dân đều được yên vui 

Lời giải 


Sau khi Khúc Thừa Dụ mất, Khúc Hạo lên thay và quyết định xây dựng đất nước tự chủ theo đường lối “Chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị, nhân dân đều được yên vui”.

Đáp án cần chọn là: D 
Câu 9: Ai là người đã lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống quân Nam Hán lần thứ nhất giành thắng lợi?  A. Khúc Hạo B. Khúc Thừa Mĩ C. Dương Đình Nghệ D. Ngô Quyền 

Lời giải 

- Năm 930, nhà Nam Hán đem quân sang đánh nước ta. Khúc Thừa Mĩ chống cự không nổi, bị bắt đem về Quảng Châu. - Năm 931, Dương Đình Nghệ đã tập hợp lực lượng đem quân từ Thanh Hóa ra Bắc bao vây, tấn công thành Tống Bình và đã tiêu diệt được lực lượng địch ở đây, cũng như quân tiếp viện. Cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán lần thứ nhất kết thúc thắng lợi Đáp án cần chọn là: C 

Câu 10: Nội dung nào phản ánh đúng điều kiện thuận lợi để Khúc Thừa Dụ nổi dậy giành quyền tự chủ thành công?   

A. Do sự ủng hộ của nhân dân B. Do sự suy yếu của nhà Đường C. Do Khúc Thừa Dụ đã xây dựng được một lực lượng mạnh trước đó D. Do nền kinh tế An Nam phát triển hơn trước 

Lời giải 

Từ cuối thế kỉ IX, ở Trung Quốc, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra (đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Hoàng Sào). Nhà Đường suy yếu. Lợi dụng thời cơ đó, Khúc Thừa Dụ đã tập hợp nhân dân nổi dậy 

Đáp án cần chọn là: B 

Khúc Hạo (907-917) hoặc Khúc Thừa Hạo , được suy tôn là Khúc Trung Chủ, là con của Khúc Thừa Dụ. Quê hương của cha con Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo nay được cho là làng Cúc Bồ xã Kiến Quốc huyện Ninh Giang tỉnh Hải Dương[1][2][3].

Cha của ông là Khúc Thừa Dụ vốn xuất thân từ gia đình hào tộc, nhân nhà Đường loạn, quân đội nhà Đường không thể kiểm soát nước Việt, Khúc Thừa Dụ được dân chúng suy tôn làm chúa, và tự xưng là Tiết độ sứ, trực tiếp cai trị nước Việt. Khúc Thừa Dụ mất, Khúc Hạo lên thay làm Tiết độ sứ, ông đã có vai trò quan trọng trong việc kiến thiết nền móng một nước Việt tự chủ, thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo giữa nhà Lương và Nam Hán thuộc Trung Quốc.

Bối cảnh và nguồn gốc

Nước Việt thời bấy giờ bị chính quyền nhà Đường- nước Tàu đô hộ, năm Kỹ Mão (678) vua Cao Tông nhà Đường chia đất Giao Châu ra làm 12 châu, 59 huyện, và đặt An Nam đô hộ phủ. Năm Đinh Mão (907) nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu, tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm tất cả là 52 năm, gọi là đời Ngũ Quí hay là Ngũ Đại.4

Trước khi nhà Đường sắp mất ngôi độ mấy năm, thì bên Trung Quốc loạn, giặc cướp nổi lên khắp cả mọi nơi. Uy quyền nhà vua không ra đến bên ngoài, thế lực ai mạnh thì người ấy xưng đế, xưng vương. Ở nước Việt, lúc bấy giờ có một người họ Khúc tên là Thừa Dụ, quê ở Hồng Châu (thuộc địa hạt Bàng Giang và Ninh Giang ở Hải Dương). Khúc Thừa Dụ vốn là một người hào phú trong xứ, mà tính lại khoan hòa, hay thương người, cho nên có nhiều người kính phục. Năm Bính Dần (906) đời vua Chiêu Tuyên nhà Đường, nhân khi trong châu có loạn, dân chúng cử ông làm Tiết Độ Sứ để cai trị Giao Châu. Đường lúc bấy giờ suy nhược, thế không ngăn cấm được, cũng thuận cho ông ấy làm Tĩnh Hải Tiết Độ Sứ và gia phong Đồng Bình Chương Sự. Năm sau nhà Đường mất ngôi (907), nhà Hậu Lương lên thay, phong cho Lưu Ẩn làm Nam Bình Vương, kiêm chức Tiết Độ Sứ Quảng Châu và Tĩnh Hải, có ý để lấy lại Giao Châu. Khúc Thừa Dụ làm Tiết Độ Sứ được non một năm thì mất, giao quyền lại cho con là Khúc Hạo.5

Theo Việt giám thông khảo tổng luận, Lê Tung gọi Khúc Thừa Dụ là Khúc Tiên Chúa, mấy đời là hào tộc mạnh, nhân nhà Đường mất, lòng người yêu mến, suy tôn làm chúa, dựng đô ở La Thành. Khúc Trung Chúa (tức Khúc Hạo) nối cơ nghiệp trước, có phong thái của ông nội. Không rõ Lê Tung viết Khúc Hạo là con hay cháu của Khúc Thừa Dụ.6

Sự nghiệp

Kế tập chức Tiết độ sứ

Các sách sử như Đại Việt sử ký toàn thư, An Nam chí lược, Lịch triều hiến chương loại chí,... đều chép rất vắn tắt về Khúc Hạo cũng như những việc ông làm. Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, vào năm 907, sau khi nhà Đường mất, nhà Lương lên thay, cho Quảng Châu tiết độ sứ là Lưu Ẩn kiêm chức Tĩnh hải quân tiết độ sứ, tước Nam Bình vương . Khi ấy Ẩn chiếm giữ Phiên Ngung, người Giao Châu là Khúc Hạo chiếm giữ châu tri, tự xưng là Tiết độ sứ, có ý mưu đồ lẫn nhau.7

Khúc Hạo kế nghiệp Khúc Thừa Dụ, đóng đô ở La Thành, vốn là trị sở cũ do nhà Đường xây dựng nên. Sử gia Lê Tung nhận xét rằng ông có phong thái của ông nội, trù hoạch quyết thắng, ngoài ý mọi người, chống chọi các nước Bắc triều, là bậc chúa hiền của nước Việt, đã định ra hộ tịch và các chức quản giáp, chế độ mới lập ít nhiều, nửa chừng thì mất (tức năm 917).8

Theo Việt Nam sử lược, Khúc Hạo lập ra lộ, phủ, châu, xã ở các nơi, đặt quan lại, sửa sang việc thuế má, việc sưu dịch và lại cho con là Khúc Thừa Mỹ sang sứ bên Quảng Châu, tiếng là kết hiếu với nhau, nhưng cốt để dò thăm mọi việc hư thực. Năm Đinh Sửu (917) Khúc Hạo mất, truyền nghiệp lại cho con là Khúc Thừa Mỹ. 9

Theo sách Khâm Định việt sử thông giám cương mục: Theo sách An Nam chí lược, Khúc Hạo người Giao Chỉ. Cuối đời Đường, Khúc Hạo làm tiết độ sứ thay cho Độc Cô Tổn: đổi các hương ở các huyện làm giáp, đặt mỗi giáp một quản giáp và một phó tri giáp để giữ việc đánh thuế. Khúc Hạo giữ chức tiết độ sứ được bốn năm thì mất.

Cải cách

Theo nghiên cứu của một số nhà làm sử hiện đại ở Việt Nam, họ cho rằng Khúc Hạo đã có những cải cách quan trọng. Khúc Hạo đã tiến hành cải cách quan trọng về các mặt. Đường lối chính trị của ông được sử sách tóm lược ngắn gọn song rất rõ ràng: "Chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị, nhân dân đều được yên vui". Khoan dung tức là không bắt buộc, không quá khắt khe với dân, chống tham quan ô lại. Giản dị là không làm phiên hà, sách nhiễu bởi nhiều thủ tục quan liêu. Yên vui, "an cư lạc nghiệp" là lý tưởng của nếp sống mà người nông dân nơi thôn xóm mong đợi.Khúc Hạo sửa lại chế độ điền tô, thuế má lực dịch nặng nề của thời thuộc Đường. Ông ra lệnh "bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ khẩu, kê rõ quê quán, giao cho giáp trưởng (quản giáp) trông coi".

Từ mô hình của chính quyền đô hộ nhà Đường với An Nam, nhằm khắc phục tình trạng phân tán quyền lực vào tay các thủ lĩnh địa phương, Khúc Hạo đã có những cố gắng lớn đầu tiên nhằm xây dựng chính quyền độc lập, thống nhất từ trung ương đến xã. Ông chia cả nước thành những đơn vị hành chính các cấp: lộ, phủ, châu, giáp, xã. Mỗi xã đặt ra xã quan, một người chánh lệnh trưởng và một người tá lệnh trưởng. Một số xã ở gần nhau thời thuộc Đường gọi là hương nay đổi là giáp, mỗi giáp có một quản giáp và một phó tri giáp để trông nom việc kê hộ khẩu, nhân khẩu và việc thu thuế. Theo sách "An Nam chí nguyên", Khúc Hạo đặt thêm 150 giáp, cộng với những giáp trước đây nhà Đường đặt, cả thảy toàn bộ Tĩnh Hải quân có 314 giáp.

Ngoại giao

Nhà Hậu Lương, trước đây vì mới cướp ngôi nhà Đường, phương Bắc nhiều biến cố nên thừa nhận Khúc Hạo làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân năm 907. Nhưng qua năm sau, vua Hậu Lương là Chu Ôn lại phong cho Tiết độ phó sứ ở Quảng Châu là Lưu Ẩn kiêm chức "Tĩnh Hải quân tiết độ, An Nam đô hộ". Điều đó có nghĩa là người Trung Quốc vẫn muốn chiếm lại Việt Nam. Sự cai trị vững vàng của Khúc Hạo khiến họ Lưu ở Quảng Châu không dám nhòm ngó tới phương nam.

Khi được tăng cường lực lượng từ các sĩ dân trung nguyên di cư xuống phía Nam10 , Quảng Châu mạnh lên, tháng 9 năm 917, em Lưu Ẩn là Lưu Nghiễm (lên thay từ năm 911) bèn xưng đế, lập ra nước Nam Hán, một trong Mười nước thời Ngũ đại Thập quốc11

Nhận thấy nguy cơ từ phía họ Lưu, Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ làm "khuyến hiếu sứ" sang Quảng châu, bề ngoài là để ‘‘kết mối hoà hiếu’’, song bề trong cốt là xem xét tình hình hư thực của địch. Cuối năm 917 khi Khúc Thừa Mỹ trở về thì Khúc Hạo mất. Dù ông chưa từng xưng đế hay xưng vương nhưng đời sau nhớ công lao của ông và gọi ông là ‘‘Khúc Trung chủ’’.

Do hành động ngoại giao mềm dẻo của Khúc Hạo, Nam Hán không gây hấn với Tĩnh Hải quân. Sau này, do Khúc Thừa Mỹ đã từ bỏ chính sách của cha, Thừa Mĩ nhận chức Tiết độ sứ của nhà Lương, chứ không thừa nhận nhà Nam Hán.12  nên có thể là nguyên nhân quân Nam Hán tiến quân xâm lược nước Việt.

Nhận định

  • Theo Văn Tạo, Viện sử học Việt Nam: Khúc Hạo được đánh giá là nhà cải cách hành chính đầu tiên ở Việt Nam. So với thời Cao Biền, số đơn vị hành chính thời Khúc Hạo được tăng lên gấp đôi. Như vậy về chiều rộng, chính quyền trung ương đã vươn tới nhiều nơi hơn trên địa bàn cai trị. Việc đưa nhân khẩu vào quản lý chặt chẽ hơn tại các đơn vị hành chính tạo điều kiện tăng cường nhân lực cho các hoạt động kinh tế, quân sự của chính quyền. Vào thế kỷ 10, trong khi các hào trưởng địa phương ít nhiều có xu hướng độc lập, cát cứ với chính quyền trung ương (ngay cả các triều đại Ngô, Đinh sau đó cũng vậy), Khúc Hạo đã khéo léo dựa vào họ để củng cố chính quyền cơ sở. Cuộc cải cách của ông tạo cơ sở kinh tế, xã hội vững chắc cho nền độc lập, tự chủ của người Việt sau này[13][14][15]

Chú Thích

  1. Đền thờ Khúc Thừa Dụ
  2. Khánh thành Đền thờ Khúc Thừa Dụ ở Hải Dương
  3. Bài Đường Lâm là Đường Lâm nào? trang 19-20, bản pdf (34 trang).
  4. Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Tân Việt, 1968, tr 70, 71
  5. Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Tân Việt, 1968, tr 70, 71
  6. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1998, tập 1, trang 121
  7. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1998, tập 1, tr 201
  8. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1998, tập 1, tr 121
  9. Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Tân Việt, 1968, tr 70, 71, 72
  10. Do trung nguyên có loạn lớn nên những quan lại, sĩ phu không cùng cánh với chính quyền mới phải di tản
  11. Nguyên ban đầu Lưu Nghiễm lấy quốc hiệu là Đại Việt, sang năm 918 mới đổi tên là Nam Hán và từ đó giữ quốc hiệu này. Quốc hiệu Đại Việt ban đầu càng chứng tỏ tham vọng của họ Lưu muốn đánh Việt Nam mà sau này họ hai lần thực hiện (923, 938)
  12. Sử ghi thời Khúc Thừa Mỹ bên trong lao dịch nặng nề; bên ngoài lại thân với nhà Hậu Lương mà nước Nam Hán đã ly khai, chống đối trong khi Hậu Lương ở quá xa tận trung nguyên; hơn nữa Khúc Thừa Mỹ còn công khai gọi Nam Hán là "nguỵ đình" (triều đình không chính thống) làm chọc giận họ Lưu
  13. Văn Tạo, sách đã dẫn, tr 29
  14. Văn Tạo, sách đã dẫn, tr 31
  15. Dương Đình Nghệ là tướng của Khúc Hạo, sau khởi binh đánh đuổi được Nam Hán

(Nguồn: Wikipedia)

x

1 Đền thờ Khúc Thừa Dụ

2 Khánh thành Đền thờ Khúc Thừa Dụ ở Hải Dương

3 Bài Đường Lâm là Đường Lâm nào? trang 19-20, bản pdf (34 trang).

4 Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Tân Việt, 1968, tr 70, 71

5 Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Tân Việt, 1968, tr 70, 71

6 Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1998, tập 1, trang 121

7 Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1998, tập 1, tr 201

8 Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1998, tập 1, tr 121

9 Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Tân Việt, 1968, tr 70, 71, 72

10 Do trung nguyên có loạn lớn nên những quan lại, sĩ phu không cùng cánh với chính quyền mới phải di tản

11 Nguyên ban đầu Lưu Nghiễm lấy quốc hiệu là Đại Việt, sang năm 918 mới đổi tên là Nam Hán và từ đó giữ quốc hiệu này. Quốc hiệu Đại Việt ban đầu càng chứng tỏ tham vọng của họ Lưu muốn đánh Việt Nam mà sau này họ hai lần thực hiện (923, 938)

12 Sử ghi thời Khúc Thừa Mỹ bên trong lao dịch nặng nề; bên ngoài lại thân với nhà Hậu Lương mà nước Nam Hán đã ly khai, chống đối trong khi Hậu Lương ở quá xa tận trung nguyên; hơn nữa Khúc Thừa Mỹ còn công khai gọi Nam Hán là "nguỵ đình" (triều đình không chính thống) làm chọc giận họ Lưu

13 Văn Tạo, sách đã dẫn, tr 29

14 Văn Tạo, sách đã dẫn, tr 31

15 Dương Đình Nghệ là tướng của Khúc Hạo, sau khởi binh đánh đuổi được Nam Hán

Video liên quan

Chủ đề