Luật tín ngưỡng tôn giáo 2023 pdf

TS. VŨ CÔNG GIAO

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

ThS. LÊ TÚY HƯƠNG

Tự do tôn giáo là một trong những vấn đề được thảo luận nhiều nhất trong lịch sử phát triển các quyền và tự do cơ bản của con người. Đây cũng là quyền được ghi nhận từ rất sớm trong các văn kiện luật nhân quyền quốc gia và quốc tế. Ở cấp độ quốc gia, có thể kể đến Luật của Rhode Island 1647 và Hiệp ước Hòa bình Augsburg 1555 với những quy định liên quan đến “quyền được thừa hưởng về tự do tôn giáo” (the inherent right to freedom of religion). Ở cấp độ quốc tế, quyền này được khẳng định ngay trong văn kiện quốc tế đầu tiên về nhân quyền là Tuyên ngôn Thế giới về nhân quyền năm 1948 (UDHR).

Về mặt triết học, tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tôn giáo, tín ngưỡng (cùng với tự do chính kiến, tự do biểu đạt, tự do báo chí, tự do thông tin, tự do lập hội, tự do hội họp, tự do thành lập và tham gia công đoàn) là những giá trị xuất phát từ chủ nghĩa duy lý trong Thời kỳ Khai sáng, cho rằng sự tồn tại của cá nhân về mặt tinh thần đòi hỏi sự bảo vệ đặc biệt của nhà nước, bao gồm niềm tin vào những giá trị tinh thần đó, quyền giao tiếp về những chủ đề tinh thần với người khác, quyền tự do bảo vệ những niềm tin và giá trị đó dưới hình thức cá nhân hay tập thể, và quyền tự do hành động theo những niềm tin và giá trị tinh thần đó chừng nào còn không vi phạm đến các quyền của những người khác[1].

Luật tín ngưỡng tôn giáo 2023 pdf

Ảnh minh họa: (Nguồn internet)

1. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo luật nhân quyền quốc tế

UDHR lần đầu tiên đã ghi nhận quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo trong một văn kiện quốc tế, trong đó tập trung chủ yếu vào việc cấm phân biệt đối xử về tôn giáo. Điều 18 UDHR quy định: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm (conscience), và tôn giáo; quyền này bao gồm cả tự do thay đổi tôn giáo hoặc tín ngưỡng của mình, và tự do bày tỏ tôn giáo hay tín ngưỡng của mình bằng các hình thức truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, theo hình thức cá nhân hay tập thể, tại nơi công cộng hoặc riêng tư”.

Quy định trên sau đó được khẳng định và cụ thể hóa trong các Điều 18 và 20 Công ước quốc tế về Các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR). Khoản 2 Điều 18 Công ước này quy định: “Không ai phải chịu ép buộc dẫn đến làm tổn hại quyền tự do lựa chọn có hoặc tin theo tôn giáo hay tín ngưỡng của họ”. Khoản 3 Điều 18 xác định quyền này có thể bị giới hạn bởi luật khi cần thiết để “bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức xãhội, hoặc các quyền và tự do cơ bản của người khác”. Khoản 4 Điều 18 yêu cầu các quốc gia thành viên ICCPR phải tôn trọng quyền tự do của các bậc cha mẹ hoặc những người giám hộ hợp pháp “để đảm bảo việc giáo dục về đạo đức và tôn giáo của con cái họ phù hợp với ý nguyện riêng của họ”. Khoản 2 Điều 20 nghiêm cấm mọi hành động cổ vũ hằn thù dân tộc, sắc tộc, tôn giáo dẫn đến kích động, phân biệt đối xử và bạo lực.

Một số khía cạnh liên quan đến nội dung Điều 18 ICCPR sau đó được Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc làm rõ thêm trong Bình luận chung số 22 (được thông qua tại phiên họp lần thứ 48 của Ủy ban năm 1993), với các nội dung chính như sau:

1. Các quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tín ngưỡng bao gồm tự do suy nghĩ và thể hiện sự gắn kết cá nhân với tôn giáo hay tín ngưỡng dưới tư cách cá nhân hay tập thể. Tự do tư tưởng, tự do niềm tin lương tâm cần được bảo vệ tương tự như với tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Đặc điểm cơ bản của những quyền tự do này là nó không thể bị đình chỉ thực hiện, kể cả trong những tình trạng khẩn cấp được nêu trong Điều 4 khoản 2 của ICCPR.

2. Các thuật ngữ “tín ngưỡng” và “tôn giáo” trong Điều 18 cần được giải thích theo nghĩa rộng nhằm bảo vệ cả những niềm tin hữu thần và vô thần, bất kể gắn với những tôn giáo lâu đời hay mới, những tôn giáo, tín ngưỡng có tính chất thể chế, hoặc những tập tục tương tự như tôn giáo truyền thống.

3. Cần phân biệt giữa tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tôn giáo hoặc tín ngưỡng với tự do thể hiện tôn giáo hay tín ngưỡng. Không cho phép áp đặt bất kỳ sự giới hạn nào đối với tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tự do được tin hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng theo lựa chọn của các cá nhân. Những quyền tự do này được bảo vệ vô điều kiện, tương tự như với quyền được giữ ý kiến mà không bị can thiệp (khoản 1 Điều 19). Không ai có thể bị ép buộc phải tiết lộ những suy nghĩ của mình hoặc bị bắt buộc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng nào đó (khoản 2 Điều 18 và Điều 17).

4. Quyền tự do thể hiện tôn giáo, tín ngưỡng có thể được thực thi “với tư cách cá nhân hoặc trong cộng đồng, ở nơi công cộng hoặc chỗ riêng tư”, thông qua việc thờ cúng, tuân thủ nghi thức tôn giáo, thực hành giáo lý, truyền giảng… Khái niệm thờ cúng liên quan đến các hoạt động nghi lễ và tập tục biểu thị tín ngưỡng một cách trực tiếp, cũng như những tập tục gắn liền với các hoạt động đó (xây nơi thờ tự, sử dụng đồ tế lễ và các thủ tục, trưng bày các biểu tượng, tuân thủ những ngày lễ và ngày nghỉ). Sự tuân thủ và thực hành tôn giáo, tín ngưỡng có thể bao gồm các hành động lễ nghi, phong tục; tham gia các nghi lễ trong những giai đoạn nhất định của cuộc đời và sử dụng ngôn ngữ riêng biệt theo cách nói truyền thống của một nhóm dân tộc. Việc thực hành và giảng dạy tôn giáo, tín ngưỡng còn bao gồm những hành vi gắn liền với những quy tắc đạo đức của các nhóm tôn giáo trong những vấn đề cơ bản như quyền tự do chọn lựa các lãnh tụ tôn giáo, các thầy tu, người truyền đạo; tự do thiết lập các trường dòng, các trường tôn giáo và tự do biên soạn, phát hành các tài liệu, ấn phẩm tôn giáo.

5. Quyền tự do “tin hoặc theo” một tôn giáo hoặc tín ngưỡng cần thiết phải bao gồm quyền tự do lựa chọn tôn giáo, tín ngưỡng, trong đó có quyền cải đổi niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng hiện tại sang một tôn giáo, tín ngưỡng khác; hoặc quyền tin theo các quan điểm vô thần; quyền giữ tôn giáo, tín ngưỡng của mình. Khoản 2 Điều 18 cấm việc cưỡng ép làm ảnh hưởng tới quyền tin hoặc theo tôn giáo, tín ngưỡng, bao gồm việc đe doạ bằng vũ lực hoặc hình phạt để buộc những tín đồ hoặc người không phải tín đồ phải trung thành với tín ngưỡng, tôn giáo và giáo đoàn, hoặc chính thức từ bỏ tín ngưỡng, tôn giáo, hay cải đạo. Những chính sách hoặc hành động có mục đích hoặc gây ảnh hưởng tương tự, chẳng hạn như hạn chế sự tiếp cận với giáo dục, chăm sóc y tế, việc làm hoặc với các quyền được bảo đảm bởi Điều 25 và những điều khác của ICCPR, đều trái với khoản 2 Điều 18. Tất cả mọi người, dù vô thần hay hữu thần, cũng đều được hưởng sự bảo vệ như nhau.

6. Khoản 4 Điều 18 cho phép các trường công lập giảng dạy những môn học như lịch sử đại cương của các tôn giáo và luân lý nếu được tiến hành một cách trung lập và khách quan. Quyền tự do của bố mẹ hoặc những người giám hộ pháp lý được định hướng cho con em họ được giáo dục đạo đức và tôn giáo phù hợp với đức tin của họ (khoản 4 Điều 18) có liên quan đến những đảm bảo về quyền tự do giảng dạy một tôn giáo hoặc tín ngưỡng (khoản 1 Điều 18). Việc bắt buộc giảng dạy một tôn giáo hoặc tín ngưỡng cụ thể trong chương trình của trường công là trái với khoản 4 Điều 18, trừ khi có quy định về việc được miễn trừ không bị phân biệt đối xử hoặc có các lựa chọn khác phù hợp với nguyện vọng của cha mẹ và người đỡ đầu của trẻ.

7. Điều 20 nghiêm cấm việc thực hành tôn giáo hoặc tín ngưỡng có tính chất tuyên truyền cho chiến tranh hoặc cổ vũ hận thù dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, hay kích động sự phân biệt đối xử, thù địch hoặc bạo lực. Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ ngăn chặn những hành động đó bằng pháp luật.

8. Khoản 3 Điều 18 cho phép hạn chế quyền tự do bày tỏ tôn giáo, tín ngưỡng nhưng với điều kiện phải được pháp luật quy định và chỉ khi cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc các quyền và tự do cơ bản của người khác. Quyền tự do không bị ép buộc tin hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng, và quyền tự do của cha mẹ và người giám hộ trong việc định hướng giáo dục tôn giáo và đạo đức cho con em họ là không thể bị giới hạn. Khi quy định phạm vi của những hạn chế được phép, các quốc gia thành viên phải xuất phát từ nhu cầu bảo vệ những quyền được ghi nhận trong Công ước, bao gồm quyền bình đẳng và không bị phân biệt đối xử về mọi mặt như đã nêu ở các Điều 2, 3 và Điều 26. Những hạn chế cần phải được luật pháp quy định và không được áp dụng theo cách thức sẽ làm vô hiệu hóa các quyền được ghi nhận tại Điều 18. Không được áp dụng những hạn chế đó trong các lĩnh vực không được quy định, cho dù chúng có thể được cho phép hạn chế những quyền khác trong Công ước, ví dụ như để bảo đảm an ninh quốc gia. Những hạn chế chỉ có thể được áp dụng cho những mục đích đã được nêu ra và phải liên quan trực tiếp và phù hợp với những nhu cầu cụ thể mà những hạn chế đó đã được xác nhận. Không được áp đặt những hạn chế vì mục đích phân biệt đối xử, hoặc áp dụng mang tính phân biệt. Quan niệm đạo đức thường khác nhau giữa các truyền thống xã hội, triết học và tôn giáo. Do đó, những hạn chế đối với quyền tự do biểu thị tôn giáo hay đức tin với mục đích bảo vệ đạo đức phải được dựa trên những nguyên tắc không xuất phát hoàn toàn từ một truyền thống xã hội, triết học, tôn giáo riêng biệt nào. Những người đang là đối tượng phải chịu những hạn chế pháp lý nhất định, ví dụ như tù nhân, vẫn tiếp tục được hưởng các quyền về biểu thị tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ với mức độ cao nhất phù hợp với bản chất cụ thể của sự hạn chế. Các quốc gia thành viên cần cung cấp thông tin đầy đủ cho Ủy ban về phạm vi và tác động của những hạn chế đưa ra theo khoản 3 Điều 18.

9. Việc một tôn giáo được công nhận là quốc giáo, hay được thành lập một cách chính thức hoặc theo truyền thống, hay có số lượng tín đồ chiếm đa số trong dân chúng, sẽ không làm tổn hại đến việc được hưởng các quyền theo Công ước, kể cả các quyền quy định trong các Điều 18 và Điều 27, cũng như không được tạo ra sự phân biệt đối xử với tín đồ của các tôn giáo khác, hoặc với những người không theo tôn giáo nào. Đặc biệt, những biện pháp có tính chất phân biệt đối xử đối với tín đồ của các tôn giáo khác hay với những người không theo tôn giáo nào đều là trái với nguyên tắc cấm phân biệt đối xử về tín ngưỡng, tôn giáo và với quy định bảo đảm việc bảo vệ quyền bình đẳng theo Điều 26.

10. Kể cả khi một tôn giáo, tín ngưỡng được coi là hệ tư tưởng chính thức trong hiến pháp, điều lệ, tuyên ngôn của các đảng cầm quyền, hay trong hoạt động thực tiễn thì nó cũng không được dẫn đến việc vô hiệu hóa các quyền và tự do theo Điều 18 hay bất cứ các quyền khác được ghi nhận trong Công ước, cũng như không được tạo ra sự phân biệt đối xử đối với những người không chấp nhận hoặc phản đối tư tưởng đó.

11. ICCPR không quy định cụ thể về quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ quân sự vì lý do lương tâm nhưng theo Uỷ ban, quyền đó có thể suy ra từ nội dung Điều 18, vì nghĩa vụ sử dụng vũ lực gây chết người có thể mâu thuẫn gay gắt với niềm tin lương tâm và quyền biểu thị tôn giáo và tín ngưỡng của một cá nhân. Khi quyền này được luật pháp hoặc thực tế công nhận thì không được phân biệt đối xử với những người phản đối và từ chối thực hiện nghĩa vụ quân sự vì lý do lương tâm dựa trên bản chất của những tín ngưỡng đặc biệt của họ.

2. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật Việt Nam

Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, gồm cả tôn giáo nội sinh và ngoại nhập. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được ghi nhận ngay trong Hiến pháp đầu tiên (1946) và tiếp tục được tái khẳng định trong các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992, 2013 của nước ta, với những quy định càng về sau càng có xu hướng chi tiết hơn. Cụ thể như sau:

Hiến pháp

Nội dung quy định

1946

Chương 2 Điều 10:
Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài.

1959

Chương 3 Điều 26:
Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có các quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

1980

Chương 5 Điều 68:
Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.

1992

Chương 5 Điều 70:
Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.
Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.
Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.

2013

Chương 2 Điều 24:
1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật.

Ngoài Hiến pháp, trong từng thời kỳ, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật quan trọng khác. Ví dụ, ngay sau khi hòa bình lập lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 234-SL ngày 14/6/1955 ghi rõ: “việc tự do, tín ngưỡng, thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân. Chính quyền dân chủ cộng hoà luôn luôn tôn trọng quyền lợi ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện” (Điều 15). Một số Thông tư hướng dẫn thi hành Sắc lệnh này sau đó đã được ban hành, bao gồm: Thông tư số 593-TTg (năm 1957) và Thông tư số 60-TTg (11/6/1964) quy định chi tiết về việc thi hành chính sách tôn giáo… Sau khi đất nước thống nhất, Chính phủ đã thông qua Nghị quyết số 297-CP ngày 11/11/1977 về “Một số chính sách đối với tôn giáo”, trong đó nêu các nguyên tắc về tự do tôn giáo. Bước vào thời kỳ Đổi mới, vấn đề quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và bảo vệ quyền này tiếp tục được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật, bao gồm: Nghị định số 69-HĐBT ngày 21/3/1991 ban hành “Quy định về các hoạt động tôn giáo”; Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày19/4/1999 quy định về các hoạt động tôn giáo; Bộ luật Dân sự 1995 (Điều 43), Bộ luật Hình sự 1999 (Điều 47), Luật tổ chức Chính phủ 2001 (Điều 13), Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 (Điều 5); Luật Giáo dục 2005 (các Điều 9 và 16)… Tuy nhiên, quan trọng nhất là Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (Pháp lệnh TNTG) ban hành năm 2004.

Pháp lệnh TNTG năm 2004 đã thể chế hóa quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước Việt Nam, trong đó xác định: “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”[2]. Pháp lệnh lần đầu tiên giải thích các thuật ngữ “hoạt động tín ngưỡng”, “cơ sở tín ngưỡng”, “tổ chức tôn giáo”, “hoạt động tôn giáo”, “hội đoàn tôn giáo”, “cơ sở tôn giáo”, v.v… đồng thời quy định cụ thể về hoạt động tín ngưỡng của người có tín ngưỡng; hoạt động tôn giáo của tín đồ, nhà tu hành, chức sắc; tổ chức tôn giáo và hoạt động của tổ chức tôn giáo; tài sản thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo và hoạt động xã hội của tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc; quan hệ quốc tế của tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc. Những vấn đề này sau đó được cụ thể hóa trong các Nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 và Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 (thay thế Nghị định số 22/2005/NĐ-CP) của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thực hiện Pháp lệnh TNTG.

Pháp lệnh TNTG 2004 đã tạo sự thông thoáng đáng kể về sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo trong xã hội so với thời kỳ trước đó; đồng thời xác lập những định hướng chính sách rõ ràng hơn cho công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực này. Việc phân biệt tín ngưỡng và tôn giáo đã góp phần phục hồi, công nhận nhiều tín ngưỡng đã và đang tồn tại trong dân gian. Quy định về việc công nhận tổ chức tôn giáo đã làm tăng số lượng các tổ chức công giáo được công nhận trên thực tế. Việc chia tách, sáp nhập các tổ chức tôn giáo được thực hiện thuận lợi hơn. Các yêu cầu về đất đai, cơ sở vật chất của một số tôn giáo từng bước được Nhà nước xem xét giải quyết. Hoạt động in ấn, xuất bản, đào tạo của các tôn giáo ngày càng phát triển. Việc sửa chữa, nâng cấp, cải tạo các công trình tôn giáo cũng có những chuyển biến quan trọng, do chính quyền cơ sở được trao quyền giải quyết với các công trình tôn giáo không thuộc diện phải xin giấy phép xây dựng (Điều 35 Nghị định số 92/2012/CP). Quy định về việc đăng ký dự tu cũng thông thoáng, rõ ràng hơn trước, với các thủ tục, giấy tờ đơn giản hơn, thời gian giải quyết các vụ việc có quy định thời hạn cụ thể, nhờ vậy số người đăng ký tu tập theo các tôn giáo ngày càng tăng. Đặc biệt, nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật quốc tế đã được ghi nhận. Điều 38 Pháp lệnh TNTG 2004 quy định: “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của Pháp lệnh này thì thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế đó”. Điều này mở ra triển vọng tiếp tục nội luật hóa và áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong ICCPR và một số văn kiện nhân quyền quốc tế khác vào bối cảnh của Việt Nam.

Tuy nhiên, về quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, pháp luật Việt Nam hiện vẫn còn khoảng cách so với luật nhân quyền quốc tế, thể hiện ở một số khía cạnh cơ bản sau:

- Hiến pháp năm 2013 chưa có quy định về quyền tự do tư tưởng, tự do niềm tin lương tâm. Đây là những quyền đóng vai trò nền tảng của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Theo ICCPR và Bình luận chung số 22 đã nêu trên, các quyền này cần được ghi nhận và bảo vệ tương tự như với tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Đặc điểm cơ bản của nhóm những quyền tự do này là không thể bị đình chỉ thực hiện, kể cả trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia.

- Pháp luật Việt Nam chưa phân biệt giữa tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tôn giáo hoặc tín ngưỡng, với tự do thể hiện tôn giáo hay tín ngưỡng. Theo luật nhân quyền quốc tế, quyền tự do thể hiện tôn giáo, tín ngưỡng có thể bị hạn chế (không phải là quyền tuyệt đối), song các quốc gia không được phép áp đặt bất kỳ giới hạn nào đối với tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tự do được tin hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng theo lựa chọn của mình. Những quyền tự do này được bảo vệ vô điều kiện, tương tự như với quyền được giữ ý kiến mà không bị can thiệp.

- Luật quốc tế cho phép hạn chế quyền tự do bày tỏ tôn giáo, tín ngưỡng chỉ với điều kiện những hạn chế đó được pháp luật quy định và là cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc các quyền và tự do cơ bản của người khác. Trong khi đó, khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 và Điều 15 Pháp lệnh TNTG 2004 quy định một phạm vi rộng hơn nhiều các hành vi có thể dẫn đến đình chỉ hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, đó là: xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường; tác động xấu đến đoàn kết nhân dân, đến truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác; có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác… Các khái niệm này nội hàm quá rộng và trừu tượng, dẫn đến nguy cơ tùy nghi diễn giải và hạn chế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong thực tế.

Thêm vào đó, pháp luật cũng chưa quy định rõ một số điều kiện khác được nêu trong luật nhân quyền quốc tế, cụ thể như những hạn chế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo chỉ có thể được áp dụng cho những mục đích đã được nêu ra trong luật, phải liên quan trực tiếp và phù hợp với nhu cầu cụ thể mà những hạn chế đó đã được xác nhận. Các hạn chế cũng không được áp đặt vì mục đích phân biệt đối xử, hoặc áp dụng mang tính phân biệt, và những đối tượng đặc biệt, ví dụ như tù nhân, vẫn tiếp tục được hưởng các quyền về biểu thị tôn giáo hoặc tín ngưỡng trong khả năng cao nhất có thể phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn. 

- Pháp luật chưa quy định quyền tự do của bố mẹ hoặc những người giám hộ pháp lý được quyết định việc giáo dục đạo đức và tôn giáo cho con cái họ phù hợp với đức tin của họ.

- Mặc dù Nhà nước công nhận sự hiện diện, tồn tại của các tôn giáo nhưng pháp luật (bao gồm Pháp lệnh TNTG năm 2004 và các văn bản pháp luật khác có liên quan như Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai..) vẫn chưa ghi nhận tư cách pháp nhân của các tổ chức tôn giáo[3]. Bất cập này khiến cho các tổ chức tôn giáo hiện chưa được hưởng các quyền pháp nhân như các tổ chức xã hội hợp pháp khác theo Hiến pháp và pháp luật và đã dẫn đến những phản ứng, yêu cầu từ một số tổ chức tôn giáo lớn[4].

3. Một số bất cập khác của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 

Pháp lệnh TNTG 2004 còn bộc lộ một số hạn chế khác cần khắc phục, cụ thể như sau:

- Đất đai, tài sản của các cơ sở tôn giáo bị biến động do trải qua nhiều chế độ chính trị khác nhau nên trở thành vấn đề rất phức tạp; tình trạng khiếu kiện liên quan đến đất đai, tài sản của các cơ sở tôn giáo có xu hướng ngày càng tăng, hình thành điểm nóng ở nhiều nơi. Mặc dù vậy, Pháp lệnh TNTG năm 2004 chưa quy định cụ thể về vấn đề này, đặc biệt là việc đối thoại, hòa giải, xử lý… để giải quyết những điểm nóng như vậy[5].

- Điều 11 Pháp lệnh TNTG giới hạn quyền hành đạo (giảng đạo, truyền đạo, thực hiện nghi lễ tôn giáo) của các chức sắc tôn giáo và nhà tu hành tại các cơ sở tôn giáo mà họ phụ trách; nếu hành đạo ở nơi khác thì phải có sự chấp thuận của UBND cấp huyện nơi thực hiện. Trong thực tế, quy định này là không cần thiết và không có tác dụng trong việc ngăn ngừa những hành vi lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Nhà nước, vì việc ngăn ngừa những hành động đó đã được đề cập trong một loạt quy định của pháp luật hành chính và hình sự. Ngược lại, quy định này gây khó khăn cho việc thực hiện quyền hành đạo của các chức sắc tôn giáo và nhà tu hành và bị coi là không phù hợp với tinh thần tự do tôn giáo của luật nhân quyền quốc tế.

- Tương tự, quy định tổ chức tôn giáo phải đăng ký chương trình hoạt động hàng năm và phải xin phép UBND cấp xã nếu muốn tổ chức hoạt động tôn giáo ngoài chương trình đã đăng ký (Điều 12), cũng như quy định tổ chức tôn giáo khi tổ chức các cuộc lễ ở ngoài cơ sở tôn giáo phải xin phép UBND cấp huyện hoặc cấp tỉnh (Điều 25 Pháp lệnh, Điều 31 Nghị định số 92/2012/NĐ-CP) là không phù hợp và khả thi, bởi trên thực tế, không thể hạn chế, kiểm soát việc tín đồ tham gia các hoạt động tôn giáo, bao gồm các buổi lễ, cho dù các hoạt động/buổi lễ đó được tổ chức chính thức hay phi chính thức (xin phép hay không xin phép).

Quan trọng hơn, việc tổ chức và tham gia các hoạt động và buổi lễ tôn giáo về bản chất thuộc về quyền tự do hội họp hòa bình của người dân được Hiến pháp bảo vệ, mà theo khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013, các quyền hiến định chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Như vậy, việc yêu cầu các hoạt động và cuộc lễ tôn giáo phải xin phép trước theo như Điều 25 Pháp lệnh 2004 có thể coi là một hình thức hạn chế quyền nhưng không đáp ứng các yêu cầu tại khoản 2 Điều 14 của Hiến pháp năm 2013, vì Pháp lệnh không được coi ngang bằng với luật.

Để phù hợp với thực tiễn cuộc sống, với Hiến pháp năm 2013 và luật nhân quyền quốc tế, nên thay thế quy định về việc xin phép trong các Điều 12 và Điều 25 Pháp lệnh TNTG năm 2004 bằng quy định về việc thông báo tổ chức các hoạt động tôn giáo. Việc xin phép chỉ là bắt buộc khi các hoạt động tôn giáo đó được tổ chức tại những nơi công cộng (ngoài các cơ sở tôn giáo được Nhà nước thừa nhận), vì khi đó mới nảy sinh yêu cầu bảo đảm lợi ích của cộng đồng với nghĩa bao gồm cả những người là tín đồ và không là tín đồ của tổ chức tôn giáo sẽ tổ chức hoạt động đó.

- Công tác tôn giáo được coi là nhiệm vụ của các ngành các cấp, nhưng vì không quy trách nhiệm cụ thể cho chủ thể nào nên dễ dẫn đến chồng chéo, hoặc bị bỏ trống. Hiện tại Pháp lệnh TNTG năm 2004 chỉ quy định trách nhiệm của chính quyền và MTTQ các cấp có trách nhiệm phối hợp giải quyết nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân (Điều 7) nhưng không nêu vấn đề vi phạm và xử lý các hành vi vi phạm Pháp lệnh của các cơ quan, cán bộ nhà nước, trong khi trên thực tế, những vi phạm như vậy về mặt lý thuyết có thể xảy ra.

- Quy định điều kiện phải có sinh hoạt ổn định từ 20 năm trở lên và không vi phạm pháp luật thì một tổ chức tôn giáo mới được công nhận (Điều 16 Pháp lệnh, Điều 8 Nghị định số 92/2012/NĐ-CP) là chưa hợp lý, vì một tổ chức tôn giáo mới khó có thể đảm bảo những điều kiện như vậy để được công nhận là một tôn giáo hợp pháp. Sự giới hạn này cũng không phù hợp với tinh thần của luật nhân quyền quốc tế về tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Thêm vào đó, việc phân cấp thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo còn chung chung, dẫn đến tình trạng tôn giáo ‘mẹ’ do Trung ương công nhận, tôn giáo ‘con’ do địa phương công nhận.

Kết luận, các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã, đang và sẽ còn là một trong những vấn đề nổi bật của các chương trình nghị sự quốc tế về nhân quyền. Nhà nước ta đã tham gia ICCPR và nhiều điều ước quốc tế khác khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về quyền này là cần thiết, để chứng minh cho cộng đồng quốc tế thấy tinh thần trách nhiệm và tính nghiêm túc của Việt Nam trong việc thực thi các cam kết quốc tế về quyền con người. Ngoài ra, việc này còn giúp giải quyết dứt điểm một số vấn đề còn tồn đọng liên quan đến quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, góp phần bảo đảm sự ổn định và phát triển của đất nước trong những năm tới đây./.


[1]Xem: Manfred Nowak, Bình luận về ICCPR, “Điều 18. Tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tôn giáo và tín ngưỡng”, trang 411.

4Văn kiện hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội 2003, tr. 45-46.

[3]Xem Nguyễn Khắc Huy, Về pháp nhân của các tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện hành, tại http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/241/0/1370/Ve_phap_nhan_cua_to_chuc_ton_giao_trong_khuon_kho_phap_luat_Viet_Nam_hien_hanh

[4] Xem, Bản góp ý xây dựng Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 22/2005/NĐ-CP của Tòa Tổng Giám mục TP.Hồ Chí Minh, ngày 20/5/2011, tại http://vietcatholic.org/News/Html/90073.htm

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 11(315) - tháng 6/2016)