Lý thanh hà lịch sử việt nam là ai

Kể từ đó đến nay đã tròn 550 năm, trải qua các lần điều chỉnh, tách nhập địa giới, địa danh, Quảng Nam là địa danh của một đơn vị trực thuộc chính quyền Trung ương qua các thời kỳ. Trong bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu sự đóng góp của làng gốm Thanh Hà, một trong những làng nghề tiêu biểu của xứ Quảng có thời gian hình thành và phát triển tương ứng với lịch sử 550 Danh xưng Quảng Nam.
Qua tài liệu khảo sát làng xã Quảng Nam 1941 – 1943 của Viện Viễn đông bác cổ cho thấy: Xã Thanh Hà có 8 tộc tiền hiền hay còn gọi là bát tôn tiền hiền gồm Nguyễn Văn, Nguyễn Viết, Nguyễn Đức, Nguyễn Kim, Ngụy Như, Bùi Phước, Võ Đình, Võ Văn, Nguyễn Tấn. Ngoài ra, còn có một số tộc họ lớn khác là Nguyễn Công, Lê,... Dựa vào gia phả, tộc Nguyễn Viết đã trải qua 16 đời, tộc Nguyễn Văn, Nguyễn Đức đã có 15 đời, như vậy, thời gian các tộc này định cư ở Thanh Hà vào đầu thế kỷ XVI (mỗi đời/thế hệ được tính 30 năm). PGS.TS Huỳnh Công Bá lại có nhận định về thời gian thành lập làng của làng Thanh Hà còn sớm hơn nữa. Đa phần các tộc họ ở Thanh Hà có nguồn gốc từ Thanh Hóa, Nghệ An. Trong gia phả tộc Nguyễn Viết năm 1806, bản dịch Việt ngữ năm 2004, ghi nguồn gốc của tộc như sau: ... Cơ nghiệp lẫy lừng xin tạc dạ/ Gia phong rực rỡ nguyện ghi tâm/ Ngàn thu danh chấn miền Thanh Hóa/Vạn đại ân truyền xứ Quảng Nam.

Lý thanh hà lịch sử việt nam là ai
Làng gốm Thanh Hà

Đến thời Nguyễn, xã Thanh Hà có 12 ấp (diện tích tính từ địa bạ Gia Long năm thứ 17 (1819) xã là 2.294 mẫu = 11,470km2) gồm An Bàng, Nam Diêu, Bộc Thuỷ, Thanh Chiếm, Bàu ốc, Bàu Súng (nay thuộc phường Thanh Hà), Đồng Nà, Bến Trễ, Trà Quế, Trảng Kèo, Cửa Suối (nay thuộc xã Cẩm Hà), Cồn Động (nay thuộc phường Cẩm An). Xã lúc bấy giờ thuộc tổng Phú Triêm hạ, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Sau đó, khoảng cuối thế kỷ XIX, ấp Hậu Xá mới được sát nhập vào Thanh Hà và làng có 13 ấp cho đến năm 1945. Về tên gọi Thanh Hà cho đến nay được thấy sớm nhất qua gia phả tộc Trần vào năm Cảnh Hưng thứ 43 (1782), một số văn tự Hán Nôm đang lưu tại nhà số 132 Trần Phú và được Lê Quý Đôn nhắc đến trong sách Phủ biên tạp lục. Nhiều thợ gốm cho rằng thủy tổ các tộc tiền hiền nói trên là Tổ nghề gốm Thanh Hà. Cũng có một số cư dân làng gốm kể giai thoại về Tổ nghề gốm là Bà Phước và Bà Tích. Sản phẩm của làng gốm đã được người làng Minh Hương mua để sử dụng trồng một số loại hoa quý, biếu quan Cai Án kiêm Tri Tàu vụ qua bản kê khai xã Minh Hương năm Cảnh Hưng 7 (1746). Vào năm Duy Tân thứ III (1909), sản phẩm gốm Thanh Hà đã được chính sử triều Nguyễn ghi danh trong sách Đại Nam Nhất Thống chí, quyển V, phần thổ sản Quảng Nam.

Ở làng gốm Thanh Hà đã có nhiều thợ giỏi được triều đình nhà Nguyễn phong tước, phong hàm, được triệu tập làm tại tượng cục Long Thọ của Kinh thành Huế. Ông Nguyễn Văn Đằng là Vân hầu tước, Cai đội dinh võ vệ lục đội năm Gia Long nguyên niên (1802), ông Bùi Phước Châu làm nghề nấu ngói, hàm tùng cửu phẩm tượng mục năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), ông Bùi Phước Thạch/Thạnh thợ nấu ngói, gạch lưu ly được phong hàm chánh cửu phẩm tượng mục năm Minh Mạng thứ 10 (1829). Trong văn bia trùng tu miếu Thái giám thuộc Khu miếu tổ nghề gốm Nam Diêu (niên đại1893) có tên nhiều chức dịch cúng tiền là: Tượng mục (1 người), Ngõa tượng – thợ làm ngói (2 người), đốc công, cựu hương mục (1 người)…

Muộn nhất là vào thế kỷ XIX, làng gốm có sự phân hóa thành hai đội ngũ: thợ gốm, lái buôn gốm (ở các chợ lân cận Hội An, buôn bằng ghe bầu hoặc buôn bằng ghe đi nguồn - các huyện Tây Quảng Nam). Ông Lê Bàn có ông nội là ông Lê Từ - một lái buôn gốm giàu có vào cuối thế kỷ XIX, đã chở gốm đến các tỉnh duyên hải miền Trung... để bán. Ở Thanh Hà có những chủ ghe bàu lớn như ông Ngụy Như Dư, Ngụy Cường, Nguyễn Liên, Nguyễn Thiết… với 7 chiếc ghe bầu, tải trọng mỗi chiếc từ 40 – 45 tấn. Làng gốm Thanh Hà trước đây sản xuất gốm, sành, gạch, ngói âm dương, vôi ở nhiều ấp như Nam Diêu, Thanh Chiếm, An Bang, Hòa Yên, Hậu Xá. Theo hồi ức của các vị cao niên, cách đây khoảng 70 năm trở về trước, ở ấp Nam Diêu có 50 hộ sản xuất gốm, 30 - 40 bàn xoay chuốt, 8 lò nung sành và hàng chục hộ buôn gốm với tổng lao động là 200 - 300 lao động. Cũng có một số hộ sản xuất gốm, sành, gạch, ngói, vôi ở ấp Thanh Chiếm (giáp Nam Diêu ở Đông Bắc), ấp An Bang (giáp Nam Diêu ở phía Bắc), ấp Hậu Xá (cách Nam Diêu 1km về phía Đông Bắc).

Làng gốm Thanh Hà trước năm 1945 thuộc xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Làng có không gian sản xuất gốm, sành, gạch, ngói âm dương, vôi phân bổ ở nhiều ấp thuộc phía Tây và Nam của làng như: Nam Diêu, Thanh Chiếm, An Bang, Hòa Yên, Hậu Xá. Nay, khu vực sản xuất gốm tập trung tại khối Nam Diêu, phường Thanh Hà, thành phố Hội An.

Theo hồi ức của các vị cao niên, cách đây khoảng 70 năm trở về trước, ở ấp Nam Diêu có đến 50 hộ sản xuất gốm, 30 - 40 bàn xoay chuốt, 8 lò nung sành và hàng chục hộ buôn gốm với tổng lao động là 200 - 300 lao động. Ngoài ra, còn có một số hộ làm nghề sản xuất gốm, sành, gạch, ngói, vôi ở ấp Thanh Chiếm (nay là khối Thanh Chiếm, giáp Nam Diêu về phía Đông Bắc), ấp An Bang (nay là khối An Bang, giáp Nam Diêu về phía Bắc), ấp Hậu Xá (cách Nam Diêu khoảng 1km về phía Đông).

Người dân Thanh Hà ở hiện có 32 hộ làm gốm với 134 lao động trên tổng số 320 hộ, trong đó có 5 hộ làm gốm truyền thống, 13 hộ làm con thổi, số còn lại là hộ làm gốm mỹ nghệ và có ít nhất là 3 người buôn gốm chuyên nghiệp; có 4 lò gốm truyền thống (lò úp, lò bầu), 4 lò ngửa để nung gốm mỹ nghệ, 5 lò ngửa để nung con thổi. Đội ngũ thợ gốm ở Thanh Hà hiện nay đều là hậu duệ của các tộc tiền hiền làng Thanh Hà: Nguyễn Viết, Nguyễn Văn, Nguỵ, Bùi, Phạm, Lê.

Nguyên liệu chính để làm gốmlà đất sét vàng, dẻo có độ kết dính cao. Loại đất này thường nằm ở các ruộng ven sông, ở độ sâu cách mặt ruộng khoảng 50 - 100cm, cách đây 60 năm trở về trước, đất được khai thác tại ấp An Bang, Thanh Chiếm (Thanh Hà) và vùng đất giáp với Thanh Hà thuộc Điện Phương ngày nay. Hiện nay, thợ gốm mua đất ở Thanh Quýt (Điện Bàn), Thi Lai (Duy Xuyên)… người bán đất vận chuyển bằng ghe đến Thanh Hà bán.

Sản phẩm gốm truyền thống được làm theo các qui trình sản xuất cổ truyền như sau:

Làm đất: đất được hòa với nước rồi dùng các mai dỡ, mai tỉa, mai chém, nề để băm, chém đất thành từng cục và nhào trộn 3 lần cho sạch, dẻo.

Chuốt gốm (tạo hình phôi): thợ đẩy đẩy bàn xoay và nặn con đất trên ghế nhồi đất, thợ chuốt ngồi cạnh bàn xoay, đặt con đất vào bàn xoay, hai tay áp vào con đất nặn thành phôi.

Sửa nguội: phôi được phơi nắng cho khô dần rồi chỉnh sửa cho cân đối, sau đó đem phơi cho cứng hẳn.

Kỹ thuật tráng men (dùng cho ngói thanh lưu ly, hoàng lưu ly): Men được làm từ đồng, chì, đá son, cao lanh... Nguyên liệu được nghiền mịn, trộn với 50% nước sạch tạo thành men sống hay nói cách khác là làm thành một lớp thủy tinh mỏng để làm bóng và bảo vệ da gốm không thấm nước. Gốm đã qua nung nhẹ lửa được lấy ra nhúng men sau đó đưa vào nung tiếp để cho men chín, bám vào da gốm.

Nung gốm: gốm, sành được nung trong lò bầu, lò nung sành gọi là lò xanh, lò đỏ dùng nung gốm. Lò xanh hình chữ nhật, thành lò bằng gạch, mái bầu bằng đất sét; cao khoảng 3m, rộng 5 - 6m, dài 4 - 5m, có 2 cửa lửa ở phía trước (đun củi), 3 cửa độ/đạo thông gió ở phía sau, 3 lỗ thông hơi ở mái. Lò đỏ nhỏ hơn lò xanh, cao khoảng 2,3m, rộng 2m, dài 3m. Củi nung truyền thống là củi rừng dền, dẻ, trường, trám, nay thợ lò dùng củi dương liễu (phi lao). Mỗi đợt nung lò sành cần 10m3 củi, nung gốm cần 5 - 7m3 củi. Nung gốm, sành theo qui trình: un (sưởi ấm lò), chụm thắt (tạo lửa nhiều để phôi thành phẩm). Khi nung, bằng kinh nghiệm của mình, thợ lò nhìn thấy khói trong suốt thoát ra sẽ đoán biết được độ nóng của lò và gốm đã thành phẩm hay chưa. Trước đây, khi nung sành, người thợ còn sử dụng om thăm (thăm dò trạng thái gốm trong lò khi đang nung) để ở cửa độ, om chịu sức nóng từ lò thoát ra mà chín thì sản phẩm trong lò đã chín và qua trạng thái của om, người thợ cũng đoán biết được sản phẩm đã được nung là tốt hay xấu. Liên quan đến trạng thái/màu sắc của am thăm có cả nhiều tên gọi riêng của nghề để mô tả và đi kèm với đó là tri thức nhận biết sản phẩm.

Gốm, sành truyền thống Thanh Hà đa dạng về loại hình (hơn 40 loại sản phẩm), gồm các đồ gia dụng (hũ, bình vôi, vại, nồi, thạp, diệm, trả, om, bùng/lùng binh... các loại) dùng để đựng nước, muối, mắm, gạo, các loại ngũ cốc, thổ sản…; dụng cụ sản xuất của nghề dệt ở Duy Xuyên, Điện Bàn, nghề làm đường ở Đại Lộc - Quảng Nam (vại ươm tơ, âu suốt đựng chỉ dệt, cái muống/mú lọc đường); gạch, ngói đất nung, đồ gốm dùng trong hoạt động tín ngưỡng (lư hương, tượng ông táo, quách…). Đặc trưng kiểu dáng sản phẩm là hũ thì có dáng miệng loe, cổ eo, vai, đáy thuôn, trôn bằng; nồi, niêu, chảo, siêu gốm... cùng chung kiểu miệng loe, vành miệng được vê tròn, cổ eo, ngắn, bụng phình to, đáy tròn. Đồ gốm, sành không men, da lán hoặc thô, xương mịn, đa số không có hoa văn, riêng một vài loại hũ sành được trang trí viền răng cưa nổi, văn lượn sóng ở cổ, vai.

Gốm mỹ nghệ được chế tác công phu hơn, để có da gốm mịn, thợ gốm đánh, lắng, lọc đất thành dung dịch mịn rồi đổ vào khuôn trong 12 giờ cho đất kết tủa thì phơi phôi. Đồ án trang trí của gốm mỹ nghệ thường là Hán tự có ý nghĩa cát tường, hoa văn hình học, tên đơn vị kinh doanh... Cũng có sản phẩm được tạo áo gốm bằng vỏ trứng. Phôi gốm mỹ nghệ có thể được nung trong lò bầu hoặc nung riêng ở lò ngửa. Gốm mỹ nghệ có ít nhất 33 loại sản phẩm gồm tượng đức Phật, Chúa..., đèn gốm áp tường, con tiện, chậu, lọ hoa, mô hình các di tích kiến trúc, hộp, gạt tàn thuốc, mặt nạ gốm... Những sản phẩm này được nhiều cơ sở du lịch, dịch vụ (nhà hàng, khách sạn, cafe) ở Hội An, Đà Nẵng, Huế, Đà Lạt, thành phố Hồ Chí Minh đặt hàng để trang trí nội ngoại thất. Trong những năm gần đây có một số hàng hóa đã được xuất khẩu sang Nhật, Úc, Đức, Anh, Pháp, Mỹ,…

Con thổi là loại hình gốm mới, có từ cuối thập niên 90, thế kỷ XX, được chế tạo đơn giản nhưng những sản phẩm này vẫn thể hiện các đề tài văn hóa truyền thống như bộ 12 con giáp, con thổi hình trẻ chăn trâu... được nhiều du khách mua làm lưu niệm.

Làm ngói âm dương: Ngói âm dương được làm từ đất sét vàng như đất làm gốm và trải qua các công đoạn: Nhồi đất, in phôi, phơi 1 nắng, rập (xếp thành từng hàng, vỗ cho cong thành ngói), vô nề (xếp thành từng hàng riêng), phơi 1 nắng, vô lò nung. Ngói âm dương được nung trong lò bầu (lò nung sành, nung gốm) hoặc lò ngửa nung gạch, ngói có nhiều kích cỡ khác nhau. 

Làm gạch thẻ: Các công đoạn giống như làm ngói âm dương, chỉ khác nhau ở dùng khuôn và không qua công đoạn rập.  

Làm tượng thờ ông Táo: Làm đất sét chín, nhồi đất, in bằng tay, phơi khô 2 ngày nắng, nung.

 Quách gốm cũng là một sản phẩm tín ngưỡng (dùng để cải táng người quá cố) được chế tác: Làm đất sét chín, nhồi đất, Đắp bằng tay (từng miếng), ráp, phơi khô, nung.

Cộng đồng Thanh Hà thờ tổ nghề gốm, hàng năm, vào ngày 10 tháng Giêng Âm lịch, người dân tổ chức tế Xuân, ngày 10 tháng Bảy tế Thu tại Khu miếu Tổ Nam Diêu. Trong lễ tế Xuân có tục tống Long Chu, đưa ra sông Thu Bồn thả nhằm trừ điềm xấu, cầu an cho cộng đồng. Thợ gốm cũng chọn những ngày chẵn của trung tuần tháng Giêng hằng năm đề cúng mở lò, mở hàng đầu năm. Trước đây còn có lễ ra mắt Tổ nghề cho những thợ chuốt trẻ trong làng vừa mới học chuốt xong để cáo với Tổ nghề là từ đây mình đã bước vào nghề chuốt và cầu được phù hộ sự nghiệp được an lành. Trước đây, giữa thế kỷ XX, ở Nam Diêu có gánh hát Bội do ông Quỳnh chủ xướng, đến năm 1975, gánh hát ngừng hoạt động vì điều kiện kinh tế. Năm 2004, các thợ gốm đã phục hồi hoạt động của đội hát bội, được nhân dân địa phương tán thưởng. Qua đó, nghệ nhân và các thợ làm gốm đã tích cực phục hồi, bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của địa phương. 

Trải qua nhiều thế hệ, các thợ gốm Thanh Hà đã tạo nên và lưu giữ khối lượng từ chuyên dùng của nghề gốm đối với từng công đoạn làm gốm. Thợ gốm đã phân loại các loại hũ sành bằng số học: hũ 6 (làm từ 6 con đất), hũ 5, hũ 4... hoặc dựa vào đặc điểm sử dụng của sản phẩm mà gọi tên như âu suốt (âu đựng suốt chỉ dệt vải). Để phân biệt trạng thái sản phẩm, thợ gốm dựa vào màu sắc thể hiện trên da sành mà gọi tên, đơn cử là: chàm tố gạch (sản phẩm có màu xanh chàm, giữa trôn có vòng tròn màu đỏ lợt)... Nhìn chung, hệ thống từ chuyên dùng này cung cấp nhiều thông tin phong phú về ngôn ngữ học, dân tộc và cần được nghiên cứu, làm sáng tỏ thêm.  

Sự hình thành và phát triển của nghề gốm Thanh Hà trong thế kỷ XVI, XVII đã góp phần làm rõ thêm lịch sử hình thành làng xã và các làng nghề, ngành nghề truyền thống ở Hội An. Các sản phẩm gạch, ngói Thanh Hà đã góp phần hình thành nên kiến trúc Đô thị cổ Hội An và nhiều đô thị khác ở miền Trung. Sản phẩm nghề gốm Thanh Hà đã có sự đóng góp lớn và ghi dấu lâu dài trong lịch sử sử dụng đồ gia dụng ở Hội An, Quảng Nam và ven biển miền Trung, được ghi nhận là thổ sản đặc trưng Quảng Nam của chính sử triều Nguyễn trong Đại Nam Nhất thống chí. Nghệ nhân có tay nghề cao đã góp phần hình thành nên diện mạo kiến trúc một số công trình cung đình, các lăng tẩm, dinh thự của vua quan triều Nguyễn ở Huế. Bên cạnh chế tác các sản phẩm gốm, gạch, ngói âm dương, người dân làng gốm còn sáng tạo và lưu giữ một hệ thống kho tàng tri thức dân gian cũng như ngôn ngữ chuyên dụng nghề nghiệp trong các lĩnh vực sản xuất, tiêu thụ, tín ngưỡng của nghề gốm. Những giá trị này đang được gìn giữ, sử dụng hàng ngày và phát huy phù hợp trong các hoạt động du lịch tại làng gốm.

Với giá trị tiêu biểu, Nghề gốm Thanh Hà được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 2965/QĐ-BVHTTDL ngày 27/8/2019.

Dương Anh

Theo Hồ sơ tư liệu, Cục Di sản văn hóa