Man thiện là ai

Man Thiện (chữ Hán: 謾善; ? - 43) là mẹ của Hai Bà Trưng (Trưng Trắc và Trưng Nhị).

Quê bà Man Thiện ở tổng Cam Giá, trấn Sơn Tây.[1]

Theo Việt Nam danh nhân tự điển của Nguyễn Huyền Anh thì bà Thiện (cháu ngoại của Vua Hùng) có tên thật là Trần Thị Đoan, vợ của quan lạc tướng Hùng Định ở Mê Linh. Sau khi chồng mất, nuôi chí lớn nên bà đã nuôi dạy hai con, đào luyện họ thành người có tài thao lược, yêu nước, trọng đạo nghĩa. Năm Trưng Trắc 19 tuổi, bà gả con gái cho Thi Sách.

Bà là người tổ chức cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng từ đầu. Khi lực lượng đủ mạnh bà mới giao quyền lãnh đạo lại cho con rể (Thi Sách) và con gái. Nhưng vào năm 39, Thi Sách bị Tô Định giết hại.

Mùa xuân năm 40, Hai Bà Trưng đánh tan quân Hán, xưng Vương đóng đô ở Mê Linh, tôn mẹ là Hoàng hậu Man Thiện. Không ở kinh đô, bà về quê làng Nam Nguyễn (nay thuộc Cam Thượng, Ba Vì) lập đồn trấn giữ.[1] Khi nghĩa quân bị Mã Viện lấn át, bà đã về An Hát (sau đổi thành Phúc Lộc, huyện Phúc Thọ, Hà Nội ngày nay) để chiêu mộ thêm binh sĩ. Trước sự tấn công dữ dội của quân giặc, để không bị địch bắt, bà trầm mình ở dòng sông Hồng vào ngày 10 tháng Chạp năm Quý Mão (43).

Mộ và đền thờ bà Man Thiện gần đền Hai Bà Trưng. Đền thờ bà Man Thiện gọi là đền Mẫu.Tuy nhiên truyền thuyết khác thì cho rằng gần núi Ba Vì có mộ Dạ và miếu Mèn chính là mộ và miếu của bà Man Thiện. Dạ và Mèn là hai từ trong tiếng Việt cổ dùng để tôn xưng người phụ nữ anh hùng, đáng tôn kính.

Ở Thành phố Hồ Chí Minh, tên của bà được đặt cho một con đường[2] ở phường Hiệp Phú và phường Tăng Nhơn Phú A, thành phố Thủ Đức.

  • Hai Bà Trưng
  • Thi Sách
  • Vua Hùng
  • Man Thiện tại Từ điển bách khoa Việt Nam

Giá trị lịch sử

Quốc Mẫu – Man Hoàng Hậu, thân mẫu Nhị vua Hai Bà Trưng

Quốc Mẫu – Man Hoàng Hậu, thân mẫu Nhị vua Hai Bà Trưng Một danh tướng đồng thời cũng là Mẹ Việt Nam anh hùng đầu tiên từ thời Vua Trưng là thân mẫu Nhị vua Hai Bà Trưng – Bà Man Thiện, được phong là Man hoàng hậu, đời sau gọi bà là Quốc Mẫu. Sự tích bà mẹ Việt Nam Anh hủng đầu tiên được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân và được ghi lại trong nhiều tài liệu trong đó điển hình là cuốn Ngọc phả do quan Hàn Lâm Đông Các Đại học sỹ Nguyễn Bính soạn vào ngày lành tháng ba năm Hồng Phúc Nguyên niên (1572). Man Hoàng hậu tên thật là Trần Thị Đoan hay còn gọi là Đoan Thị, quê ở làng Nam Nguyễn, tổng Cam Giá, trấn Sơn Tây. Theo truyền thuyết và thần tích thì bà thuộc dòng dõi các vua Hùng. Lúc sinh thời, bà là một người con gái xinh đẹp nhất vùng, lại có tài ứng biến, võ nghệ tinh thông. Lớn lên bà lấy ông Trưng Định làm Lạc tướng ở đất Mê Linh, cũng thuộc dòng dõi Hùng Vương. Hùng Định là một người khảng khái và có tinh thần yêu nước, thương dân. Uy tín của ông lan rộng khắp vùng và được tất cả mọi người kính phục. Sau khi lấy chồng, Bà Man Thiện sinh hạ được ba người con, một người con trai mất sớm và ngày 01/8/năm Giáp Tuất (tức là năm 14 công lịch) bà sinh hai cô con gái, người chị tên là Trưng Trắc, em là Trưng Nhị. Về cái tên của Hai Bà Trưng có nhiều giả thuyết. Một giả thuyết cho rằng, Trưng là lấy theo tên họ của cha là ông Trưng Định. Một giả thuyết cho rằng, tên của hai chị em là Trứng chắc, Trứng nhị (tức là tên gọi quen thuộc của hai cái trứng tằm trong dân gian), nghĩa là, kén thứ nhất thì chắc - là chị, kén thứ hai thì mỏng - là em, đồng thời cũng có thể nói đến thứ tự sinh đôi nhất - nhì. Thời gian sau, ông Hùng Định mất, bà Man Thiện phải một mình lo toan cầy cấy, tằm tang, nuôi dạy hai cô con gái. Bà dậy hai con gái theo truyền thống Lạc Hồng. Bà mời vợ chồng ông Đỗ Năng Tế - ông giỏi võ nghệ, bà giỏi công dung về làm gia sư và huấn luyện võ nghệ cho hai chị em Trưng Trắc, mong muốn hai con sau này sẽ trở thành những người anh hùng kiệt xuất, làm rạng rỡ tổ tiên, non sông gấm vóc. Năm Trưng Trắc 19 tuổi, bà cho lấy Dương Thi Sách, con trai Lạc tướng huyện Chu Diên ở đất Mê Linh. Thi Sách cũng là một người yêu nước và có ý trí quật cường, nổi tiếng khắp vùng. Lúc này, đất nước ta đang bị giặc Hán chiếm và cai trị. Bà cùng với các con tích trữ lương thực, chiêu mộ anh tài chờ ngày khởi nghĩa. Khi lực lượng đủ mạnh, bà mới giao quyền lãnh đạo lại cho con rể và con gái. Như vậy, chính bà là người gây dựng cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng lịch sử ngay từ buổi ban đầu. Giữa lúc nghĩa quân Hai Bà Trưng đang chuẩn bị mọi lực lượng khởi nghĩa giành lại độc lập thì Thi Sách bị Thái thú Tô Định sát hại. Hành vi tàn bạo của kẻ thù đã làm tăng thêm quyết tâm của Hai Bà Trưng trong cuộc đấu tranh để đòi nợ nước, trả thù nhà. Trước hành động kiên quyết và ý chí phục thù của con gái, bà Man Thiện càng tin tưởng và gấp rút chuẩn bị để ủng hộ sự nghiệp cứu nước của con gái. Dựa vào lòng tôn kính và hoài vọng của nhân dân đối với các vua Hùng và uy tín của vị Lạc tướng đất Mê Linh, bà Man Thiện đi khắp nơi, từ vùng núi Ba Vì, Hưng Hoá, Tam Đảo, Tiên Du đến vùng biển Quảng Ninh, Hải Phòng để liên kết với các quan lang, thủ lĩnh địa phương chiêu mộ anh hùng hào kiệt, tuyển chọn dân binh thêm dày lực lượng. Mặt khác, bà còn quan tâm đến việc đẩy mạnh canh nông, tích tụ lương thảo, bí mật luyện tập binh mã chờ ngày khởi nghĩa. Mùa xuân năm Canh Tý (tức là năm 40 công lịch), Bà và hai con gái gióng tiếng trống Mê Linh khởi nghĩa. Quân khởi nghĩa kéo về bãi Trường Sa, cửa sông Hát (nay thuộc huyện Phúc Thọ) lập đàn thề, truyền hịch khởi nghĩa. Anh hùng hào kiệt khắp nơi kéo về tụ nghĩa, điển hình như: Lê Chân, Thánh Thiên, Xuân Nương, Phương Dung...Nghĩa quân tiến đánh thành Luy Lâu, thủ phủ của chính quyền Đông Hán ở nước ta. Hai Bà Trưng đi đến đâu, đều được nhân dân hết lòng ủng hộ, nhanh chóng đánh tan quân Tô Định, thu phục 65 huyện, thành, giành lại độc lập trên toàn lãnh thổ. Cũng theo Thần tích kể lại, trong cuộc khởi nghĩa này, bà Man Thiện đã chỉ huy 7 vạn quân bản bộ cùng với lực lượng của hai con tiến đánh quân giặc. Từ sông Hát, quân khởi nghĩa vượt sông Hồng, tiến về Luy Lâu thủ phủ của Tô Định (vùng Thuận Thành - Bắc Ninh ngày nay). Quân ta đi đến đâu, quân giặc hốt hoảng, chạy tan tác. Tô Định phải cắt tóc, cạo râu bỏ trốn về Phương bắc. Đất nước hoàn toàn độc lập, Trưng Trắc xưng vương (Trưng Nữ Vương), đóng đô ở Mê Linh, phong cho em Trưng Nhị làm Bình Khôi Công chúa và tôn mẹ làm Man Hoàng Hậu. Không chỉ ở Kinh đô Mê Linh, bà Man Thiện đem quân về xây dựng căn cứ ở làng Nam Nguyễn nay thuộc Cam Thượng, Ba Vì để làm chỗ dựa cho hai con. Đất nước độc lập được ba năm thì tháng tư năm Nhâm Dần, tức là năm 42, vua Hán Quang Vũ sai Mã Viện đem 20 vạn quân cùng 02 nghìn thuyền, xe sang báo thù. Trước nạn ngoại xâm, Hai Bà Trưng cùng các tướng lĩnh đem quân lên phía Bắc chống giặc. Hai bên giao tranh quyết liệt tại vùng hồ Lãng Bạc (có tài liệu nói Lãng Bạc là ở vùng phía Bắc Lục Đầu - Phả Lại, có tài liệu cho rằng đó là vùng Tiên Sơn - Bắc Ninh ngày nay). Mặc dù chiến đấu rất anh dũng nhưng do lực lượng quá chênh lệch nên Hai Bà Trưng phải lui quân về căn cứ Cẩm Khê (hay còn gọi là Cấm Khê) dưới chân núi Ba Vì để làm kế lâu dài vì nơi đây có địa hình hiểm trở, rừng núi trùng điệp, cây cối um tùm (có sách chép Cấm Khê là vùng Cẩm Viên, Yên Lạc, Vĩnh Phúc ngày nay, có sách lại cho rằng đó vùng Thạch Thất ngày nay). Chưa kịp xây dựng phòng tuyến thì Mã Viện đuổi đến bao vây nghĩa quân. Trước sức mạnh hùng hồn của quân giặc, Hai Bà Trưng phải dựa vào núi Hy Sơn (một ngọn núi thuộc dãy núi Vua Bà ở Hoà Bình ngày nay) để quyết chiến. Song, vì thế cùng lực kiệt, hai vua bị vây hãm khốc liệt. Trên đường rút lui, đến khu vực bãi Sông ở Hát Môn, nơi mà năm xưa Hai bà cùng với mẹ và nghĩa quân lập đàn thề xuất quân, để không bị sa vào tay giặc, hai chị em gieo mình xuống sông tuẫn tiết vào ngày 6 tháng 3 năm 43 (có tài liệu cho rằng hai bà hoá tại núi Hy Sơn). Trong khi đó, tại đồn Nam Nguyễn, Man Hoàng Hậu được tin hai con bị vây hãm hết sức tức giận, thu thập binh mã trong các huyện Phúc Lộc (Phúc Thọ ngày nay) và huyện Bạch Hạc (Vĩnh Phúc ngày nay) để cùng với đoàn chiến thuyền vượt sông Hồng lên sông Đà, qua vùng chân núi Ba Vì vòng về núi Hy Sơn tiến đánh quân giặc nhằm giải vây cho Hai con. Nhưng mới đi đến nửa đường thì quân Hán đuổi kịp và đánh gấp. Tình huống quá gian nan, người mệt, ngựa mỏi, bà Man Thiện lên ngựa tả xung hữu đột phá vòng vây trong suốt nửa ngày trời, bà bị thương nặng vẫn không sao thoát khỏi trận tiền. Cuối cùng, biết không thể chống chọi được, bà Man Thiện gieo mình xuống sông Hồng tuẫn tiết để không phải rơi vào tay giặc. Hôm ấy là ngày mùng mười tháng Chạp âm lịch. Thi thể bà trôi về đến bến đồn Nam Nguyễn, diện mạo hồng hào như vẫn còn sống. Nhân dân địa phương và quân sỹ vô cùng thương tiếc vớt lên an táng tại khu đất cao trong đồn Nam Nguyễn, đặt tên là Gò Mả Dạ và lập miếu thờ để tưởng nhớ công lao của bà, Miếu đó gọi là Miếu Mèn (Miếu của Mẹ). Gò và miếu nằm ở khu vực từ chân núi Ba Vì đổ ra cửa sông Đáy, ở quãng giữa có cùng đồi gò trập trùng, cây cối um tùm. Trong tiếng Việt thời viễn cổ “Dạ” là tiếng tôn xưng người đàn bà già anh dũng, “Mèn” là tôn kính bậc anh thư ấy như bà mẹ chung của dân tộc. Di tích Miếu Mèn thuộc thôn Nam An, xã Cam Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Xã Cam Thượng phía Bắc giáp xã Đông Quang, Tiên Phong, phía Tây giáp xã Thuỵ An, phía Đông giáp xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây. Thời trước, di tích thuộc thôn Nam Nguyễn, tổng Cam Giá, huyện Minh Nghĩa, phủ Quảng Oai, trấn Sơn Tây. Ngày nay, di tích thuộc thôn Nam An, xã Cam Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Miếu Mèn quy mô không lớn nhưng còn giữ được nhiều di vật quý giá như: kiệu bát cống, long ngai, bài vị, hương án, nghê gỗ, hoành phi, câu đối, sắc phong… biểu thị lòng thành kính của dân làng với Man Thiện Hoàng hậu, người mẹ Việt Nam anh hùng ở đầu thế kỷ I. Với những giá trị to lớn về khoa học, lịch sử và kiến trúc nghệ thuật, Miếu Mèn đã được Bộ VH-TT nay là Bộ VH,TT&DL xếp hạng là di tích lịch sử - văn hoá theo Quyết định số 1539/QĐ-UBND ngày 27/12/1990. Đến thời Lý, do bị đại hạn, triều đình sai Cẩm Tĩnh Thiền Sư đến Miếu Mèn cầu đảo và rất linh ứng. Cảm ân đức của thần, vua Lý Anh Tông cho tu tạo lại toà Miếu cổ và ban sắc phong thần là: "Linh trinh phu nhân mẫu hậu vị đại vương thượng đẳng thần". Các triều đại sau này đều phong tặng để ca ngợi công đức của Nữ thần Man Hoàng Hậu. Người đời sau truy tôn là Đức Quốc Mẫu. Theo Thần phả, di tích Miếu Mèn được nhân dân làng Nam Nguyễn xây dựng ngay sau khi an táng Man Hoàng Hậu trong gò Mả Dạ. Đến thời nhà Lý, vì bà có công ân phù, tạo mưa cứu hạn nên Miếu được nhà vua cho trùng tu, sửa chữa. Từ đó đến nay, di tích đã được trùng tu, sửa chữa nhiều lần. Năm Thành Thái thứ 7 (năm 1895). Theo văn bia hiện còn, trong đợt trùng tu lớn này, sau khi công việc trùng tu hoàn tất, dân làng lại sửa sang các đồ tự khí để mang lại vẻ lộng lẫy, nghiêm trang cho toà miếu cổ. Miếu Mèn được xây dựng trên gò đất cao giữa cánh đồng, nhìn theo hướng Nam trông ra sông Hồng. Miếu Mèn là một công trình kiến trúc hình chữ Đinh gồm Tiền tế và Hậu cung. Vật liệu dùng trong di tích là những vật liệu bền vững có mặt phổ biến trong các kiến trúc tôn giáo truyền thống ở nước ta, gạch xây tường, mái lợp ngói ta, toàn bộ khung nhà làm bằng gỗ lim. Quy hoạch mặt bằng gồm khoảng sân hẹp ở trước Tiền tế, qua nhà Tiền tế là Hậu cung. Nhà Tiền tế gồm ba gian xây kiểu tường hồi bít đốc, phía trước xây thêm khoảng tường rộng hơn 2m, phần trên tường trang trí lồng đèn trụ biểu. Bốn bộ vì đỡ mái được làm thống nhất theo kiểu Thượng chồng rường giá chiêng hạ kẻ và bẩy hiên trên bốn hàng chân cột. Nhà Tiền tế được xây cao 40cm so với mặt sân, lát gạch hình vuông màu đỏ nhạt, kích thước 20 x 20cm. Lòng nhà Tiến tế để trống tạo không gian thoáng đãng mỗi khi có việc làng. Sát tường hồi phải làm sàn gỗ cao 1m20 để đặt long ngai, đồ tế tự cho trợ thủ của Man Hoàng hậu. Nhà Hậu cung gồm ba gian nhà dọc, nối liền với gian giữa của Tiền tế tạo thành hình chữ Đinh. Các bộ vì được làm theo kiểu thượng chồng rường giá chiêng hạ bẩy trên trên hai hàng cột chính. Cũng như ở Tiền tế, các bộ vì được bào trơn, bào soi tạo ra vẻ thanh thoát cho ngôi miếu cổ. Trong nhà Hậu cung, hai gian ngoài đặt hương án, kiệu thờ, gian trong cùng làm hệ thống sàn gỗ cao 1m20 đặt khám thờ. Trong khám có long ngai bài vị của Man Hoàng hậu. Mả Dạ (mộ của bà Man Thiện) nằm về phía Bắc cách Miếu khoảng 200m. Đây là một khu đất cao nằm giữa cánh đồng, giữa gò là ngôi mộ đất có kích thước lớn (3m x 3m x1m20). Sau này trong quá trình canh tác, diện tích ngôi mộ cổ đã bị thu hẹp. Thực hiện Nghị quyết trung ương 5, khoá VIII của Ban chấp hành Trung ương Đảng với nội dung: “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, được sự quan tâm của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, UBND thành phố Hà Nội, ngày 18 tháng 7 năm 2010, UBND huyện Ba Vì đã khởi công công trình tu bổ, tôn tạo di tích Miếu Mèn và mở rộng khuôn viên di tích với quy mô khá lớn gồm các công trình: Tiền Bái, Đại bái, Hậu cung, Nghi môn, Tả - Hữu vu, tường bao xung quanh di tích, lăng mộ Man Hoàng hậu, đường bê tông dẫn vào di tích và từ di tích sang mộ. Sự kiện này có nghĩa nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa có ý nghĩa giáo dục lịch sử vừa thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn với các bậc tiền nhân. Hiện Miếu Mèn còn bảo lưu được một sưu tập di vật văn hoá lịch sử quý của nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau: - Một bộ kiệu gỗ sơn son thếp vàng thế kỷ 19. - Hai Long ngai gỗ chạm thế kỷ thứ 19. - Một đôi Nghê gỗ thế kỷ 19. - Một hương án gỗ thế kỷ 19, trang trí tứ linh, hổ phù, long mã... - Một kiệu rước nước kích thước nhỏ thế kỷ 19. - Một chuông đồng cao 50cm, đường kính đáy 27cm. - Một choé sứ Trung Quốc thế kỷ 18. - Một bức hoành phi "Thụ Phúc Giới" - Hưởng phúc lớn. - Hai câu đối ca ngoại công lao, sự nghiệp của bà Man Thiện. - 11 đạo sắc của hai triều Lê - Nguyễn phong thần cho bà Man Thiện. Thời Lê có các triều hiệu Cảnh Hưng thứ tư (1743), Chiêu Thống năm đầu (1787). Thời Nguyễn có sắc của vua Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân, Khải Định ban tặng... Miếu Mèn và gò Mả Dạ là di tích về một nhân vật lịch sử lớn trong thời kỳ dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc ta. Trong quần thể di tích này, gò Mả Dạ gắn bó trực tiếp với nhân vật được thờ, Miếu là một công trình tưởng niệm vị anh hùng đã quên mình vì nước. Trong những giá trị hiện còn, cuộc đời và sự nghiệp lớn lao của bà Man Thiện đã tạo ra một lớp văn hoá lịch sử lâu đời bao chùm cả khu vực. Man Hoàng hậu khi sinh thời là người tài sắc vẹn toàn, đảm đang việc nhà, việc nước. Đóng góp lớn lao nhất của bà mẹ anh hùng này là đã sinh, nuôi dưỡng và công hiến cho dân tộc hai vị anh hùng kiệt xuất nhất của lịch sử nước nhà là Hai bà Trưng. Không dừng lại ở đó, bà Man Thiện còn là một trong những nhân vật sáng chói nhất của lịch sử dân tộc, chính bà là người đầu tiên gây dựng và giữ vai trò quan trọng trong cuộc khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa có ý nghĩa vô cùng trọng đại, nó mở đầu cho giai đoạn đấu tranh giành độc lập của dân tộc ta, đó là sự thức tỉnh, nuôi dưỡng cho ý thức, tinh thần dân tộc trước sự xâm lăng và đồng hoá của kẻ thù. Bản anh hùng ca tuy ngắn ngủi nhưng Nữ anh hùng Trần Thị Đoan đã góp phần làm nên trang sử vẻ vang nhất của nước nhà. Bà là một trong những người đã tạo dựng lên chiều dài lịch sử yêu nước của dân tộc, là biểu tượng đầu tiên về người phụ nữ Việt Nam "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang". Ngoài công lao đóng góp của nhân vật được thờ, hệ thống địa danh, truyền thuyết, thư tịch ghi chép về bà Man Thiện là nguồn tư liệu lịch sử góp phần tìm hiểu về quy mô, tính chất, phạm vi của cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Ngoài miếu Mèn, đình làng Nam An cũng thờ Man Hoàng hậu. Hiện tượng Man Hoàng Hậu có mặt tại đình và được tôn làm Thành hoàng làng đã khẳng định vị trí to lớn của vị thần đối với dân làng và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc ta. Trước đây, nhiều người cho rằng ngôi đình làng là nơi độc chiếm của những đàn ông, những nam thần, nên sự có mặt của bà Man Thiện trong tín ngưỡng Thành hoàng làng ở Nam An là cứ liệu quý cho việc tìm hiểu về lịch sử của ngôi đình, về văn hoá truyền thống ở nước ta. Nằm trong vùng đất có bề dày lịch sử lâu đời, di tích Miếu Mèn đã góp mặt để tạo ra một trung tâm văn hoá di tích lâu đời của dân tộc. Làm thành một trọng điểm của tuyến tham quan du lịch phía Tây Thủ đô Hà Nội. Trong đó Miếu Mèn, Lăng Phùng Hưng, Ngô Quyền là những di tích lịch sử lớn: Chùa Mía, đình Chu Quyến, Tây Đằng là những di tích kiến trúc nghệ thuật nổi danh trong cả nước. <span style="font-size:14.0pt;line-height:115%; font-family:" times="" new="" roman","serif";mso-fareast-font-family:calibri;="" mso-fareast-theme-font:minor-latin;mso-ansi-language:en-us;="" mso-fareast-language:="" en-us;mso-bidi-language:ar-sa"=""> <span style="font-size:14.0pt;line-height:115%; font-family:" times="" new="" roman","serif";mso-fareast-font-family:calibri;="" mso-fareast-theme-font:minor-latin;mso-ansi-language:en-us;="" mso-fareast-language:="" en-us;mso-bidi-language:ar-sa"=""> Toàn cảnh Miếu Man và Mả Dạ Ths Nguyễn Thy Nga

Một danh tướng đồng thời cũng là Mẹ Việt Nam anh hùng đầu tiên từ thời Vua Trưng là thân mẫu Nhị vua Hai Bà Trưng – Bà Man Thiện, được phong là Man hoàng hậu, đời sau gọi bà là Quốc Mẫu.

Sự tích bà mẹ Việt Nam Anh hủng đầu tiên được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân và được ghi lại trong nhiều tài liệu trong đó điển hình là cuốn Ngọc phả do quan Hàn Lâm Đông Các Đại học sỹ Nguyễn Bính soạn vào ngày lành tháng ba năm Hồng Phúc Nguyên niên (1572).

Man Hoàng hậu tên thật là Trần Thị Đoan hay còn gọi là Đoan Thị, quê ở làng Nam Nguyễn, tổng Cam Giá, trấn Sơn Tây. Theo truyền thuyết và thần tích thì bà thuộc dòng dõi các vua Hùng.

Lúc sinh thời, bà là một người con gái xinh đẹp nhất vùng, lại có tài ứng biến, võ nghệ tinh thông. Lớn lên bà lấy ông Trưng Định làm Lạc tướng ở đất Mê Linh, cũng thuộc dòng dõi Hùng Vương. Hùng Định là một người khảng khái và có tinh thần yêu nước, thương dân. Uy tín của ông lan rộng khắp vùng và được tất cả mọi người kính phục.

Sau khi lấy chồng, Bà Man Thiện sinh hạ được ba người con, một người con trai mất sớm và ngày 01/8/năm Giáp Tuất (tức là năm 14 công lịch) bà sinh hai cô con gái, người chị tên là Trưng Trắc, em là Trưng Nhị.

Về cái tên của Hai Bà Trưng có nhiều giả thuyết. Một giả thuyết cho rằng, Trưng là lấy theo tên họ của cha là ông Trưng Định. Một giả thuyết cho rằng, tên của hai chị em là Trứng chắc, Trứng nhị (tức là tên gọi quen thuộc của hai cái trứng tằm trong dân gian), nghĩa là, kén thứ nhất thì chắc - là chị, kén thứ hai thì mỏng - là em, đồng thời cũng có thể nói đến thứ tự sinh đôi nhất - nhì.

Thời gian sau, ông Hùng Định mất, bà Man Thiện phải một mình lo toan cầy cấy, tằm tang, nuôi dạy hai cô con gái. Bà dậy hai con gái theo truyền thống Lạc Hồng.

Bà mời vợ chồng ông Đỗ Năng Tế - ông giỏi võ nghệ, bà giỏi công dung về làm gia sư và huấn luyện võ nghệ cho hai chị em Trưng Trắc, mong muốn hai con sau này sẽ trở thành những người anh hùng kiệt xuất, làm rạng rỡ tổ tiên, non sông gấm vóc.

Năm Trưng Trắc 19 tuổi, bà cho lấy Dương Thi Sách, con trai Lạc tướng huyện Chu Diên ở đất Mê Linh. Thi Sách cũng là một người yêu nước và có ý trí quật cường, nổi tiếng khắp vùng.

Lúc này, đất nước ta đang bị giặc Hán chiếm và cai trị. Bà cùng với các con tích trữ lương thực, chiêu mộ anh tài chờ ngày khởi nghĩa. Khi lực lượng đủ mạnh, bà mới giao quyền lãnh đạo lại cho con rể và con gái. Như vậy, chính bà là người gây dựng cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng lịch sử ngay từ buổi ban đầu.

Giữa lúc nghĩa quân Hai Bà Trưng đang chuẩn bị mọi lực lượng khởi nghĩa giành lại độc lập thì Thi Sách bị Thái thú Tô Định sát hại. Hành vi tàn bạo của kẻ thù đã làm tăng thêm quyết tâm của Hai Bà Trưng trong cuộc đấu tranh để đòi nợ nước, trả thù nhà.

Trước hành động kiên quyết và ý chí phục thù của con gái, bà Man Thiện càng tin tưởng và gấp rút chuẩn bị để ủng hộ sự nghiệp cứu nước của con gái. Dựa vào lòng tôn kính và hoài vọng của nhân dân đối với các vua Hùng và uy tín của vị Lạc tướng đất Mê Linh, bà Man Thiện đi khắp nơi, từ vùng núi Ba Vì, Hưng Hoá, Tam Đảo, Tiên Du đến vùng biển Quảng Ninh, Hải Phòng để liên kết với các quan lang, thủ lĩnh địa phương chiêu mộ anh hùng hào kiệt, tuyển chọn dân binh thêm dày lực lượng. Mặt khác, bà còn quan tâm đến việc đẩy mạnh canh nông, tích tụ lương thảo, bí mật luyện tập binh mã chờ ngày khởi nghĩa.

Mùa xuân năm Canh Tý (tức là năm 40 công lịch), Bà và hai con gái gióng tiếng trống Mê Linh khởi nghĩa. Quân khởi nghĩa kéo về bãi Trường Sa, cửa sông Hát (nay thuộc huyện Phúc Thọ) lập đàn thề, truyền hịch khởi nghĩa.

Anh hùng hào kiệt khắp nơi kéo về tụ nghĩa, điển hình như: Lê Chân, Thánh Thiên, Xuân Nương, Phương Dung...Nghĩa quân tiến đánh thành Luy Lâu, thủ phủ của chính quyền Đông Hán ở nước ta. Hai Bà Trưng đi đến đâu, đều được nhân dân hết lòng ủng hộ, nhanh chóng đánh tan quân Tô Định, thu phục 65 huyện, thành, giành lại độc lập trên toàn lãnh thổ.

Cũng theo Thần tích kể lại, trong cuộc khởi nghĩa này, bà Man Thiện đã chỉ huy 7 vạn quân bản bộ cùng với lực lượng của hai con tiến đánh quân giặc. Từ sông Hát, quân khởi nghĩa vượt sông Hồng, tiến về Luy Lâu thủ phủ của Tô Định (vùng Thuận Thành - Bắc Ninh ngày nay).

Quân ta đi đến đâu, quân giặc hốt hoảng, chạy tan tác. Tô Định phải cắt tóc, cạo râu bỏ trốn về Phương bắc.

Đất nước hoàn toàn độc lập, Trưng Trắc xưng vương (Trưng Nữ Vương), đóng đô ở Mê Linh, phong cho em Trưng Nhị làm Bình Khôi Công chúa và tôn mẹ làm Man Hoàng Hậu.

Không chỉ ở Kinh đô Mê Linh, bà Man Thiện đem quân về xây dựng căn cứ ở làng Nam Nguyễn nay thuộc Cam Thượng, Ba Vì để làm chỗ dựa cho hai con.

Đất nước độc lập được ba năm thì tháng tư năm Nhâm Dần, tức là năm 42, vua Hán Quang Vũ sai Mã Viện đem 20 vạn quân cùng 02 nghìn thuyền, xe sang báo thù. Trước nạn ngoại xâm, Hai Bà Trưng cùng các tướng lĩnh đem quân lên phía Bắc chống giặc.

Hai bên giao tranh quyết liệt tại vùng hồ Lãng Bạc (có tài liệu nói Lãng Bạc là ở vùng phía Bắc Lục Đầu - Phả Lại, có tài liệu cho rằng đó là vùng Tiên Sơn - Bắc Ninh ngày nay). Mặc dù chiến đấu rất anh dũng nhưng do lực lượng quá chênh lệch nên Hai Bà Trưng phải lui quân về căn cứ Cẩm Khê (hay còn gọi là Cấm Khê) dưới chân núi Ba Vì để làm kế lâu dài vì nơi đây có địa hình hiểm trở, rừng núi trùng điệp, cây cối um tùm (có sách chép Cấm Khê là vùng Cẩm Viên, Yên Lạc, Vĩnh Phúc ngày nay, có sách lại cho rằng đó vùng Thạch Thất ngày nay).

Chưa kịp xây dựng phòng tuyến thì Mã Viện đuổi đến bao vây nghĩa quân. Trước sức mạnh hùng hồn của quân giặc, Hai Bà Trưng phải dựa vào núi Hy Sơn (một ngọn núi thuộc dãy núi Vua Bà ở Hoà Bình ngày nay) để quyết chiến. Song, vì thế cùng lực kiệt, hai vua bị vây hãm khốc liệt.

Trên đường rút lui, đến khu vực bãi Sông ở Hát Môn, nơi mà năm xưa Hai bà cùng với mẹ và nghĩa quân lập đàn thề xuất quân, để không bị sa vào tay giặc, hai chị em gieo mình xuống sông tuẫn tiết vào ngày 6 tháng 3 năm 43 (có tài liệu cho rằng hai bà hoá tại núi Hy Sơn).

Trong khi đó, tại đồn Nam Nguyễn, Man Hoàng Hậu được tin hai con bị vây hãm hết sức tức giận, thu thập binh mã trong các huyện Phúc Lộc (Phúc Thọ ngày nay) và huyện Bạch Hạc (Vĩnh Phúc ngày nay) để cùng với đoàn chiến thuyền vượt sông Hồng lên sông Đà, qua vùng chân núi Ba Vì vòng về núi Hy Sơn tiến đánh quân giặc nhằm giải vây cho Hai con.

Nhưng mới đi đến nửa đường thì quân Hán đuổi kịp và đánh gấp. Tình huống quá gian nan, người mệt, ngựa mỏi, bà Man Thiện lên ngựa tả xung hữu đột phá vòng vây trong suốt nửa ngày trời, bà bị thương nặng vẫn không sao thoát khỏi trận tiền.

Cuối cùng, biết không thể chống chọi được, bà Man Thiện gieo mình xuống sông Hồng tuẫn tiết để không phải rơi vào tay giặc. Hôm ấy là ngày mùng mười tháng Chạp âm lịch.

Thi thể bà trôi về đến bến đồn Nam Nguyễn, diện mạo hồng hào như vẫn còn sống. Nhân dân địa phương và quân sỹ vô cùng thương tiếc vớt lên an táng tại khu đất cao trong đồn Nam Nguyễn, đặt tên là Gò Mả Dạ và lập miếu thờ để tưởng nhớ công lao của bà, Miếu đó gọi là Miếu Mèn (Miếu của Mẹ). Gò và miếu nằm ở khu vực từ chân núi Ba Vì đổ ra cửa sông Đáy, ở quãng giữa có cùng đồi gò trập trùng, cây cối um tùm. Trong tiếng Việt thời viễn cổ “Dạ” là tiếng tôn xưng người đàn bà già anh dũng, “Mèn” là tôn kính bậc anh thư ấy như bà mẹ chung của dân tộc.

Di tích Miếu Mèn thuộc thôn Nam An, xã Cam Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Xã Cam Thượng phía Bắc giáp xã Đông Quang, Tiên Phong, phía Tây giáp xã Thuỵ An, phía Đông giáp xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây.

Thời trước, di tích thuộc thôn Nam Nguyễn, tổng Cam Giá, huyện Minh Nghĩa, phủ Quảng Oai, trấn Sơn Tây. Ngày nay, di tích thuộc thôn Nam An, xã Cam Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

Miếu Mèn quy mô không lớn nhưng còn giữ được nhiều di vật quý giá như: kiệu bát cống, long ngai, bài vị, hương án, nghê gỗ, hoành phi, câu đối, sắc phong… biểu thị lòng thành kính của dân làng với Man Thiện Hoàng hậu, người mẹ Việt Nam anh hùng ở đầu thế kỷ I. Với những giá trị to lớn về khoa học, lịch sử và kiến trúc nghệ thuật, Miếu Mèn đã được Bộ VH-TT nay là Bộ VH,TT&DL xếp hạng là di tích lịch sử - văn hoá theo Quyết định số 1539/QĐ-UBND ngày 27/12/1990.

Đến thời Lý, do bị đại hạn, triều đình sai Cẩm Tĩnh Thiền Sư đến Miếu Mèn cầu đảo và rất linh ứng. Cảm ân đức của thần, vua Lý Anh Tông cho tu tạo lại toà Miếu cổ và ban sắc phong thần là: "Linh trinh phu nhân mẫu hậu vị đại vương thượng đẳng thần". Các triều đại sau này đều phong tặng để ca ngợi công đức của Nữ thần Man Hoàng Hậu. Người đời sau truy tôn là Đức Quốc Mẫu.

Theo Thần phả, di tích Miếu Mèn được nhân dân làng Nam Nguyễn xây dựng ngay sau khi an táng Man Hoàng Hậu trong gò Mả Dạ. Đến thời nhà Lý, vì bà có công ân phù, tạo mưa cứu hạn nên Miếu được nhà vua cho trùng tu, sửa chữa.

Từ đó đến nay, di tích đã được trùng tu, sửa chữa nhiều lần. Năm Thành Thái thứ 7 (năm 1895). Theo văn bia hiện còn, trong đợt trùng tu lớn này, sau khi công việc trùng tu hoàn tất, dân làng lại sửa sang các đồ tự khí để mang lại vẻ lộng lẫy, nghiêm trang cho toà miếu cổ.

Miếu Mèn được xây dựng trên gò đất cao giữa cánh đồng, nhìn theo hướng Nam trông ra sông Hồng. Miếu Mèn là một công trình kiến trúc hình chữ Đinh gồm Tiền tế và Hậu cung.

Man thiện là ai

Man thiện là ai

Man thiện là ai

Man thiện là ai

Man thiện là ai

Vật liệu dùng trong di tích là những vật liệu bền vững có mặt phổ biến trong các kiến trúc tôn giáo truyền thống ở nước ta, gạch xây tường, mái lợp ngói ta, toàn bộ khung nhà làm bằng gỗ lim. Quy hoạch mặt bằng gồm khoảng sân hẹp ở trước Tiền tế, qua nhà Tiền tế là Hậu cung.

Nhà Tiền tế gồm ba gian xây kiểu tường hồi bít đốc, phía trước xây thêm khoảng tường rộng hơn 2m, phần trên tường trang trí lồng đèn trụ biểu. Bốn bộ vì đỡ mái được làm thống nhất theo kiểu Thượng chồng rường giá chiêng hạ kẻ và bẩy hiên trên bốn hàng chân cột.

Nhà Tiền tế được xây cao 40cm so với mặt sân, lát gạch hình vuông màu đỏ nhạt, kích thước 20 x 20cm. Lòng nhà Tiến tế để trống tạo không gian thoáng đãng mỗi khi có việc làng. Sát tường hồi phải làm sàn gỗ cao 1m20 để đặt long ngai, đồ tế tự cho trợ thủ của Man Hoàng hậu.

Nhà Hậu cung gồm ba gian nhà dọc, nối liền với gian giữa của Tiền tế tạo thành hình chữ Đinh. Các bộ vì được làm theo kiểu thượng chồng rường giá chiêng hạ bẩy trên trên hai hàng cột chính. Cũng như ở Tiền tế, các bộ vì được bào trơn, bào soi tạo ra vẻ thanh thoát cho ngôi miếu cổ.

Trong nhà Hậu cung, hai gian ngoài đặt hương án, kiệu thờ, gian trong cùng làm hệ thống sàn gỗ cao 1m20 đặt khám thờ. Trong khám có long ngai bài vị của Man Hoàng hậu.

Mả Dạ (mộ của bà Man Thiện) nằm về phía Bắc cách Miếu khoảng 200m. Đây là một khu đất cao nằm giữa cánh đồng, giữa gò là ngôi mộ đất có kích thước lớn (3m x 3m x1m20).

Sau này trong quá trình canh tác, diện tích ngôi mộ cổ đã bị thu hẹp. Thực hiện Nghị quyết trung ương 5, khoá VIII của Ban chấp hành Trung ương Đảng với nội dung: “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, được sự quan tâm của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, UBND thành phố Hà Nội, ngày 18 tháng 7 năm 2010, UBND huyện Ba Vì đã khởi công công trình tu bổ, tôn tạo di tích Miếu Mèn và mở rộng khuôn viên di tích với quy mô khá lớn gồm các công trình: Tiền Bái, Đại bái, Hậu cung, Nghi môn, Tả - Hữu vu, tường bao xung quanh di tích, lăng mộ Man Hoàng hậu, đường bê tông dẫn vào di tích và từ di tích sang mộ.

Sự kiện này có nghĩa nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa có ý nghĩa giáo dục lịch sử vừa thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn với các bậc tiền nhân.

Hiện Miếu Mèn còn bảo lưu được một sưu tập di vật văn hoá lịch sử quý của nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau:
- Một bộ kiệu gỗ sơn son thếp vàng thế kỷ 19.
- Hai Long ngai gỗ chạm thế kỷ thứ 19.
- Một đôi Nghê gỗ thế kỷ 19.
- Một hương án gỗ thế kỷ 19, trang trí tứ linh, hổ phù, long mã...
- Một kiệu rước nước kích thước nhỏ thế kỷ 19.
- Một chuông đồng cao 50cm, đường kính đáy 27cm.
- Một choé sứ Trung Quốc thế kỷ 18.
- Một bức hoành phi "Thụ Phúc Giới" - Hưởng phúc lớn.
- Hai câu đối ca ngoại công lao, sự nghiệp của bà Man Thiện.
- 11 đạo sắc của hai triều Lê - Nguyễn phong thần cho bà Man Thiện. Thời Lê có các triều hiệu Cảnh Hưng thứ tư (1743), Chiêu Thống năm đầu (1787). Thời Nguyễn có sắc của vua Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân, Khải Định ban tặng...

Miếu Mèn và gò Mả Dạ là di tích về một nhân vật lịch sử lớn trong thời kỳ dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc ta. Trong quần thể di tích này, gò Mả Dạ gắn bó trực tiếp với nhân vật được thờ, Miếu là một công trình tưởng niệm vị anh hùng đã quên mình vì nước. Trong những giá trị hiện còn, cuộc đời và sự nghiệp lớn lao của bà Man Thiện đã tạo ra một lớp văn hoá lịch sử lâu đời bao chùm cả khu vực.

Man Hoàng hậu khi sinh thời là người tài sắc vẹn toàn, đảm đang việc nhà, việc nước. Đóng góp lớn lao nhất của bà mẹ anh hùng này là đã sinh, nuôi dưỡng và công hiến cho dân tộc hai vị anh hùng kiệt xuất nhất của lịch sử nước nhà là Hai bà Trưng. Không dừng lại ở đó, bà Man Thiện còn là một trong những nhân vật sáng chói nhất của lịch sử dân tộc, chính bà là người đầu tiên gây dựng và giữ vai trò quan trọng trong cuộc khởi nghĩa.

Cuộc khởi nghĩa có ý nghĩa vô cùng trọng đại, nó mở đầu cho giai đoạn đấu tranh giành độc lập của dân tộc ta, đó là sự thức tỉnh, nuôi dưỡng cho ý thức, tinh thần dân tộc trước sự xâm lăng và đồng hoá của kẻ thù. Bản anh hùng ca tuy ngắn ngủi nhưng Nữ anh hùng Trần Thị Đoan đã góp phần làm nên trang sử vẻ vang nhất của nước nhà. Bà là một trong những người đã tạo dựng lên chiều dài lịch sử yêu nước của dân tộc, là biểu tượng đầu tiên về người phụ nữ Việt Nam "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang".

Ngoài công lao đóng góp của nhân vật được thờ, hệ thống địa danh, truyền thuyết, thư tịch ghi chép về bà Man Thiện là nguồn tư liệu lịch sử góp phần tìm hiểu về quy mô, tính chất, phạm vi của cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.

Ngoài miếu Mèn, đình làng Nam An cũng thờ Man Hoàng hậu. Hiện tượng Man Hoàng Hậu có mặt tại đình và được tôn làm Thành hoàng làng đã khẳng định vị trí to lớn của vị thần đối với dân làng và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc ta. Trước đây, nhiều người cho rằng ngôi đình làng là nơi độc chiếm của những đàn ông, những nam thần, nên sự có mặt của bà Man Thiện trong tín ngưỡng Thành hoàng làng ở Nam An là cứ liệu quý cho việc tìm hiểu về lịch sử của ngôi đình, về văn hoá truyền thống ở nước ta.

Nằm trong vùng đất có bề dày lịch sử lâu đời, di tích Miếu Mèn đã góp mặt để tạo ra một trung tâm văn hoá di tích lâu đời của dân tộc. Làm thành một trọng điểm của tuyến tham quan du lịch phía Tây Thủ đô Hà Nội. Trong đó Miếu Mèn, Lăng Phùng Hưng, Ngô Quyền là những di tích lịch sử lớn: Chùa Mía, đình Chu Quyến, Tây Đằng là những di tích kiến trúc nghệ thuật nổi danh trong cả nước.

Toàn cảnh Miếu Man và Mả Dạ

Ths Nguyễn Thy Nga

Trở về đầu trang

0 Tổng số:

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Các tin khác

  • Lễ hội truyền thống Đình Chung, xã Giáp Lai
  • Đình Thủ Rồng xã Yên Lãng, thờ phụng Tản Viên Sơn Thánh
  • Đình Thạch Khoán, thờ phụng Tản Viên Sơn Thánh và tam vị Công chúa Hùng Vương
  • Huyện Tam Nông Phú Thọ, vùng đất linh thiêng thời Hùng Vương dựng nước
  • Đền Rừng Cấm - Đình Quang Húc: Đậm nét tín ngưỡng thờ phụng Hùng Vương
  • Đình Cổ Tiết, thờ phụng Ngũ vị Long vương thời vua Hùng vương thứ 5
  • Di tích lịch sử văn hóa quốc gia ở Phú Thọ có nguy cơ sụp đổ
  • Đình cả Cao Bang - Di tích lập nước Văn Lang
  • Đình Quế Lâm, thờ phụng tứ vị danh tướng Chính Lâm Đại vương cùng các con là Giao Sơn Đại vương, Cổ Sơn Đại vương, Úc Sơn Đại vương
  • Đình Hồ Mai, Đồng thịnh thờ phụng 5 vị Thành hoàng làng các triều đại
  • 12345...>>