Tuyết Giang Phu tử- Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà giáo dục, nhà hiền triết, nhà nho hết lòng trung quân ái quốc, một lòng vì sự nghiệp giáo dục và nền hòa bình của quốc gia. Ông cũng được biết đến như cố vấn cho cả 3 thế lực chính trị Trịnh- Nguyễn- Mạc, với tâm niệm giúp nhân dân thoát khỏi cảnh lầm than.Bạn đang xem: Ai được mệnh danh là trạng trình Từ gợi ý mở mang bờ cõi Năm 1545, nội chiến Nam Bắc triều đang trong giai đoạn ác liệt thì hàng tướng Dương Chấp Nhất đã đầu độc chủ tướng của mình là Nguyễn Kim, từ đó binh quyền rơi vào tay của con rể họ Nguyễn là Trịnh Kiểm, một vị tướng tài, tuy nhiên đa nghi. Khi đó, Nguyễn Kim có hai người con trai là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng. Cả hai tuy còn trẻ nhưng đã chứng minh được trí dũng và tài thao lược. Điều đó làm sao không khiến họ Trịnh băn khoăn lo lắng? Khung cảnh Lễ hội Đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tại Hải Phòng. Ảnh: TTXVN Vài tháng sau khi Nguyễn Kim bị sát hại, Nguyễn Uông cũng chết vì độc dược. Nguyễn Hoàng lo lắng, cho người thân tín ra Bắc tìm đến Trạng Trình nhờ cụ chỉ lối và đã được mách bảo kín đáo như sau: “Hoàng sơn nhất đái, khả dĩ dung thân”, tạm dịch “Một dải núi ngang có thể làm chốn dung thân được” (“Các triều đại Việt Nam”, Đỗ Đức Hùng- Quỳnh Cư, trang 307). Nguyễn Hoàng xin với chị của mình, là vợ Trịnh Kiểm, được vào trấn thủ ở miền Thuận Hóa, vốn là nơi rừng thiêng nước độc, đất đai cằn cỗi. Trịnh Kiểm cử Nguyễn Hoàng đi vào năm 1558. Từ đó, Nguyễn Hoàng mới có thể lập nên cơ nghiệp Đàng Trong.Bạn đang xem: Ai được mệnh danh là trạng trình Khi Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa ra lời căn dặn, người có tầm nhìn xa như cụ hẳn đã thấy được tài năng “đội trời đạp đất” của Nguyễn Hoàng, người mà lịch sử đã chứng minh, có thể biến vùng đất “cày lên sỏi đá” thành một vùng đất giàu mạnh, có thể sánh ngang với thực lực chúa Trịnh. Vì thế, nhiều nhà nghiên cứu sử học cho rằng Tuyết Giang phu tử đã thể hiện mong ước vươn xa ra đất bằng và biển rộng trong lời nhắn của mình. Bạn đang xem: Ai được mệnh danh là trạng trình Bạn đang xem: Ai ĐượC MệNh Danh Là TrạNg Trình Đến việc đứng về triều đại được lòng dân “Đại Việt Sử ký toàn thư” (trang 583) có chép: “Khi vua Lê Trung Tông mất, Trịnh Kiểm có ý muốn thay nhà Lê nhưng vì sợ dư luận nên cho người đến hỏi ý kiến của cụ Trạng. Khi nghe sứ giả trình bày, cụ có ý không bằng lòng nhưng không nói ra, chỉ đến xem hũ gạo một cách bâng quơ rồi nói: “Gạo năm nay xấu quá, chúng bay tìm gạo cũ mà gieo”, khi có vị sư đến chơi, cụ lại nói: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản”. Họ Trịnh hiểu ý, cho đón người cháu của người anh Lê Lợi là Lê Trừ về làm vua”. Một số ghi chép của lịch sử (“Sử ta- Chuyện xưa kể lại”, Nguyễn Huy Thắng, trang 99) về lời căn dặn thầm kín của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm dành cho Trịnh Kiểm, để rồi lịch sử Việt Nam đã phát triển theo một chiều hướng chưa từng thấy trong lịch sử phong kiến: Thời kỳ “nhị thống” mà về sau sử thường gọi là “vua Lê chúa Trịnh”. Ở đây, ta lại có thể tìm thấy một số điều đáng suy ngẫm về cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cụ là một trong những nho gia có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử Việt Nam và một nho gia chân chính phải mang trong mình tư tưởng “Tôi trung không thờ hai chúa”. Chẳng phải với cương vị là Trạng Nguyên của triều Mạc, cụ phải hết lòng phò tá nhà Mạc sao? Trên thực tế, ông vẫn hết lòng với nhà Mạc và sự nghiệp canh tân của vương triều. Khi còn đang tại thế, ông vẫn đóng góp nhiều bài tấu, sớ về việc canh tân vương triều để phù hợp lòng dân. Ngay cả khi họ Mạc thất thủ, ông vẫn đóng góp một kế nhỏ để duy trì họ Mạc được thêm vài đời nữa. Nếu đã như vậy, thì tại sao ông lại hiến kế kích thích lòng dân cho họ Trịnh, bằng cách khuyên Trịnh Kiểm phò tá vua Lê? Chẳng phải như vậy là ông đã làm trái với danh hiệu “Tuyết Giang phu tử” mà người đời truyền tặng, với những bài học trung quân ái quốc mà ông vẫn truyền dạy cho các học trò? Tuy nhiên, nếu đi sâu phân tích tình hình đất nước thời đó, sẽ thấy lòng yêu nước của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm khiến ông đặt lợi ích quốc gia lên trên lòng trung của bản thân. Giở lại những trang lịch sử dân tộc thời nhà Mạc, có thể thấy được sự khốn khó cùng cực của nhân dân và sự nguy nan của vận nước: Nội chiến Nam Bắc đã kéo dài hàng chục năm, Mạc triều tuy là “chính triều”, nhưng ngày càng không được lòng dân, còn Nam triều với chúa Trịnh đang được sự ủng hộ to lớn từ nhân dân. Họ coi Trịnh Kiểm như “Vị chúa của nghiệp Trung hưng” (“Sử ta- Chuyện xưa kể lại”, Nguyễn Huy Thắng, trang 70). Nếu ông thật sự coi trọng nhân dân, đất nước; thì phải tìm cách kết thúc chiến tranh sớm bằng cách đứng về triều đại được nhân dân ủng hộ. Và triều đình Lê- Trịnh hình thành từ gợi ý của ông đã thi hành những chính sách được lòng dân, giúp nước ta ổn định trong hơn 2 thế kỷ. Ở đây, ta lại thấy sự vĩ đại của Nguyễn Bỉnh Khiêm, khi ông đã dám vượt qua những quan niệm cũ của một nhà nho để thực sự đứng về phía nhân dân, về phía đất nước. Xem thêm: Định Nghĩa Hiệu Quả Là Gì ? Sự Khác Biệt Giữa Năng Suất Và Hiệu Quả? Chỉ điểm cho những người bảo vệ biên cương thầm lặng Trong khoảng thời gian này, nhà Mạc có thể coi là một tiểu quốc với những công lao đáng kể trong lịch sử Việt Nam. Họ là nguyên nhân chính khiến Chúa Trịnh không thể huy động toàn bộ sức lực của mình để tiêu diệt Chúa Nguyễn và khiến cho Trung Quốc gần như không thể tiến quân vào Việt Nam. Lịch sử vẫn ghi nhận Trịnh- Nguyễn phân tranh làm cho thế nước ta dần suy yếu, dân chúng lầm than, tạo điều kiện để các thế lực bên ngoài tìm cách can thiệp, mà đáng kể nhất là Trung Quốc. Như vậy, một lần nữa sử sách ghi nhận tài thao lược của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Phải chăng sau khi gợi ý để chúa Nguyễn vào nam lập nên cơ nghiệp ở Đàng Trong, thấy trước khả năng đất nước suy yếu do cuộc nội chiến Trịnh Nguyễn, nên cụ lại cố vấn để họ Mạc trở thành một lực lượng bảo vệ biên giới? Ta có thể thấy được những đóng góp của họ Mạc trong việc giữ gìn biên cương quốc gia trong lịch sử Việt Nam. Di tích Thành nhà Mạc hiện nay chính là một bằng chứng cho việc đó, chứng minh rằng nhà Mạc ở Cao Bằng đã đoàn kết được những dân tộc thiểu số để làm nguồn lực lâu dài cho vương triều, tổ chức được một lực lượng quân sự tương đối để bảo vệ vương triều của mình, và tổ chức được một nền giáo dục tạo nền tảng cho phát triển. Họ là những người bảo vệ biên cương thầm lặng. *** Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được lịch sử Việt Nam ca ngợi như một vị quân sư tài ba cho cả ba thế lực chính trị, một nhà văn hóa lớn có những đóng góp nhất định trong lịch sử văn học quốc âm Việt Nam và một nhà nho yêu chuộng hòa bình. Trên hết, là một nho sĩ đặc biệt với một quan niệm chính trị khác biệt ở thời đó: Không trung với bất kỳ một vị vua vị chúa nào, mà hết lòng vì nhân dân, vì đất nước. MAI TẤN THIỆN NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491-1585) hiệu là Bạch Vân am cư sĩ, thường được tôn xưng là Tuyết Giang phu tử. Ông nổi tiếng thông minh, hiếu học từ nhỏ và bái sư Bảng nhãn Lương Đắc Bằng nổi danh giới sĩ phu đương thời. Xem thêm: Đap An Chinh Thuc Cua Bo Giao Duc 2021 ? Please Wait Trạng Trình còn nổi tiếng với khả năng tiên tri, người đời còn lưu truyền nhiều tiên đoán được cho là của ông và gọi là Sấm trạng Trình. Ông còn được coi là một trong những người đầu tiên trong lịch sử nước ta nhận thức được tầm quan trọng của việc gìn giữ chủ quyền biển Đông. Trong bàiCự Ngao Đới Sơn(Bạch Vân am thi tập), ông viết:Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/Đất Việt muôn năm vững trị bình/Chí những phù nguy xin gắng sức/Cõi bờ xưa cũ tổ tiên mình.
Bộ máy tổ chứcThành phố Hải PhòngThông tin kinh tế, xã hộiThông Tin Chỉ Đạo, Điều HànhChiến Lược, Định Hướng, Kế Hoạch Phát triểnQuy HoạchCác Dự Án Công TrìnhGiới Thiệu Dự ÁnHỗ Trợ Doanh NghiệpHệ Thống Văn BảnKiểm Soát Thủ Tục Hành ChínhThông tin báo chí Đại hội XVI Đảng bộ thành phốa> Bạn đang xem: Ai được mệnh danh là trạng trình Danh sách người phát ngônLịch tiếp dân Xin ý kiến nhân dân về dự thảo văn bản QPPL Xem thêm: 1 Lít Xăng Đi Được Bao Nhiêu Km Xe Máy, 1 Lít Xăng Ô Tô Đi Được Bao Nhiêu Km Tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chínhCông bố thông tin của doanh nghiệp nhà nướcQua những chi tiết nêu trên, đều thống nhất nói lên một sự thật về uy tín và ảnh hưởng sâu sắc, rộng rãi của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với nhân dân ta. Uy tín ấy hoàn toàn được xây dựng trên cơ sở đức độ tuyệt vời, tài năng hiếm có và đóng góp đáng kể của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với nền văn hoá nước nhà. Trong sự nghiệp cách mạng đổi mới, ngày nay Đảng ta, nhân dân ta rất trân trọng những di sản quý báu của dân tộc. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta càng phải trân trọng kế thừa những tài năng, công đóng góp của ông.Về sự nghiệp giáo dục, Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất thân trong một gia đình nhà giáo. Cả hai bố mẹ đều theo nghề dạy học và đều nổi tiếng. Bản thân ông suốt đời gắn bó với nghề này, kể cả lúc làm quan tại triều, ông vẫn cùng Trạng nguyên Nguyễn Thiến kiêm chức kinh diên giảng quan cho thái tử. Trường học của ông thu hút học sinh khắp nơi. Am Bạch Vân thực sự trở thành một trung tâm đào tạo của cả nước lúc ấy. Học trò của ông có đến hàng ngàn, nhiều người thành đạt như: Phùng Khắc Hoan, Lương Hữu Khánh, Đinh Thời Trung, Nguyễn Dữ, Nguyễn Quyện... Từ vua chúa, sĩ phu, học trò và cả nhân dân khắp nước đều kính trọng ông không những về tài năng, học vấn mà còn về đức độ, khí tiết. Đó là tấm lòng yêu nước, thương đời, căm ghét bọn áp bức bóc lột, bọn gây chiến tranh để tranh giành quyền lợi. Đó là con người thích sống thanh cao, coi thường danh lợi và trung thực. Đó còn là con người thích sống thanh cao, coi thường danh lợi và trung thực, khiêm tốn, giản dị.Về triết học, Nguyễn Bỉnh Khiêm nắm khá vững ba hệ thống tư tưởng cấu thành ý thức hệ phong kiến Việt Nam: Nho giáo, phật giáo, lão giáo. Nhưng ở ông, tư tưởng nho giáo sâu sắc hơn cả.Về sự nghiệp văn học, Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đạt nhiều thành tích nhất và có cống hiến cao nhất đối với nền văn học nước ta thế kỷ 16. Chỉ riêng về số lượng bài viết cũng không tác giả đương thời nào sánh kịp. Theo bài tựa “Bạch Vân Am thi tập”, ông chi biết đã sáng tác được tất cả một nghìn bài thư chữ hán. Còn về thư Nôm, chủ yếu sáng tác sau khi ông về hưu, lúc ông đã 52 tuổi. Nhưng khi 40 tuổi, tác giả nói mình đã sáng tác có đến ngàn bài. Điều này hoàn toàn có thể tin, bởi tác giả có năng khiếu thơ từ nhỏ và lại “mắc một bệnh này, chừa chẳng khỏi, đã thôi chén rượu lại câu thơ”. Đúng như nhận xét của Vũ Khâm Lân, Nguyễn Bỉnh Khiêm “không ngày nào quên đời, lòng ưu thời mẫn tục vẫn lộ trong thơ”. Nỗi lo đời của ông chính là do cảnh loạn lạc liên miên, làm dân khổ cực. Ông nhìn rõ hậu quả tai hại chiến tranh, người dân sa vào cảnh “nhà cửa bị bẻ làm củi, trâu bò bị giết làm thịt, tài sản bị cướp đoạt, vợ con bị hiếp tróc”. Chủ đề của chiến tranh trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm của ông, chưng tỏ đó là vấn đề làm ông trăn trở nhất. Ông quan niệm mục đích của chiến tranh “phải lấy nhân nghĩa trừ bàn bạo, cứu dân cốt phải mở rộng việc chiêu hàng”. Ông thương xót, lo lắng khi thấy dân chúng bị giặc chiếm đóng sống trong cảnh khốn đốn do “hình ngục bừa bãi, trâu bò bị giết hại, lại gặp phải nạn đói kém, cơ cực, trôi dạt khắp nơi”. Khái niệm dân trong thơ văn ông là “dân mọn”, là “dân vô tội”, là “dân lưu tán”, là “người chết đói bên đường”. Rõ ràng người dân ở đây, chính là người nông dân nghèo, thành phần đông đảo nhất và cũng là đối tượng gần gũi quen thuộc của tác giả.Do thương đời, thương dân nên Nguyễn Bỉnh Khiêm có thái độ khinh ghét rõ ràng những kẻ gây tai hoạ, tang tóc, ức hiếp dân, sống trên xương máu dân làng. Đó là những con cá lớn cậy sức nuốt cá nhỏ, là những con chuột xù ỷ thế phá hoại mùa màng. Ông cảnh cáo nghiêm khắc con cá lớn “lúc trước ăn quá tham, nay sao co lại như cá vẹt đầu”; con chuột xù “đã làm mát lòng thiên hạ giết, thây phơi nơi chợ búa, bị diều quạ rỉa xác”...Về thân thế, cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta thấy từ nhỏ ông rất tài học, thông minh, đĩnh ngộ, thuộc nhiều thơ ca quốc âm do mẹ dạy truyền khẩu. Lớn lên lại càng học rộng tài cao, tiếng tăm vang dội, như thấy các tập đoàn phong kiến lúc ấy tranh giành quyền lợi gây nhiều tang tóc cho nhân dân, ông không chịu ra làm quan, chỉ ở nhà dạy học. Sau khi Mạc Đăng Doanh lên ngôi vua, thi hành một số chính lệnh tốt, ông mới quyết ra thi khoa thi Hương năm Giáp Ngọ (1534) và đã đỗ đầu. Khoa thi hội và thi đình năm Ất Mùi (1535) ông lại tiếp đỗ đầu. Đặc biệt cả 4 môn thi hội và bài đình đối của ông đều đạt điểm cao nhất, giành học vị trạng nguyên. Đây là hiện tượng hiếm trong lịch sử thi cử Hán học ở nước ta. Lôi kéo được Nguyễn Bỉnh Khiêm ra phục vụ triều đình mình, Mạc Đăng Doanh rất mừng, bổ nhiệm ông chức Đông các hiệu tư, sau lại cử giữ chức Tả thị lang bộ hình, rồi chuyển qua Bộ Lại với chức Tả thị lang kiêm Đông các Đại học sĩ. Ông giữ chức này cho đến khi dâng sớ xin chém 18 tên quyền thần, không được vua xét, bèn xin về quê, mở Am Bạch Vân, dựng Quán Trung Tân, tuyên truyền và đào tạo nhân tài cho đất nước...Nhân dân ta, Đảng ta đã và đang trân trọng những di sản văn hoá quý báu của Nguyễn Bỉnh Khiêm - nhà văn hoá tiêu biểu của dân tộc ta ở thế kỷ 16./. |