Kháng sinh được áp dụng trong điều trị và dự phòng nhiễm khuẩn, không chỉ ở những trường hợp nhiễm khuẩn thông thường. Kháng sinh còn được áp dụng trong phẫu thuật, ghép tạng, trên bệnh nhân đang áp dụng hóa trị liệu, bệnh nhân mắc bệnh thận mạn, bệnh đái tháo đường,… Thông qua việc cải thiện kết quả điều trị nhiễm khuẩn, kháng sinh đã nâng tuổi thọ bình quân lên đáng kể. Tại Mỹ, năm 1920 tuổi thọ bình quân của người dân Mỹ là 56,4; ở thời điểm hiện tại, con số đó là gần 80. Không chỉ ở Mỹ, việc tăng tuổi thọ này cũng được thấy trên tất cả các quốc gia trên thế giới. Tại các nước chưa phát triển và đang phát triển, kháng sinh giúp giảm tỉ lệ tử vong do nhiễm khuẩn từ thực phẩm hay do điều kiện kinh tế kém. Đề kháng kháng sinh:(1) Đề kháng kháng sinh (antibiotic resistance) là hiện tượng các vi khuẩn xuất hiện khả năng chống chịu lại các tác động của kháng sinh. Chỉ có vi khuẩn, mới xảy ra hiện tượng kháng kháng sinh. Con người và động vật không xuất hiện hiện tượng này. Lịch sử hình thành và giá trị của của kháng sinh và sự xuất hiện đề kháng kháng sinh: Việc kiểm soát và điều trị nhiễm khuẩn đã từ lâu được áp dụng trong các nền văn minh Ai Cập, Hy Lạp và Trung Hoa. Nhưng lịch sử kháng sinh trong y học hiện đại chỉ mới bắt đầu từ năm 1928, khi lần đầu tiên penicillin được phát hiện bởi Alexander Fleming. Kể từ đó, kháng sinh dần biến đổi nền y học hiện đại và cứu hàng triệu sinh mạng.
Sự hình thành đề kháng:(2) Sự xuất hiện các chủng vi khuẩn đề kháng kháng sinh là diễn tiến tự nhiên. Tuy vậy, dưới tác động của con người, tốc độ xuất hiện các chủng vi khuẩn này diễn ra rất nhanh. Bộ gene của vi khuẩn giúp quy định cấu tạo của vi khuẩn đó. Khi kháng sinh tác động lên vi khuẩn khiến chúng bị tiêu diệt hay ức chế, một số vi khuẩn trong quần thể sở hữu bộ gene đột biến có khả năng đề kháng lại các tác động ấy của kháng sinh. Dưới tác động của kháng sinh, số vi khuẩn nhạy cảm với kháng sinh sẽ bị tiêu diệt và bất hoạt. Còn những vi khuẩn có gene đột biến sẽ sống sót, sinh sản và di truyền lại gene đột biến kháng kháng sinh ấy cho thế hệ vi khuẩn sau. Ở vi sinh vật, các nhà khoa học quan sát thấy ngoài khả năng di truyền gene theo chiều dọc (qua sinh sản), vi khuẩn còn có khả năng di truyền gene của chúng theo chiều ngang. Khả năng di truyền ngang có nghĩa là một vi khuẩn có thể cho vi khuẩn kế cạnh nhận bộ gene của nó mà không cần qua sinh sản, đồng nghĩa với việc di truyền các gene đột biến kháng kháng sinh. Với tốc độ sinh sản nhanh, và khả năng di truyền ngang; quần thể vi khuẩn có thể xuất hiện đột biến kháng thuốc mau chóng. Các nghiên cứu chỉ ra có sự liên hệ trực tiếp giữa việc lạm dụng kháng sinh với tốc độ xuất hiện các đột biến kháng các thuốc ấy. Các hình thức thúc đẩy sự hình thành đề kháng kháng sinh:(2) Chỉ định thuốc không hợp lý: Các nghiên cứu chỉ ra có đến 30-50% trường hợp chỉ định sai hoặc dùng liệu trình kháng sinh không đúng. Sử dụng không hợp kháng sinh trong trị liệu ngoài việc đẩy nhanh việc xuất hiện đột biến kháng thuốc, nó còn gây ra các tác dụng phụ trên cơ thể người dùng. Lạm dụng kháng sinh trong nông nghiệp: 80% lượng kháng sinh được sản xuất tại Mỹ được sử dụng trong ngành nông nghiệp, với mục đích kích thích tăng trưởng và ngừa bệnh dịch cho gia súc gia cầm. Sử dụng kháng sinh giúp tăng sức khỏe và năng suất, chất lượng của vật nuôi. Khi con người tiêu thụ thực phẩm, các kháng sinh còn tồn dư trong thực phẩm sẽ đi vào cơ thể người tiêu thụ. 90% lượng kháng sinh dùng cho vật nuôi được thải ra môi trường qua phân và nước tiểu. Lượng kháng sinh ấy sau đó sẽ tác động lên vi khuẩn ở ngoài môi trường. Kháng sinh ngoài việc dùng cho con người và động vật, nó còn áp dụng trong việc tẩy uế, và hậu quả cũng tương tự khi lượng kháng sinh này bị thải ra ngoài. Dù phần lớn lượng kháng sinh được sản xuất và tiêu dùng trong ngành nông nghiệp, nhưng mọi người lại ít biết đến yếu tố này ảnh hưởng đến khả năng thúc đẩy đột biến kháng kháng sinh. Ít xuất hiện các kháng sinh mới:[2] Tốc độ nghiên cứu tìm ra các hoạt chất kháng sinh mới hiện đang chậm lại do các rào cản về kinh tế và kiểm duyệt. Về mặt kinh tế, ngành công nghiệp sản xuất kháng sinh hiện tại không mang lại nhiều lợi nhận cho các công ty dược. Vì lý do đó mà các công ty này hạn chế đầu tư vào công nghệ tìm kháng sinh mới. Kể cả khi dòng kháng sinh mới được đưa vào sử dụng, các bác sĩ điều trị cũng rất hạn chế việc áp dụng các kháng sinh này do quan ngại việc áp dụng sẽ sớm gây tình trạng kháng kháng sinh, và do thiếu các kinh nghiệm lâm sàng đối với sản phẩm mới nên hiếm khi các kháng sinh này được sử dụng. Việc xuất hiện đột biến kháng thuốc mới là việc gần như không thể tránh khỏi. Hạn chế và dự phòng kháng kháng sinh:(1) Cá nhân: Để ngăn ngừa sự lan truyền các dòng vi khuẩn kháng thuốc, mỗi cá nhân có thể:
Nhân viên y tế: Để phòng tránh sự lan truyền các dòng vi khuẩn kháng thuốc, nhân viên y tế cần:
Trong lĩnh vực nông nghiệp: Để phòng tránh sự lan truyền các dòng vi khuẩn kháng thuốc, nhà nông cần:
Tác động của tình trạng kháng kháng sinh trên thế giới: Mặc dù một số kháng sinh mới đang từng bước được phát triển, không có kháng sinh mới nào có hiệu quả chống lại các chủng vi khuẩn đề kháng kháng sinh nguy hiểm nhất. Việc giao thương và di chuyển giữa các quốc gia ngày nay khá dễ dàng và thường xuyên, vấn đề đề kháng kháng sinh giờ đã là vấn đề cấp thế giới, đòi hỏi sự quan tâm của nhiều quốc gia và sự chung tay của nhiều nhóm ngành. Khi nhiễm phải các tác nhân vi khuẩn đề kháng hầu hết kháng sinh thế hệ đầu, việc dùng tới các kháng sinh thế hệ mới là bắt buộc. Đề kháng kháng sinh làm tăng thời gian nằm viện, chi phí chăm sóc y tế, và trở thành gánh nặng cho kinh tế gia đình và xã hội. Sự kháng kháng sinh đang là mối đe dọa cho nền y học hiện đại. Các thủ thuật như ghép tạng, hóa trị, phẫu thuật sẽ rất nguy hiểm khi tiến hành nếu không có kháng sinh hiệu quả để phòng ngừa và điều trị nhiễm khuẩn. |