1. Chi phí trực tiếp là gì? Chi phí cơ bản hay chi phí trực tiếp (prime cost or direct cost) là tổng của chi phí nguyên liệu và chi phí lao động trực tiếp phát sinh từ việc sản xuất ra hàng hoá hoặc dịch vụ. Chi phí cơ bản thường biến đổi tỷ lệ thuận với sản lượng. (Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân) 2. Phân biệt chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp Hầu hết các ước tính chi phí được chia thành chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Chi phí trực tiếp có thể trực tiếp quy cho đối tượng và khả thi về mặt tài chính thực hiện việc này. Trong xây dựng, chi phí vật liệu, lao động, thiết bị, vv, và tất cả các chi phí liên quan trực tiếp các đối tượng là chi phí trực tiếp. Trong sản xuất hoặc các ngành công nghiệp phi xây dựng khác, chi phí hoạt động được gán trực tiếp cho một sản phẩm hoặc quy trình cụ thể là chi phí trực tiếp. Chi phí trực tiếp là chi phí gắn liền với hoạt động hoặc dịch vụ có lợi cho các dự án cụ thể, ví dụ tiền lương cho nhân viên dự án và tài liệu cần thiết cho dự án đó. Bởi vì các hoạt động này có dễ dàng xác định được liên quan đến dự án nào, chi phí của chúng thường được tính cho các dự án trên cơ sở từng mặt hàng. Chi phí gián tiếp là những chi phí không nhất thiết, không trực tiếp quy cho một đối tượng cụ thể. Nó sẽ không khả thi về mặt tài chính để làm như vậy. Chi phí gián tiếp thường được phân bổ cho một đối tượng trên một số cơ sở. Trong xây dựng, tất cả các chi phí được yêu cầu để hoàn thành việc cài đặt, nhưng không trực tiếp quy cho đối tượng là chi phí gián tiếp, chẳng hạn như chi phí chung. Trong sản xuất, chi phí không thể chuyển nhượng trực tiếp cho sản phẩm hoặc quy trình cuối cùng là chi phí gián tiếp. Ví dụ: chi phí cho quản lý, bảo hiểm, thuế hoặc bảo trì. Chi phí gián tiếp là những chi phí cho các hoạt động hoặc dịch vụ có lợi cho nhiều hơn một dự án. Lợi ích chính xác của chúng đối với một dự án cụ thể thường khó hoặc không thể theo dõi được. Ví dụ, có thể khó xác định chính xác vai trò của giám đốc một tổ chức có lợi cho một dự án cụ thể như thế nào. Chi phí gián tiếp không thay đổi đáng kể khi khối lượng sản xuất thay đổi , và do đó đôi khi chúng có thể được coi là chi phí cố định. **Nhằm hỗ trợ thêm cho các bạn các kiến thức bổ ích, eTop trích dẫn nguồn bài viết từ Wikipedia
Qua thực tiễn, hệ thống phương pháp xác định chi phí sản xuất sản phẩm truyền thông đã bộc lộ một số hạn chế, gây ảnh hưởng đến quyết định của nhà quản trị trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Những hạn chế đó là việc lựa chọn đối tượng tập hợp chi phí và kỹ thuật phân bổ chi phí gián tiếp. Về việc lựa chọn đối tượng tập hợp chi phí, theo các phương pháp truyền thống đối tượng tập hợp chi phí chủ yếu là các đơn đặt hàng (hệ thống xác định chi phí sản xuất theo công việc), hoặc theo phân xưởng nơi sản xuât (hệ thống xác định chi phí sản xuất theo quá trình sản xuất). Với đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, chỉ mới quan tâm đến việc hình tính giá thành sản phẩm, mà không chỉ ra mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận chức năng khác nhau. Những vấn đề như chi phí gia tăng ở nguồn nào, chi phí nào giữ vai trò trọng yếu đối với sản phẩm. Thực tế cho thấy, chi phí phát sinh ở nhiều hoạt động khác trong quá trình sản xuất, nhưng lại tập hợp chung, sau đó phân bổ theo một tiêu thức thì không chính xác cho các đối tượng chịu chi phí. Về mặt kỹ thuật phân bổ chi phí gián tiếp, các phương pháp truyền thống thường chỉ chọn mộ tiêu thức để phân bổ chi phí sản xuất chung (chi phí gián tiếp). Nhưng trong thực tế, chi phí sản xuất chung bao gồm nhiều nội dung khác nhau, mỗi nội dung phát sinh có đặc điểm khác nhau. Do vậy, việc tính giá thành sản phẩm thường phản ánh không chính xác, ảnh hướng đến quyết định của quản trị doanh nghiệp, có thể định góa bán cao hay thấp so với giá thành sản phẩm sản xuất. Để khắc phục những hạn chế đó, các nhà kinh tế nghiên cứu và ứng dụng phương pháp tính giá thành sản phẩm mới, thực chất là phương pháp phân bổ chi phí sản xuất chung mới - phương pháp tính giá thành dựa trên cơ sở hoạt động ( Activity - Based Costing-ABC). Xuất phát từ ý tưởng của các nhà quản trị từ những năm cuối thếkỷ 20, phương pháp ABC vhir là kỹ thuật tính giá thành sản phẩm, dịch bụ bằng cách áp dụng nhiều tiêu thức để phân bổ chi phí sản xuất ching để đảm bảo chính xác hơn. Phương pháp ABC còn được sử dụng để đo lường hiệu quả hoạt động của quá trình kinh doanh. Số liệu của phương pháp ABC giúp các nhà quản trị nhìn rõ hơn mối quan hệ giữa thời gian, chất lượng, công suất nhà xưởng, sự linh hoạt của các nhà quản trị đối với những chi phí phát sinh. Phương pháp ABC ngày nay đã gắn liền với triết lý mới trong quản trị là quản trị dựa trên hoạt động (Activity based Management- ABM). Quản trị dựa trên hoạt động là phương pháp quan trọng nhất để dành chiến thắng trong cạnh tranh. Điểm nổi bật của phương pháp ABC là nhận mạnh các hoạt động như là những đối tượng tập hợp chi phí chủ yếu. Chi phí các hoạt động này sau đó sẽ được phân bổ chi những đối tượng tính giá thành theo số lượng các hoạt động mà đối tượng này sử dụng. Thông thường chi phí sản xuất chung chứa đựng nhiều hoạt động (nguồn tạo chi phí). Hệ thống tính giá thành dựa trên cơ sở hoạt động có thể là một phần của hệ thống tính giá theo công việc hay tính giá thành theo quá trình sản xuất. Hệ thống này không thay thế hệ thống tính giá thành truyền thống, mà nhằm bổ sung khae năng xử lý và cung cấp thông tin trong việc ra quyết định ngắn hạn và dài hạn của doanh nghiệp. Nội dung phương pháp ABC:Khác với mô hình truyền thống, mô hình ABC tập hợp toàn bộ chi phí gián tiếp trong quá trình sản xuất vào từng hoạt động (mỗi hoạt động là tập hợp những chi phí gián tiếp cps cùng nguồn gốc, bản chất tương đương). Từ đó phân bổ chi phí theo hoạt động này vào từng sản phẩm, dịch vụ theo các tiêu thức thích hợp. Khoản chi phí gián tiếp này được phân bổ vào giá thành sản xuất cùng với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp Các bước thực hiện mô hình ABC:Bước 1: Nhận diện các chi phí trực tiếpChi phí trực tiếp trong các đơn vị sản xuất thường bao gồm chi phí vật liệu, nhân công của công nhân trực tiếp, trong mỗi giờ đối tượng chịu chi phí các khoản chi phí này thường dễ nhận diện và tập hợp thẳng vào đối tượng chịu chi phí để tính giá thành sản xuất sản phẩm. Nước 2: Nhận diện các hoạt động.Nhận diện các hoạt động taoh ra chu phí gián tiếp là vấn đề cơ bản của phương pháp ABC. Theo phương pháp này, mối hoạt động thường bao gồm các khoản chi phí có cùng nguồn gốc phát sinh (cost driver). Do vậy phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh và quy trình công nghệ của mỗi doanh nghiệp có các hoạt động tạo ra chi phí gián tiếp khác nhau. Các hoạt động đó thường xuất phát từ khâu đầu tiên của quá trình sabr xuất, vận hành máy, kiểm tra sản phẩm và nghiệm thu...Do vậy mỗi một hoạt động cần tập hợp chi phí riêng, sau đó chọn tiêu thức khoa học phân bổ chi phí vào các đối tượng tính giá thành. Bước 3: CHọn tiêu thức phân bổ chi phí cho các hoạt động.Sau khi chi phí gián tiếp được tập hợp cho từng hoạt động, sẽ tiến hảnh phân bổ cho từng đối tượng tính giá theo các tiêu thức khoa học. Do vậy, cần chọn tiêu thức đảm bảo tính đại diện của chi phí, tiêu thức dễ tính toán, phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực của kế toán Việt Nam. Tiêu thức phân bổ sẽ tác động tới độ chính xác khi chọn tiêu thức phân bổ, các chuyên gia kế toán quản trị thường tiến hyanhf các cuộc điều tra, phỏng vấn trực tiếp các nhân viên phân xưởng có liên quan đến các khoản chi phí của từng hoạt động. Bước 4:Dựa trên chi phí của từng nhóm hoạt động, kế toán quản trị chọn các tiêu thức khia học phân bổ cho từng sản phẩm, dịch vụ. Nếu hoạt động liên quan đến một loại sản phẩm thì kế toán kết chuyển toàn bộ chi phí đó cho đối tượng tính giá thành. Nếu hoạt động liên quan tới 2 loại sản phẩm trở lên thì phải tính toán hệ số phân bổ, sau đó xác định mức phân bppr chi phí của từng hoạt động cho từng loại sản phẩm cụ thể. Để nghiện cứu bản chất của từng yếu tố chi phí trong mỗi hoạt động kế toán quản trị cũng dựa vào các trung tâm chi phí.
Bài tiếp theo: Báo cáo sản xuất |