Psychoanalytic là gì

Phân tâm học là một nhánh lớn trong tâm lý học đã để lại tiếng vang lớn cho nền tâm lý thời bấy giờ. Tuy nhiên, học thuyết này cũng gặp không ít sự phản bác mạnh mẽ và những chỉ trích nặng nhẹ từ những nhà tâm lý học theo trường phái khác.Bạn đang xem: Psychoanalysis là gì

Psychoanalytic là gì

Phân tâm học và Sigmund Freud

Phân tâm học (Psychoanalysis) là phương pháp trị liệu có nguồn gốc từ công trình và lý thuyết của Sigmund Freud .

Bạn đang xem: Psychoanalysis là gì

Giả định cơ bản của phân tâm học là tất cả mọi người đều sở hữu những suy nghĩ, cảm xúc, mong muốn và ký ức vô thức.

Mục đích của liệu pháp phân tâm là giải phóng những cảm xúc và trải nghiệm bị kìm nén, tức là làm cho người vô thức có ý thức. Chỉ có trải nghiệm về cathartic (tức là chữa bệnh) thì người đó mới có thể được giúp đỡ và “chữa khỏi”.

Những vấn đề cần tìm hiểu khi khám phá phân tâm học bao gồm:

Cơ chế phòng vệ

Tâm lý học nhập môn cho người mới

Sigmund Freud là ai?

Psychoanalytic là gì


Sigmund Freud

Sigmund Freud lớn lên ở Vienna, nơi ông theo học trường y và dành phần lớn sự nghiệp chuyên môn của mình. Lúc đầu, ông bị cuốn hút vào thần kinh học, nhưng sau đó sự quan tâm của ông sớm chuyển sang tâm lý học và liệu pháp. Để đánh giá cao tầm ảnh hưởng của Freud, hãy nhớ đến tất cả các phim hoạt hình của New Yorker với hình ảnh: Bệnh nhân nằm trên ghế dài và bác sĩ trị liệu – với bộ râu và điếu xì gà được cắt tỉa gọn gàng – ngồi lắng nghe với vẻ mặt cau có. Bộ râu và điếu xì gà (và vẻ mặt cau có) là của Freud. Ông cũng phát minh ra liệu pháp đi văng và thuật ngữ “phân tâm học” vào năm 1896. Freud lúc đó đã 40. Cha của ông vừa qua đời, và Freud đã trải qua một loạt những giấc mơ đáng sợ. Sự phân tích của ông về những giấc mơ đó đã dẫn đến việc viết kiệt tác đầu tiên của ông, The Interpretation of Dreams (1900), trong đó ông bắt đầu phát triển ý tưởng của mình về tâm trí vô thức.

Ngày nay, một số bác sĩ tâm thần tự cho mình là Freud, và hầu hết chúng ta không phải là chuyên gia về Freud. Nhưng nhiều người trong chúng ta đều sử dụng những khái niệm của ông như: Cơ chế phòng vệ (phủ nhận, đàn áp hoặc phóng chiếu), phức cảm Oedipus, niềm vui nguyên tắc, và tất nhiên cả Ego, Id và Super Ego.

Các giả thuyết quan trọng trong Phân tâm học của Sigmund Freud

Các nhà tâm lý học phân tâm học xem các vấn đề tâm lý bắt nguồn từ tâm trí vô thức.Các triệu chứng biểu hiện là do các rối loạn tiềm ẩn (ẩn) gây ra.Các nguyên nhân điển hình bao gồm các vấn đề chưa được giải quyết trong quá trình phát triển hoặc chấn thương bị kìm nén.Freud tin rằng chúng ta có thể được chữa lành bằng việc biến những vô thức trong tâm trí thành có ý thức. Để từ đó bản thân cái nhìn sâu sắc hơn và tự thoát khỏi những ức chế.Điều trị tập trung vào việc đưa xung đột bị kìm nén trở thành ý thức, nơi thân chủ có thể giải quyết nó.

Tham khảo: Tâm lý học tội phạm

Phân tích giấc mơ là cách thâm nhập vô thức

Trong phân tâm học, Freud sẽ để một bệnh nhân nằm trên một chiếc ghế dài và thư giãn, và ông sẽ ngồi sau lưng họ ghi chép trong khi họ kể cho ông nghe về những giấc mơ và ký ức thời thơ ấu của họ.

Psychoanalytic là gì


Mô tả trị liệu phân tâm học

Do bản chất của các cơ chế phòng vệ và không thể tiếp cận hay xác định hoạt động trong vô thức, phân tâm học là một quá trình tham vấn kéo dài thường bao gồm 2 đến 5 buổi mỗi tuần trong vài năm.

Cách tiếp cận này giả định rằng việc giảm các triệu chứng đơn thuần là tương đối nhỏ. Vì nếu mâu thuẫn cơ bản không được giải quyết, các triệu chứng rối loạn thần kinh nhiều hơn sẽ đơn giản được thay thế.

Nhà phân tích thường là một người sẵn sàng lắng nghe và tiết lộ rất ít về bản thân. Mục đích là để khách hàng có thể thoải mái khi giao tiếp, không để mối quan hệ can thiệp đến vô thức của họ.

Theo Freud, phân tích giấc mơ là “con đường hoàng gia dẫn đến vô thức” Ông cho rằng tâm trí tỉnh táo giống như một cái máy kiểm duyệt, nhưng nó kém cảnh giác hơn khi chúng ta đang ngủ.

Kết quả là, những ý tưởng bị kìm nén xuất hiện – mặc dù những gì chúng ta nhớ có thể đã bị thay đổi trong quá trình mơ.

Nhà phân tích tâm lý sử dụng các kỹ thuật khác nhau để khuyến khích thân chủ phát triển những hiểu biết sâu sắc về hành vi của họ và ý nghĩa của các triệu chứng. Bao gồm biểu tượng mực, mô hình, liên kết tự do, diễn giải (phân tích giấc mơ), phân tích phản kháng và phân tích chuyển giao.

Tìm hiểu: Tâm lý học hành vi và ứng dụng trong cuộc sống

Ứng dụng của phân tâm học

Phân tâm học (cùng với tư vấn nhân văn ở Rogerian) là một ví dụ về một liệu pháp toàn cầu (Comer, 1995, trang 143) với mục đích giúp thân chủ mang lại sự thay đổi lớn trong toàn bộ quan điểm của họ về cuộc sống.

Điều này dựa trên giả định rằng quan điểm không thích hợp ở hiện tại gắn liền với các yếu tố tính cách sâu xa. Trong khi những liệu pháp khác, ví dụ như liệu pháp hành vi lại tiếp cận theo hướng xác định vấn đề và đưa ra phán đoán.

Rối loạn lo âu như ám ảnh sợ hãi, cơn hoảng sợ, rối loạn ám ảnh cưỡng chế và rối loạn căng thẳng sau chấn thương là những lĩnh vực rõ ràng mà phân tâm học có thể phân tích.

Mục đích là để hỗ trợ thân chủ đối mặt với những xung động của chính họ. Hoặc nhận ra nguồn gốc của sự lo lắng hiện tại là do những ký ức thơ ấu đang được sống lại ở tuổi trưởng thành.

Trầm cảm có thể được điều trị bằng phương pháp phân tâm học ở một mức độ nào đó. Các nhà phân tâm học liên hệ chứng trầm cảm trở lại với sự mất mát mà mọi đứa trẻ trải qua khi nhận ra sự xa cách của chúng ta với cha mẹ ngay từ khi còn nhỏ. Không thể giải quyết vấn đề này có thể khiến người đó dễ bị trầm cảm hoặc các giai đoạn trầm cảm trong cuộc sống sau này.

Sau đó, việc điều trị bao gồm việc khuyến khích thân chủ nhớ lại trải nghiệm ban đầu đó và gỡ rối những vấn đề đã hình thành xung quanh nó. Đặc biệt khi làm việc với những khách hàng bị trầm cảm do nhu cầu phụ thuộc vào người khác quá lớn. Mục đích của trị liệu là để thân chủ trở nên ít phụ thuộc hơn và phát triển một cách hiểu có chức năng hơn và chấp nhận mất mát / từ chối / thay đổi trong cuộc sống của họ.

Shapiro và Emde (1991) báo cáo rằng các liệu pháp phân tâm học chỉ đôi khi thành công. Một lý do có thể là những người trầm cảm có thể quá ít hoạt động hoặc không có động lực để tham gia vào phiên họp.

Một lý do khác có thể là do người trầm cảm có thể mong muốn được chữa khỏi nhanh chóng và vì phân tâm học không đáp ứng điều này. Do đó, khách hàng có thể bỏ đi hoặc tham gia với tinh thần không hợp tác.

Psychoanalytic là gì


Freud và những nhà tâm lý học khác

Những đánh giá về phân tâm học

Swartberg và Stiles (1991) và Prochaska và DiClemente (1984) chỉ ra rằng bằng chứng về hiệu quả của Phân tâm học là không rõ ràng.Salzman (1980) gợi ý rằng các liệu pháp tâm động học nói chung không giúp ích nhiều cho khách hàng bị rối loạn lo âu cụ thể như ám ảnh sợ hãi hoặc OCD nhưng có thể giúp ích nhiều hơn cho các rối loạn lo âu nói chung. Ông bày tỏ lo ngại rằng phân tâm học có thể làm tăng các triệu chứng của OCD do xu hướng của những thân chủ đó là quan tâm quá mức đến hành động của họ và suy ngẫm về hoàn cảnh của họ (Noonan, 1971).Fisher và Greenberg (1977), trong một tổng quan tài liệu, kết luận rằng lý thuyết phân tâm học không thể được chấp nhận hoặc bị bác bỏ với ý kiến rằng: Phân tâm học bao gồm nhiều thành phần, một số phần trong số đó nên được chấp nhận, phần khác bị bác bỏ và phần khác nữa nên được xem xét lại.Phương pháp nghiên cứu điển hình bị chỉ trích vì người ta nghi ngờ rằng các khái quát hóa có thể có giá trị vì phương pháp này có nhiều dạng sai lệch (ví dụ, Little Hans ).

Sau khi hiểu sơ bộ về phân tâm học là gì, có thể thấy đây là một ngách rất thú vị trong tâm lý học. Nếu tìm hiểu sâu xa hơn bạn sẽ khám phá ra rất nhiều điều có sự tương quan với chính chúng ta.

Nguồn tham khảo: Simplypsychology

Bao gồm: Tâm lý học cá thể, Tâm lý học xã hội, Thuyết hành vi, Trường phái nhân văn, Tâm lý học hiện sinh, Các thuyết tính cách, Phân tâm học, Tài liệu Tham vấn tâm lý, Trị liệu hệ thống gia đình, Chẩn đoán tâm lý, Tâm lý học phát triển, Tâm lý gia đình, Tâm lý học pháp luật….