Quá trình phá hủy đá nhưng không làm biến đổi màu sắc thành phần của đá là

Tag: Quá Trình Phong Hóa Được Chia Thành

Đề bài

Sự khác nhau giữa phong hoá lí học, phong hoá hoá học và phong hoá sinh học?

Phương pháp giải - Xem chi tiết

Quá trình phá hủy đá nhưng không làm biến đổi màu sắc thành phần của đá là

Lời giải chi tiết

Phong hóa lí học

Phong hóa hóa học

Phong hóa sinh học

Khái niệm

Là quá trình phá hủy đá thành các khối vụn có kích thước to nhỏ khác nhau.

Là quá trình phá hủy đá và khoáng vật, nhưng chủ yếu làm biến đổi thành phần, tính chất hóa học của đá và khoáng vật.

Là sự phá hủy đá và các khoáng vật dưới tác động của sinh vật (vi khuẩn, nấm, rễ cây...).

Đặc điểm

Không làm biến đổi về màu sắc, thành phần khoáng vật, hóa học.

Biến đổi thành phần, tính chất hóa học của đá và khoáng vật.

Đá, khoáng vật bị phá hủy về mặt cơ giới và hóa học.

Tác nhân

- Chủ yếu do sự thay đổi nhiệt độ, sự đóng băng của nước, sự kết tinh của các chất muối.

- Tác động ma sát, va đập của gió, sóng, nước chảy, hoạt động sản xuất của con người.

Nước và các hợp chất hòa tan trong nước, khí cacbonic, ôxi và axit hữu cơ của sinh vật thông qua các phản ứng hóa học.

Tác động của sinh vật (vi khuẩn, nấm, rễ cây...).

Kết quả

Đá bị rạn nứt, vỡ thành những tảng và mảnh vụn.

Tạo thành các dạng địa hình cacxtơ.

- Sản phẩm phong hóa một phần bị nước hoặc gió cuốn đi.

- Phần còn lại phủ trên bề mặt đá gốc tạo thành lớp vỏ phong hóa, tạo thành vật liệu cho quá trình vận chuyển và bồi tụ.

Loigiaihay.com

I. NGOẠI LỰC

- Khái niệm: Ngoại lực là lực có nguồn gốc ở bên ngoài, trên bề mặt Trái Đất.

- Nguyên nhân chủ yếu: do nguồn năng lượng của bức xạ Mặt Trời.

II. TÁC ĐỘNG CỦA NGOẠI LỰC

1. Quá trình phong hóa

- Khái niệm: Quá trình phong hóa là quá trình phá hủy và làm biến đổi về kích thước, thành phần hóa học của các loại đá và khoáng vật.

- Có ba loại phong hóa.

a) Phong hóa lí học

+ Khái niệm: Phong hóa lí học là sự phá hủy đá thành các khối vụn có kích thước to, nhỏ khác nhau.

+ Kết quả: Đá nứt vỡ, thay đổi kích thước, không thay đổi thành phần hóa học.

+ Nguyên nhân: do thay đổi nhiệt độ đột ngột, sự đóng băng, tác động của sinh vật.

b) Phong hóa hóa học

+ Khái niệm: Phong hóa hóa học là quá trình phá hủy, chủ yếu làm biến đổi thành phần, tính chất hóa học của đá và khoáng vật.

+ Nguyên nhân: do tác động của chất khí, nước, những chất khoáng hòa tan trong nước, các chất do sinh vật bài tiết…

c) Phong hóa sinh học

+ Khái niệm: Phong hóa sinh học là sự phá hủy đá và các khoáng vật dưới tác động của sinh vật làm cho đá và khoáng vật vừa bị phá hủy về mặt cơ giới vừa bị phá hủy về mặt hóa học.

+ Do sự lớn lên của rễ cây, sự bài tiết của sinh vật.

2. Quá trình bóc mòn

- Khái niệm: Là quá trình các tác nhân ngoại lực (nước chảy, sóng biển, gió, băng hà) làm chuyển dời các sản phẩm phong hóa rời khỏi vị trí ban đầu.

- Tác nhân và kết quả:

+ Nước chảy: Khe rãnh nông, khe rãnh xói mòn, thung lũng sông suối…

+ Gió: Hố trũng thổi mòn, bề mặt đá rỗ tổ ong, các bề mặt đá mài nhẵn, ngọn đá sót hình nấm…

+ Sóng biển: Vách biển tạm thời, hàm ếch sóng vỗ, bậc thềm sóng vỗ…

+ Băng hà: Vịnh biển (Phi-o), cao nguyên băng hà, đá trán cừu…

3. Quá trình vận chuyển

- Vận chuyển: là quá trình di chuyển vật liệu từ nơi này đến nơi khác.

- Khoảng cách vận chuyển phụ thuộc:

+ Động năng quá trình ngoại lực.

+ Trọng lượng và kích thước vật liệu.

+ Đặc điểm tự nhiên của mặt đệm.

- Hình thức:

+ Vật liệu nhỏ, nhẹ được cuốn đi nhờ động năng của ngoại lực.

+ Vật liệu lớn, nặng lăn trên mặt đất dốc do chịu thêm tác động của trọng lực.

4. Quá trình bồi tụ

- Bồi tụ là quá trình tích tụ các vật liệu phá hủy.

- Quá trình bồi tụ phụ thuộc vào động năng của các nhân tố ngoại lực.

- Có hai hình thức bồi tụ:

+ Vật liệu tích tụ dần trên đường đi theo thứ tự giảm dần kích thước và trọng lực.

+ Vật liệu tích tụ và phân lớp theo trọng lượng.



Page 2

Quá trình phá hủy đá nhưng không làm biến đổi màu sắc thành phần của đá là

SureLRN

Quá trình phá hủy đá nhưng không làm biến đổi màu sắc thành phần của đá là

Dưới tác động của những nhân tố bên ngoài (nhiệt độ, nước, hoạt động của vi sinh vật…) mà trạng thái vật lý và hoá học của đá và khoáng trên bề mặt đất bị biến đổi. Quá trình này gọi là quá trình phong hoá.

Kết quả của quá trình phong hoá là đá và khoáng chất bị phá vỡ thành những mảnh vụn, hoà tan, di chuyển làm cho trạng thái tồn tại và thành phần hoá học hoàn toàn bị thay đổi. Kết quả tạo ra những vật thể vun và xốp - sản phẩm phong hoá và sau quá trình phong hoá gọi là mẫu chất – nó là vật liệu cơ bản để tạo thành đất.

Quá trình phá hủy đá nhưng không làm biến đổi màu sắc thành phần của đá là

Mẫu chất và đất có mối liên quan mật thiết, những đặc tính và thành phần hoá học của mẫu chất phản ánh những đặc tính và thành phần của đất.

Dựa vào từng đặc trưng của từng nhân tố tác động, phong hoá được chia thành 3 loại: Phong hoá lý hoc, phong hoá hoá học và phong hoá sinh vật học. Các quá trình này xảy ra đồng thời và liên quan khăng khít nhau.

Các quá trình phong hóa

Phong hóa cơ học (vật lý)

Phong hóa cơ học phá vỡ các đá gốc thành những mảnh vụn mà không làm thay đổi thành phần hóa học của đá. Băng, nước, nước khe nứt là các tác nhân gây phong hóa cơ học chính do gây ra một lực tác động làm nở ra, mở rộng các khe nứt trong đá khiến đá vỡ ra thành các mảnh vụn. Giãn nở vì nhiệt cũng gây nên tác động giản căng và co lại dưới sự ảnh hưởng của việc nhiệt độ tăng lên hay giảm đi cũng giúp cho quá trình phong hóa cơ học diễn ra nhanh hơn. Phong hóa cơ học giúp làm tăng diện tiếp xúc bề mặt của đá khiến cho quá trình phong hóa hóa học dưới sự tác động của các yếu tố hóa học diễn ra nhanh hơn.

Phong hóa hóa học

Là quá trình phá huỷ các loại đá thành các khối vụn có kích thước to, nhỏ khác nhau, tuy nhiên nó không làm thay đổi màu sắc, các thành phần khoáng hoá của chúng. Còn nguyên nhân chính xả ra quá trình phong hoá hoá học là do các tác động của chất khí, nước và các khoáng chất hoà tan được trong nước… Quá trình phong hoá đá này xảy ra nhiều nhất ở những khu vực khí hậu xích đạo, gió mùa ẩm và các dạng địa hình các-xtơ ở miền đá vôi.

Các quá trình xảy ra:

- Quá trình hydrat hóa ( quá trình ngậm nước)

Nước là phân tử có cực, nên nếu khoáng chất có các cation và anion có hóa trị tự do sẽ hút phân tử nước và trở thành ngậm nước.

2Fe2O3 + 3H2O → 2Fe2O3. 3H2O

CaSO4 + 2H2O → CaSO4. 2H2O

Na2SO4 + 10H2O → Na2SO4. 3H2O

Hydat hóa làm độ cứng của khoáng giảm, thể tích tăng làm đá bị vỡ vụn và hòa tan. Như vậy phong hóa hóa học không chỉ phá vỡ đá về mặt hóa học, mà còn thúc đẩy quá trình phong hóa lý học.

- Quá trình oxy hóa

Trong các khoáng chất cấu tạo đá, chứa nhiều ion hóa trị thấp như (Fe2+ , Mn2+ ), những ion này bị oxy hóa thành hóa trị cao hơn làm cho khoáng bị phá hủy và thay đổi thành phần.

2FeS2 + 2H2O + 7O2 → 2FeSO4 + 2H2SO4

4FeSO4 + 2H2SO4 + O2 → 2Fe2(SO4)3 + H2O

- Quá trình thủy phân

Nước bi phân ly thành H+ + OH– . Trong vỏ quả đất chứa nhiều khoáng silicat – đó là muối của axit yếu (axit silic: H2SiO3, axit amulosilic: H2[Al2Si6O16]). Trong các khoáng này chứa các ion kim loại kiềm và kiềm thổ, trong quá trình thủy phân, những ion H+ do nước điện ly sẽ thay thế cation này.

K[AlSi3O8] + H+ + OH– → HalSi3O8 + KOH

Quá trình phong hóa hóa học làm đá vỡ vụn và thay đổi thành phần của khoáng và đá.

Quá trình phá hủy đá nhưng không làm biến đổi màu sắc thành phần của đá là

Phong hóa sinh học

Dưới tác động của sinh vật như vi khuẩn, nấm hay rễ cây… đá và khoáng vật bị phá huỷ được gọi là quá trình phong hoá sinh học. Lúc này, đá bị phá huỷ cả về mặt cơ giới và hoá học. Nguyên nhân dẫn đến quá trình phong hoá sinh học là do sự phát triển, tăng trưởng của rễ cây và sự bài tiết các chất.  

Như vậy, khi so sánh ba quá trình phong hoá, chúng ta chủ yếu nói đến các tác nhân tác động và hệ quả của nó đối với các loại đá và khoáng vật. Mối quan hệ giữa 3 quá trình phong hoá này không diễn ra độc lập mà chúng có tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau, thậm chí đồng thời cùng xảy ra trên một khu vực.

So sánh sự giống và khác giữa phong hoá lí học và phong hoá hoá học

Quá trình phá hủy đá nhưng không làm biến đổi màu sắc thành phần của đá là

Mối quan hệ giữa quá trình phong hoá, vận chuyển và quá trình bồi tụ

Để xảy ra quá trình phong hoá hoàn thiện nhất thì phải kết hợp giữa quá trình vận chuyển và bồi tụ … bởi quá trình vận chuyển sẽ di chuyển vật liệu từ nơi này sang nơi khác, sau đó quá trình bồi tự sẽ giúp tích luỹ các vật liệu bị phá huỷ lại ở bề mặt địa hình thấp hơn.

Như vậy, quá trình phong hoá thành tạo các vật liệu đá và khoáng vật bị phá huỷ thành những mảnh vụn nhỏ và rất nhỏ. Quá trình vận chuyển sẽ mang những vật liệu này đến một nơi khác. Khi gặp được những điều kiện thuận lợi như địa hình, các vật liệu bồi tụ lại, san bằng hoặc làm gồ ghề thêm dạng địa hình ở khu vực đó. Mối quan hệ của ba quá trình này rất chặt chẽ với nhau, chúng có thể diễn ra đồng thời nhưng cách xa nhau về mặt không gian.

Quá trình phá hủy đá nhưng không làm biến đổi màu sắc thành phần của đá là


Page 2

Dưới tác động của những nhân tố bên ngoài (nhiệt độ, nước, hoạt động của vi sinh vật…) mà trạng thái vật lý và hoá học của đá và khoáng trên bề mặt đất bị biến đổi. Quá trình này gọi là quá trình phong hoá.

Kết quả của quá trình phong hoá là đá và khoáng chất bị phá vỡ thành những mảnh vụn, hoà tan, di chuyển làm cho trạng thái tồn tại và thành phần hoá học hoàn toàn bị thay đổi. Kết quả tạo ra những vật thể vun và xốp - sản phẩm phong hoá và sau quá trình phong hoá gọi là mẫu chất – nó là vật liệu cơ bản để tạo thành đất.

Quá trình phá hủy đá nhưng không làm biến đổi màu sắc thành phần của đá là

Mẫu chất và đất có mối liên quan mật thiết, những đặc tính và thành phần hoá học của mẫu chất phản ánh những đặc tính và thành phần của đất.

Dựa vào từng đặc trưng của từng nhân tố tác động, phong hoá được chia thành 3 loại: Phong hoá lý hoc, phong hoá hoá học và phong hoá sinh vật học. Các quá trình này xảy ra đồng thời và liên quan khăng khít nhau.

Các quá trình phong hóa

Phong hóa cơ học (vật lý)

Phong hóa cơ học phá vỡ các đá gốc thành những mảnh vụn mà không làm thay đổi thành phần hóa học của đá. Băng, nước, nước khe nứt là các tác nhân gây phong hóa cơ học chính do gây ra một lực tác động làm nở ra, mở rộng các khe nứt trong đá khiến đá vỡ ra thành các mảnh vụn. Giãn nở vì nhiệt cũng gây nên tác động giản căng và co lại dưới sự ảnh hưởng của việc nhiệt độ tăng lên hay giảm đi cũng giúp cho quá trình phong hóa cơ học diễn ra nhanh hơn. Phong hóa cơ học giúp làm tăng diện tiếp xúc bề mặt của đá khiến cho quá trình phong hóa hóa học dưới sự tác động của các yếu tố hóa học diễn ra nhanh hơn.

Phong hóa hóa học

Là quá trình phá huỷ các loại đá thành các khối vụn có kích thước to, nhỏ khác nhau, tuy nhiên nó không làm thay đổi màu sắc, các thành phần khoáng hoá của chúng. Còn nguyên nhân chính xả ra quá trình phong hoá hoá học là do các tác động của chất khí, nước và các khoáng chất hoà tan được trong nước… Quá trình phong hoá đá này xảy ra nhiều nhất ở những khu vực khí hậu xích đạo, gió mùa ẩm và các dạng địa hình các-xtơ ở miền đá vôi.

Các quá trình xảy ra:

- Quá trình hydrat hóa ( quá trình ngậm nước)

Nước là phân tử có cực, nên nếu khoáng chất có các cation và anion có hóa trị tự do sẽ hút phân tử nước và trở thành ngậm nước.

2Fe2O3 + 3H2O → 2Fe2O3. 3H2O

CaSO4 + 2H2O → CaSO4. 2H2O

Na2SO4 + 10H2O → Na2SO4. 3H2O

Hydat hóa làm độ cứng của khoáng giảm, thể tích tăng làm đá bị vỡ vụn và hòa tan. Như vậy phong hóa hóa học không chỉ phá vỡ đá về mặt hóa học, mà còn thúc đẩy quá trình phong hóa lý học.

- Quá trình oxy hóa

Trong các khoáng chất cấu tạo đá, chứa nhiều ion hóa trị thấp như (Fe2+ , Mn2+ ), những ion này bị oxy hóa thành hóa trị cao hơn làm cho khoáng bị phá hủy và thay đổi thành phần.

2FeS2 + 2H2O + 7O2 → 2FeSO4 + 2H2SO4

4FeSO4 + 2H2SO4 + O2 → 2Fe2(SO4)3 + H2O

- Quá trình thủy phân

Nước bi phân ly thành H+ + OH– . Trong vỏ quả đất chứa nhiều khoáng silicat – đó là muối của axit yếu (axit silic: H2SiO3, axit amulosilic: H2[Al2Si6O16]). Trong các khoáng này chứa các ion kim loại kiềm và kiềm thổ, trong quá trình thủy phân, những ion H+ do nước điện ly sẽ thay thế cation này.

K[AlSi3O8] + H+ + OH– → HalSi3O8 + KOH

Quá trình phong hóa hóa học làm đá vỡ vụn và thay đổi thành phần của khoáng và đá.

Quá trình phá hủy đá nhưng không làm biến đổi màu sắc thành phần của đá là

Phong hóa sinh học

Dưới tác động của sinh vật như vi khuẩn, nấm hay rễ cây… đá và khoáng vật bị phá huỷ được gọi là quá trình phong hoá sinh học. Lúc này, đá bị phá huỷ cả về mặt cơ giới và hoá học. Nguyên nhân dẫn đến quá trình phong hoá sinh học là do sự phát triển, tăng trưởng của rễ cây và sự bài tiết các chất.  

Như vậy, khi so sánh ba quá trình phong hoá, chúng ta chủ yếu nói đến các tác nhân tác động và hệ quả của nó đối với các loại đá và khoáng vật. Mối quan hệ giữa 3 quá trình phong hoá này không diễn ra độc lập mà chúng có tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau, thậm chí đồng thời cùng xảy ra trên một khu vực.

So sánh sự giống và khác giữa phong hoá lí học và phong hoá hoá học

Quá trình phá hủy đá nhưng không làm biến đổi màu sắc thành phần của đá là

Mối quan hệ giữa quá trình phong hoá, vận chuyển và quá trình bồi tụ

Để xảy ra quá trình phong hoá hoàn thiện nhất thì phải kết hợp giữa quá trình vận chuyển và bồi tụ … bởi quá trình vận chuyển sẽ di chuyển vật liệu từ nơi này sang nơi khác, sau đó quá trình bồi tự sẽ giúp tích luỹ các vật liệu bị phá huỷ lại ở bề mặt địa hình thấp hơn.

Như vậy, quá trình phong hoá thành tạo các vật liệu đá và khoáng vật bị phá huỷ thành những mảnh vụn nhỏ và rất nhỏ. Quá trình vận chuyển sẽ mang những vật liệu này đến một nơi khác. Khi gặp được những điều kiện thuận lợi như địa hình, các vật liệu bồi tụ lại, san bằng hoặc làm gồ ghề thêm dạng địa hình ở khu vực đó. Mối quan hệ của ba quá trình này rất chặt chẽ với nhau, chúng có thể diễn ra đồng thời nhưng cách xa nhau về mặt không gian.

Quá trình phá hủy đá nhưng không làm biến đổi màu sắc thành phần của đá là