Vì sao doanh nghiệp Việt thích vay ngân hàng, ngại phát hành trái phiếu?(NLĐO) - Quy định mới của Chính phủ với nhiều điểm nới lỏng điều kiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp được kỳ vọng giúp doanh nghiệp huy động thêm vốn qua kênh này.
Nghị định 163 thay thế Nghị định 90 của Chính phủ quy định về việc phát hành trái phiếu của doanh nghiệp (DN) theo hình thức riêng lẻ trong nước và quốc tế, hiệu lực từ đầu năm nay có nhiều điểm mới, theo hướng nới lỏng điều kiện cho DN. Huy động vốn dài hạn, lãi suất ổn định Theo các chuyên gia tài chính, có 2 điểm mới cơ bản của Nghị định 163 so với trước đó là về phát hành riêng lẻ, quy định không giới hạn quyền của tổ chức phát hành, không bắt buộc DN phát hành phải có lãi năm liền trước. Trước đây, DN muốn phát hành trái phiếu phải có lãi. Quy định này được cho là không phù hợp thông lệ quốc tế trong bối cảnh điều kiện vay, tiếp cận vốn ngân hàng của DN ngày càng khó, nhất là DN đang niêm yết trong lĩnh vực tài chính, bất động sản, chứng khoán… cần nhiều vốn lưu động. TS Hà Huy Tuấn, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, cho biết thời gian qua, sự phát triển của thị trường trái phiếu DN còn nhiều hạn chế, chưa thực hiện tốt vai trò là kênh cung cấp vốn cho các DN. Dư nợ thị trường trái phiếu DN ước khoảng 7%GDP, thấp hơn nhiều so với mức bình quân của các nước trong khu vực (21%). Điều này khiến cho việc cung ứng vốn dài hạn cho nền kinh tế tiếp tục gặp nhiều thách thức và rủi ro mất cân đối kỳ hạn nguồn vốn của khu vực ngân hàng cũng gia tăng hơn. Do đó, các chuyên gia cho rằng việc nới lỏng quy định về phát hành trái phiếu DN sẽ kích thích thị trường này sôi động hơn, nhất là các DN quy mô vừa, nhỏ. Hiện một số DN niêm yết đã thông báo việc phát hành trái phiếu DN để huy động vốn. Trên thực tế, huy động vốn qua kênh trái phiếu đã được một số DN lớn triển khai thời gian qua và đạt hiệu quả nhờ mức lãi suất ổn định trong thời gian dài. Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam cho biết từ giữa năm 2018 đến nay đã thu xếp phát hành thành công trái phiếu cho một số DN lớn trị giá hàng ngàn tỉ đồng như REE, PAN, Nam Long... Đầu năm 2019, Công ty CP Cơ Điện Lạnh (REE) đã phát hành thành công đợt huy động vốn trái phiếu trị giá 2.318 tỉ đồng (tương đương 100 triệu USD) với lãi suất cố định 7%/năm, kỳ hạn 10 năm. Huy động vốn qua phát hành trái phiếu sẽ giúp doanh nghiệp giảm lệ thuộc vào ngân hàng. Ảnh: NLĐ Ông Nguyễn Ngọc Thái Bình, Giám đốc Tài chính, REE, cho biết việc phát hành trái phiếu thành công giúp tiếp cận thị trường vốn để huy động được nguồn vốn dài hạn với lãi suất cố định, giúp DN đa dạng hóa các phương án và nguồn huy động vốn cho nhu cầu phát triển mở rộng hoạt động kinh doanh. Trước đó, Công ty CP Tập đoàn PAN cũng phát hành thành công đợt trái phiếu đầu tiên trị giá 1.135 tỉ đồng với lãi suất cố định 6,8%/năm và kỳ hạn 5 năm. Nguồn vốn thu được từ đợt phát hành trái phiếu sẽ giúp công ty thực hiện các kế hoạch của mảng kinh doanh thực phẩm đóng gói, bao gồm hoạt động mua bán, đầu tư vào tài sản cố định, chi phí vốn và mở rộng quy mô hoạt động. Hay Công ty CP Đầu tư Nam Long phát hành thành công đợt trái phiếu trị giá 660 tỉ đồng với lãi suất cố định 6,5%/năm và kỳ hạn 7 năm. Ông Nirukt Sapru, Tổng Giám đốc Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam và nhóm 5 nước ASEAN và Nam Á, nhận định việc DN gọi vốn thành công qua phát hành trái phiếu đã góp phần phát triển thị trường vốn trong nước, qua đó khuyến khích thêm nhiều DN tham gia thị trường trái phiếu như một phương án huy động vốn hiệu quả. Đòi hỏi khắt khe về minh bạch thông tin Nghị định 163 cũng nêu rõ điều kiện cho DN phát hành trái phiếu với nguyên tắc minh bạch, rõ ràng dựa trên nguyên tắc tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn và bảo đảm khả năng trả nợ. DN phải đáp ứng các tỉ lệ an toàn tài chính, tỉ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy định của pháp luật chuyên ngành… TS Bùi Quang Tín, trường Đại học Ngân hàng TP HCM, cho biết dù được nới lỏng điều kiện về lợi nhuận DN nhưng khắt khe hơn về tính minh bạch thông tin, nhất là quy định về xếp hạng tín nhiệm của DN và minh bạch thông tin. Ở nước ngoài, giao dịch đều thông qua tài khoản ngân hàng, cách thức quản lý hệ thống thuế rất minh bạch nên các thông tin dữ liệu rõ ràng sẽ thuận lợi để các tổ chức có đủ thông tin phục vụ cho hoạt động xếp hạng tín nhiệm. Nhưng ở Việt Nam, việc nắm thông tin của DN chỉ thông qua các báo cáo của DN cho cơ quan nhà nước, lại không đầy đủ nên nếu dùng cho hoạt động xếp hạng tín nhiệm khó chính xác. Chuyên gia tài chính chứng khoán Phan Dũng Khánh cũng cho rằng về nguyên tắc, quy định phát hành trái phiếu được nới lỏng so với trước là điều tốt, tạo thuận lợi hơn cho DN. Có điều, trái phiếu không hấp dẫn nhà đầu tư cá nhân khi cổ phiếu trên sàn vẫn dễ bán hơn trái phiếu… Còn lại, với các tổ chức, các DN muốn phát hành trái phiếu phải lệ thuộc vào việc hoàn chỉnh các điều kiện, trong đó cần phải có ý kiến từ Ủy ban chứng khoán, đặc biệt là phải có đơn vị tư vấn phát hành trái phiếu bảo lãnh. "Lâu nay, những DN phát hành thành công trái phiếu thường là DN có uy tín, có lãi và được các tổ chức quan tâm, chứ các DN nhỏ và không niêm yết chính thức, báo cáo tài chính không minh bạch thì khó "có cửa" để phát hành trái phiếu dù điều kiện có nới lỏng" - ông Huỳnh Anh Tuấn, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Chứng khoán Evererst, nhận định. Một số ngân hàng thương mại trong nước gần đây cũng tập trung vào phân khúc hỗ trợ khách hàng DN phát hành trái phiếu. Ông Nguyễn Lê Quốc Anh, Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), cho biết cùng với định hướng của Ngân hàng Nhà nước về phát triển trái phiếu DN hướng tới mục tiêu đạt 20%GDP Việt Nam đến năm 2030, Techcombank đã tư vấn phát hành hơn 60.000 tỉ đồng trái phiếu DN (tương đương 2,6 tỉ USD) để đáp ứng nhu cầu vốn của DN lớn trong năm 2018, tăng 82% so với năm trước. Tính đến ngày 30/6, các khoản vay và nợ thuê tài chính của nhóm CTCK là 42.741 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng tới 47,6% tổng nguồn vốn. Trong đó, vay ngân hàng ở mức 34.758 tỉ đồng, chiếm tỉ lệ 81,3% trong cơ cấu nợ vay, cao hơn nhiều so với huy động từ trái phiếu chỉ 18,7%.
Theo số liệu từ Báo cáo tài chính (BCTC) quí II/2019 đã công bố của 26 công ty chứng khoán (CTCK), tính đến ngày 30/6, tổng nguồn vốn của của nhóm chứng khoán ở mức 89.860 tỉ đồng. Trong đó, riêng các khoản vay và nợ thuê tài chính (các khoản nợ phải trả lãi) là 42.741 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng tới 47,6%. Số liệu cũng cho thấy, các CTCK qui mô vốn lớn có xu hướng sử dụng nợ vay nhiều hơn so với nhóm qui mô nhỏ. Xét theo giá trị tuyệt đối, ba công ty có qui mô lớn nhất gồm Chứng khoán SSI (Mã: SSI), Chứng khoán VNDirect (Mã: VND) và Chứng khoán VPS chiếm hơn 67% nợ vay của cả nhóm, với giá trị 28.724 tỉ đồng. Tuy nhiên, nếu tính theo giá trị tương đối, các doanh nghiệp trên cũng nằm trong top những CTCK có tỉ lệ nợ vay ở mức cao. Cụ thể, SSI tiếp tục dẫn đầu về qui mô vốn với giá trị 27.241 tỉ đồng, trong đó nợ vay chiếm 15.820 tỉ đồng, chiếm tỉ lệ 58,1% tổng nguồn vốn. Hai cái tên VNDirect và VPS vay nợ 7.149 tỉ đồng và 5.755 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng lần lượt 60% và 56% trong cơ cấu nguồn vốn. Các CTCK qui mô lớn có xu hướng sử dụng nợ vay nhiều hơn so với các công ty qui mô nhỏ. (Nguồn: ST tổng hợp từ BCTC) Ngược lại, các CTCK vốn nhỏ gần như sử dụng nợ vay rất ít, khoảng 20% so với tổng nguồn vốn. Đơn cử, Chứng khoán Hải Phòng (Mã: HAC) vay 1,3%; Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC - Mã: BSI) vay 4,8% hay Chứng khoán Trí Việt (Mã: TVB) vay 23,1%. Thậm chí, nhiều CTCK hoàn toàn không dùng các khoản nợ vay phải trả lãi như Chứng khoán An Phát (Mã: APG), Chứng khoán BOS (Mã: ART), Chứng khoán Dầu khí (PSI), Chứng khoán Đầu tư Việt Nam (IVS), Chứng khoán Hòa Bình (HBS), Chứng khoán Sacombank (SBS), Chứng khoán Tiên Phong (ORS), Chứng khoán Đà Nẵng (DSC). Vay ngân hàng chiếm phần lớn trong cơ cấu nợ vayĐầu năm 2019, Nghị định 163 của Chính phủ qui định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp có hiệu lực đã nới lỏng một số điều kiện phát hành trái phiếu như không giới hạn quyền của tổ chức phát hành, không bắt buộc tổ chức phát hành phải có lãi năm liền trước. Quy định này đã tạo ra nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt là các CTCK để huy động vốn thông qua kênh trái phiếu trong bối cảnh điều kiện vay, tiếp cận vốn ngân hàng ngày càng khó, nhất là trong lĩnh vực mang tính rủi ro cao và cần nhiều vốn lưu động như tài chính, bất động sản, chứng khoán. Tuy nhiên trên thực tế, các CTCK vẫn ưu tiên huy động vốn qua kênh vay ngân hàng hơn so với phát hành trái phiếu, đặc biệt là các công ty có qui mô lớn. Số liệu tại ngày 30/6 cho thấy, nhóm chứng khoán vay ngân hàng tổng cộng 34.758 tỉ đồng, chiếm tỉ lệ 81,3% trong cơ cấu nợ vay, cao hơn đáng kể so với huy động từ trái phiếu chỉ 18,7%. Đáng chú ý, trong cơ cấu các khoản vay ngân hàng, các CTCK tập trung hoàn toàn vào vay ngắn hạn trong khi gần như không vay dài hạn; trường hợp duy nhất là VPS vay dài hạn 4 tỉ đồng, không đáng kể so với tổng vay nợ của doanh nghiệp này là 5.755 tỉ đồng. Các CTCK sử dụng vốn vay ngân hàng nhiều hơn so với vay bằng trái phiếu. (Nguồn: ST tổng hợp từ BCTC) Một số công ty thậm chí vay ngắn hạn 100% như Chứng khoán Thiên Việt (TVS), Chứng khoán FPT (FTS), Chứng khoán BSC, Chứng khoán Phú Hưng (PHS) và Chứng khoán Hải Phòng. Các CTCK khác cũng ưu tiên sử dụng vốn vay ngân hàng với tỉ lệ cao gồm SSI (93,1%), VNDirect (95,8%), Chứng khoán TP HCM (HSC - Mã: HSC) (94,2%), VPS (82,3%), MBS (66,7%). Ngược lại, các CTCK vốn trung bình và nhỏ lại ưu tiên huy động vốn bằng phát hành trái phiếu. Đơn cử, Chứng khoán Everest (Mã: EVS) huy động 393 tỉ đồng hoàn toàn qua trái phiếu, hay Chứng khoán Bảo Minh (99,7%), Chứng khoán IB (88,9%), Chứng khoán Trí Việt (82,6%). Lãi suất vay ngân hàng thấp hơn đáng kể so với phát hành trái phiếuMột trong những nguyên nhân khiến cho các CTCK ưu tiên vay vốn ngân hàng bởi kênh huy động này có lãi suất thấp hơn so với huy động bằng phát hành trái phiếu. Cụ thể, lãi vay ngân hàng trung bình của các CTCK ở mức khoảng 7%, thấp hơn đáng kể so với phát hành trái phiếu ngắn hạn (9,2%) và trái phiếu dài hạn (9,6%). Lãi suất các khoản vay thường phụ thuộc vào kì hạn vay (kì hạn càng thấp thì lãi suất càng thấp), thời điểm giải ngân và tài sản đảm bảo. Theo đó, mức lãi suất đi vay cao nhất thuộc về Chứng khoán Bản Việt với tỉ lệ 11%, trong khi lãi suất thấp nhất là 1,75% của Chứng khoán SSI. Mới đây, HĐQT Chứng khoán Bản Việt cũng thông qua phương án phát hành 500 tỉ đồng trái phiếu không chuyển đổi, kì hạn 24 tháng. Lãi suất sẽ tùy thuộc vào tình hình hoạt động của công ty nhưng không vượt quá lãi suất tiền gửi trung hạn bình quân của BIDV và Vietinbank cộng 3% (tổng khoảng 10%). Đối với kênh huy động qua trái phiếu, lãi suất phát hành thường dao động từ 8 - 10%, cao hơn khá nhiều so với vay từ ngân hàng bởi mức độ rủi ro cao hơn đối với nhà đầu tư trái phiếu, tài sản đảm bảo để phát hành trái phiếu thường là chính cổ phiếu của tổ chức phát hành.. Đặc biệt, trường hợp của Chứng khoán SSI, lãi suất huy động trái phiếu chỉ ở mức 4% do đây là loại hình trái phiếu chuyển đổi, tức trái chủ có quyền yêu cầu chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu cổ phiếu phổ thông của tổ chức phát hành tại thời điểm đáo hạn. Loại hình trái phiếu này có ưu thế về mặt lãi suất, tuy nhiên lại gây ra rủi ro pha loãng cổ phiếu của tổ chức phát hành. Lãi vay ngân hàng và lãi suất huy động trái phiếu của các CTCK (Đơn vị: %). (Nguồn: ST tổng hợp từ BCTC) Ngoài nguyên nhân do lãi suất cao, các CTCK cũng "ngại" phát hành trái phiếu do những khó khăn trong việc tìm kiếm đối tác phát hành, xử lý thủ tục phát hành cũng như yêu cầu về vấn đề minh bạch thông tin. Dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam hiện ở mức khoảng 7% GDP, thấp hơn nhiều so với mức bình quân 21% của các nước trong khu vực. Điều này khiến cho việc cung ứng vốn dài hạn cho nền kinh tế tiếp tục gặp nhiều thách thức và rủi ro mất cân đối kỳ hạn nguồn vốn của khu vực ngân hàng cũng gia tăng hơn. |