Sự tiêu hóa thức ăn ở khoang miệng và dạ dày diễn ra như thế nào

Hành trình của thức ăn trong đường tiêu hóa

Thực phẩm mất khoảng 18 đến 48 giờ để đi qua toàn bộ đường tiêu hóa, thông qua một loạt các co thắt của các cơ đường tiêu hóa và được pha trộn với các enzyme tiêu hóa để phân giải thức ăn.

Miệng:

  • Là nơi thức ăn được nhai để phân cắt thức ăn thành những mảnh nhỏ và cũng là nơi mà quá trình tiêu hóa thật sự bắt đầu.
Sự tiêu hóa thức ăn ở khoang miệng và dạ dày diễn ra như thế nào

Răng:

  • Cắt, xé, nhai, nghiền thức ăn. Trẻ bắt đầu mọc răng từ 5 - 6 tháng cho đến 24 tháng thì hết mọc răng sữa. Từ 6 tuổi trở đi, răng sữa được thay bằng răng vĩnh viễn. Để hàm của trẻ hình thành và phát triển đúng, cần cho trẻ nhai thức ăn cứng khi trẻ mọc đủ răng. Khi ăn thức ăn cứng, trẻ sẽ nhai chậm, tạo điều kiện nước bọt có chứa men tiêu hóa được trộn đều với thức ăn. Ngoài ra xương hàm sẽ phát triển làm cho 2 hàm răng cắn khớp vào nhau tốt.

Lưỡi:

  • Di chuyển thức ăn đến các loại răng khác nhau, trộn thức ăn với nước bọt sau đó cuộn thức ăn hướng về phía cổ họng khi chúng ta đã sẵn sàng để nuốt; Lưỡi tương đối to, rộng và dày ở lứa tuổi sơ sinh và bú mẹ; đặc điểm này làm cho trẻ mút có hiệu quả hơn.

Tuyến nước bọt:

  • Tăng tiết ngay từ khi thức ăn được đưa vào hoặc trước đó qua mùi, hình ảnh của thức ăn, nước bọt làm ẩm thực phẩm và chứa enzyme amylase để bắt đầu quá trình tiêu hóa tinh bột. Tuyến nước bọt của trẻ đến tháng thứ 3 - 4 mới phát triển hoàn thiện. Đến tháng thứ 4 - 5, nước bọt trẻ tiết ra nhiều do có sự kích thích của mầm răng. Cần đặc biệt chú ý vệ sinh khoang miệng cho bé.

Họng:

  • Để nuốt thức ăn. Thức ăn được nhai và trộn lẫn với nước bọt trở nên mềm, nhão, lưỡi sẽ đẩy thức ăn ra phía sau miệng để vào họng. Đây là hành động do sự điều khiển theo ý muốn, vì vậy những trẻ biếng ăn, ngậm thường tắc nghẽn ở bước này! Khi thức ăn đi vào họng thì quá trình nuốt trở thành một phản xạ tự động và không thể dừng lại được. Khi đó lưỡi gà sẽ gập lại để che kín với đường thở, giúp ngăn không cho thức ăn đi vào đường thở.
  • Nếu trẻ cười hay nói trong khi ăn hoặc uống làm nắp thanh quản không đóng lại kịp thời được, thức ăn hoặc nước sẽ chạy lên mũi hoặc đi vào đường thở gây ho, sặc rất nguy hiểm.

Thực quản:

  • Là một ống cơ dẫn từ miệng đến dạ dày, dài khoảng 25 cm. Khi thức ăn đi vào, các cơ trơn ở thành thực quản sẽ thay phiên nhau co – dãn để tạo ra những chuyển động dạng sóng (hay còn gọi là nhu động), đẩy thức ăn đi sâu xuống dần phía dưới, bất kể tư thế của cơ thể dù là đang ngồi, đang nằm hoặc đang lộn ngược. Tính theo chiều dài cơ thể, thì thực quản của trẻ em dài nhưng mỏng hơn người lớn. Cơ thắt dưới thực quản của trẻ chưa hoàn thiện, thường xuyên mở ra, vì thế trẻ dễ bị nôn trớ.

Dạ dày:

  • Là nơi lưu trữ, nhào trộn và tiêu hóa thức ăn. Dạ dày tiết ra dịch vị (do tuyến vị trong dạ dày tiết ra) bao gồm các thành phần như enzyme pepsin lipase và axit clohydric (HCl) giúp tiêu hóa thức ăn, tiêu diệt vi khuẩn. Thời gian sữa mẹ ở dạ dày là 2 - 2,5 giờ, sữa bò là 3-4 giờ. Dịch tiêu hóa ở trẻ ít hơn người lớn, lượng bài tiết tăng dần theo tuổi. Do đó trẻ dễ có hiện tượng bị nôn trớ sau khi ăn. Những trẻ sơ sinh có tình trạng co thắt môn vị sẽ gây nôn nhiều.

Ruột non:

  • Quá trình tiêu hóa tại ruột non tiêu hóa được 80% chất đạm, tinh bột và chất béo. Độ dài ruột của trẻ sơ sinh gấp 7-8 lần chiều dài cơ thể, ở người lớn gấp 4-5 lần. Do thành ruột ở trẻ mỏng, nếu đường tiêu hóa bị nhiễm trùng thì chất độc dễ xâm nhập vào máu, gây ngộ độc. Ruột già: • Ruột già của trẻ di động, gắn kết kém với với thành sau bụng nên vị trí ruột thừa không cố định, chẩn đoán viêm ruột thừa ở trẻ em khó hơn người lớn. Trực tràng tương đối dài, niêm mạc lỏng lẻo, do đó khi bị lỵ, ho gà dễ bị sa xuống.

Dạ dày tiêu hóa thức ăn trong bao lâu?

Dạ dày là một bộ phận quan trọng trong cơ thể, thực hiện nhiệm vụ nghiền cơ học thức ăn, thấm dịch vị và phân hủy thức ăn nhờ enzym tiêu hóa trong dịch vị. Chức năng tiêu hóa của dạ dày tốt sẽ giúp cơ thể hấp thụ nhanh các dưỡng chất, tăng cường sức khỏe. Ngược lại, nếu chức năng này có vấn đề sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển vốn có, đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng và những cơn đau dạ dày.

Sự tiêu hóa thức ăn ở khoang miệng và dạ dày diễn ra như thế nào
Dạ dày tiêu hóa thức ăn trong bao lâu?

Thời gian tiêu hóa có thể được hiểu là một quy trình làm việc đặc trưng của dạ dày. Chúng bắt đầu khi thức ăn mà bạn nạp vào phân hủy thành các hạt nhỏ, được chuyển thành các chất dinh dưỡng và đi qua hệ thống đường ruột của bạn vào máu. Việc xác định được thời gian tiêu hóa sẽ giúp bạn kiểm soát tốt chế độ ăn uống trong việc giảm cân hoặc duy trì cân nặng hợp lý.

Nhìn chung, quá trình tiêu hóa thức ăn ở người thường kéo dài trong khoảng 24 – 72 giờ. Tuy nhiên, thời gian tiêu hóa phụ thuộc vào thời gian, tuổi tác, giới tính. Ngoài ra, nếu bạn đang gặp các vấn đề về đường tiêu hóa thì cũng có thể ảnh hưởng đến thời gian tiêu hóa thức ăn trong dạ dày.

Không chỉ vậy, thời gian tiêu hóa cũng phụ thuộc vào bản chất của thức ăn. Những loại thức ăn mềm, hoa quả tươi, rau xanh vì có nhiều chất xơ sẽ có thời gian tiêu hóa nhanh hơn, chỉ trong khoảng 1 ngày. Trong khi đó, các loại thực phẩm cứng và nhiều dinh dưỡng như thịt cá sẽ mất nhiều thời gian hơn để cơ thể phân giải. Loại thực phẩm nhanh được tiêu hóa nhất là các thực phẩm chế biến sẵn, đồ ăn vặt có đường như kẹo. Cơ thể có thể tiêu hóa chúng trong vòng vài giờ nên khiến bạn đói trở lại nhanh hơn, dẫn đến tình trạng khó kiểm soát cân nặng.

Xem thêm: Quá trình tiêu hóa thức ăn ở ruột non diễn ra chi tiết như thế nào?

Quá trình tiêu hóa thức ăn ở dạ dày

Ở người, quá trình tiêu hóa thức ăn ở dạ dày bắt đầu ở khoang miệng và kết thúc tại hậu môn, cụ thể như sau:

Sự tiêu hóa thức ăn ở khoang miệng và dạ dày diễn ra như thế nào
Quá trình tiêu hóa thức ăn ở dạ dày
  • Răng nhai nhỏ thức ăn, tuyến nước bọt tiết nước bọt làm mềm thức ăn. Men bột lọc trong nước bọt sẽ đồng thời phân giải hydrocarbon. Đầu lưỡi nhiều dây thần kinh vị giác có nhiệm vụ khống chế thức ăn trong miệng, cắt chúng thành khối nhỏ để dễ nuốt.
  • Từ miệng, thức ăn đi qua họng để xuống thực quản, rồi được chuyển thức ăn xuống dạ dày. Tại đây, thức ăn được nhào đều với axit clohidric và enzym do niêm mạc dạ dày tiết ra, giúp phân giải protein. Dạ dày đóng vai trò tiêu hóa cơ năng thông qua nhu động trộn thức ăn. Khi thức ăn được chuyển hóa sẽ lập tức được đưa xuống tá tràng môn vị.
  • Dịch vị tiêu hóa do tuyến tụy tiết ra chảy vào ruột non, dịch tiêu hóa này chứa nhiều enzym tiêu hóa mang đến tác dụng thúc đẩy phân giải hydrocarbon, mỡ và protein.
  • Trong ruột non, thức ăn từ chất phân tử lớn phức tạp được phân giải, tiêu hóa thành chất phân tử nhỏ dễ hấp thu. Niêm mạc ruột non hút chất dinh dưỡng đưa vào máu và hệ bạch huyết. Sau giai đoạn này, bã thức ăn cuối cùng được đưa xuống đại tràng, niêm mạc đại tràng hút phần lớn thành phần nước trong bã, biến bã chưa tiêu hóa và thượng bì niêm mạc ống tiêu hóa bong tróc thành phân và được thải ra ngoài qua hậu môn.

Quá trình tiêu hóa ở dạ dày 4 ngăn

Quá trình này diễn ra ở các động vật nhai lại như trâu, bò, được miêu tả cụ thể thông qua các giai đoạn chính như sau:

  • Thức ăn sau khi được trâu bò ăn vào sẽ được chuyển vào dạ cỏ. Dạ cỏ là nơi chứa, làm mềm thức ăn, có các vi sinh vật cộng sinh tiết enzim xenlulaza giúp trâu bò tiêu hóa xenlulozo và các chất khác
  • Thức ăn sau khi được lên men và làm mềm sẽ được chuyển qua dạ tổ ong (cùng với một lượng lớn vi sinh vật), sau khi trâu bò ngừng ăn, thì thức ăn sẽ được ợ lên miệng để nhai kĩ lại.
  • Thức ăn (sau khi được nhai kĩ) sẽ được chuyển xuống dạ lá sách để hấp thụ bớt nước.
  • Sau khi được hấp thụ bớt nước, thức ăn sẽ được chuyển qua dạ múi khế, dạ múi khế đóng vai trò như dạ dày thật sự, có chức năng tiết pepsin và HCl tiêu hóa protein ở cỏ và vi sinh vật.

Dạ dày có tiêu hóa được xương không?

Xương nếu không được nhai kỹ có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm cho dạ dày. Trên thực tế, dạ dày rất khó để tiêu hóa được xương, với những trường hợp mảnh xương nhỏ, dạ dày cần rất nhiều thời gian để có thể tiêu hóa. Đối với những mảnh xương to, khả năng tiêu hóa hầu như là không thể. Do đó, khi hóc xương, hoặc nghi có dị vật trong dạ dày, bạn cần đến gặp bác sĩ chuyên môn để được thăm khám và điều trị trong thời gian sớm nhất.

Thức ăn được tiêu hóa như thế nào?

Cơ chế hoạt động của hệ tiêu hóa

  • Tháng Mười 5, 2020
  • No Comments

Nếu hiểu được cơ chế hoạt động của hệ tiêu hóa, bạn sẽ có cách hỗ trợ bộ phận này, giúp cơ thể ngày một khỏe mạnh.

Tiêu hóa là quá trình phân hủy các phân tử thức ăn để cơ thể có thể hấp thu. Trong quá trình tiêu hóa ở người, thức ăn đi vào miệng, quá trình tiêu hóa bắt đầu bằng việc nhai và tác dụng của các enzym trong nước bọt. Mục tiêu của quá trình này là hấp thu chất dinh dưỡng đi nuôi cơ thể.

Sự tiêu hóa thức ăn ở khoang miệng và dạ dày diễn ra như thế nào

nh 1: Hệ tiêu hóa cần khỏe mạnh để đảm bảo một sức khỏe tốt.

Cấu tạo hệ tiêu hóa ở người bao gồm những cơ quan quen thuộc như sau:

  1. Miệng: Quá trình tiêu hóa bắt đầu từ khi bạn đưa thức ăn vào miệng. Răng và xương hàm sẽ tiến hành nhai để chia thức ăn thành những miếng nhỏ giúp cho việc tiêu hóa dễ dàng hơn. Các tuyến nước bọt cũng được tiết ra trong quá trình này để trộn lẫn vào với thức ăn, bắt đầu quá trình phân hủy tinh bột thành các chất đường đơn.
  2. Họng: Cổ họng là điểm đến tiếp theo cho thực phẩm từ miệng đi xuống họng và tiếp tục di chuyển xuống thực quản.
  3. Thực quản: Thực quản là một ống cơ kéo dài từ hầu họng đến dạ dày. Thực quản đưa thức ăn xuống dạ dày bằng các đợt các đợt cơn co thắt hay còn được gọi là nhu động. Điểm giữa thực quản và dạ dày có cơ vòng thực quản dưới nhằm giữ cho thức ăn ở dạ dày không trào ngược lên thực quản.
  4. Dạ dày: Dạ dày với các bó cơ khỏe của mình thực hiện chức năng trộn lẫn thức ăn nhận được với axit và các enzyme để thủy phân các protein phức tạp. Khi di chuyển sang ruột non, tất cả các loại thức ăn đã được biến thành chất lỏng hoặc bột nhão.
  5. Ruột non: Đây là nơi diễn ra hầu hết sự hấp thụ các chất dinh dưỡng từ thực phẩm. Ở đây thức ăn tiếp tục được phân tách thành các thành phần phân tử có thể hấp thụ vào máu. Mật từ túi mật và các enzyme tiêu hóa từ tuyến tụy được trộn vào dịch sữa trong tá tràng. Sự hấp thu các chất dinh dưỡng được thực hiện nhờ vào những hình trụ nhỏ giống như ngón tay gọi là nhung mao. Bệnh celiac (bệnh không dung nạp gluten) là một dạng rối loạn trong đó việc hấp thu gluten dẫn đến tổn thương cho nhung mao.

Ba cơ quan đóng vai trò then chốt trong việc giúp dạ dày và ruột non tiêu hóa thức ăn gồm:

– Tuyến tụy: Tuyến tụy có nhiều chức năng khác nhau, trong quá trình tiêu hóa thức ăn tuyến tụy tiết ra một số enzyme vào ruột non để phân hủy protein, chất béo và carbohydrate có trong thức ăn.

– Gan: Gan cũng có nhiều chức năng, nhưng hai chức năng chính của nó trong hệ thống tiêu hóa là tiết dịch mật và lọc máu có các chất dinh dưỡng vừa được hấp thụ đến từ ruột non.

– Túi mật: Túi mật là một túi chứa dịch mật có hình quả lê và nằm ngay dưới gan. Dịch mật được tạo ra ở gan và sau đó nếu cần phải lưu trữ thì dịch mật sẽ được di chuyển đến túi mật thông qua ống mật. Trong bữa ăn, túi mật co bóp để đẩy dịch mật xuống ruột non.

Sự tiêu hóa thức ăn ở khoang miệng và dạ dày diễn ra như thế nào

Ảnh: Chế độ dinh dưỡng là yếu tố quan trọng giúp hệ tiêu hóa hoạt động khỏe mạnh.

  1. Đại tràng Chức năng của đại tràng là giúp hấp thụ nước và chất dinh dưỡng còn lại. Thông thường phải mất khoảng 36 giờ để phân đi qua đại tràng. Thành phần chính của phân chủ yếu là mảnh vụn thức ăn và vi khuẩn. Những vi khuẩn này thực hiện một số chức năng hữu ích, như tổng hợp các loại vitamin khác nhau, xử lý chất thải và cặn lắng thức ăn, bảo vệ cơ thể chống lại vi khuẩn có hại.
  2. Trực tràng : Đây là bộ phận kết nối đại tràng với hậu môn với nhiệm vụ nhận phân từ đại tràng và kích thích các dây thần kinh truyền đến vỏ đại não, cho bạn biết cảm giác muốn đi đại tiện. Sau đó, bộ não sẽ quyết định có nên đi đại tiện hay không. Nếu muốn đi vệ sinh, cơ vòng sẽ giãn ra để đưa phân ra khỏi cơ thể. Còn nếu chưa muốn, cơ thắt và trực tràng sẽ điều chỉnh lại để cảm giác muốn đi vệ sinh tạm thời biến mất.
  3. Hậu môn: Đây là phần cuối cùng của đường tiêu hóa, được cấu tạo từ các cơ sàn chậu và hai cơ thắt hậu môn (cơ bên trong và bên ngoài). Chức năng chính của hậu môn là đựng và đào thải phân, đồng thời tiết dịch nhầy để bôi trơn giúp phân dễ dàng di chuyển ra khỏi cơ thể và hấp thu nước.

Nhìn chung, để đi qua toàn bộ đường ống tiêu hóa , thức ăn mất khoảng 24 đến 72 giờ. Hệ tiêu hóa là một quá trình có sự liên kết chặt chẽ với nhau. Khi một trong các mắt xích gặp sự cố, phá vỡ sự cân bằng của hệ thống thì sức khỏe ngay lập tức sẽ có những vấn đề bất lợi. Các sự cố thường gặp nhất là táo bón, tiêu chảy, sình bụng, chậm tiêu hóa, chứng ợ nóng, sôi bụng và những cơn đau về dạ dày… Vì vậy, nếu gặp tình trạng này, bạn hãy ngay lập tức điều trị bệnh, tránh làm suy giảm chức năng hệ tiêu hóa, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.

Chuyên mục
  • Báo chí nói gì về chúng tôi
  • Các kỹ thuật điều trị
  • Chấn thương cột sống
  • Chương trình khuyến mại
  • Cơ xương khớp
  • Con Số và Những Câu Chuyện
  • Hỗ trợ sinh sản
  • Kế hoạch phát triển bệnh viện
  • Nội tiết
  • Răng hàm mặt
  • Sổ tay sức khỏe
  • Sự kiện & Hoạt động của bệnh viện
  • Tai mũi họng
  • Thần kinh
  • Tiết niệu & Nam học
  • Tim mạch
  • Tin tức
  • Tin tuyển dụng
  • Trung tâm tiêu hóa
  • Ung bướu
Dịch vụ
  • Khám chuyên khoa
  • Hỗ trợ thai sản
  • Khám sứ khoẻ
  • Tầm soát ung thư
Tin nóng

Chính sách bảo mật

Sự tiêu hóa thức ăn ở khoang miệng và dạ dày diễn ra như thế nào

LIỆU PHÁP OZONE – THANH LỌC MÁU CHỮA BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH

Sự tiêu hóa thức ăn ở khoang miệng và dạ dày diễn ra như thế nào

THANH LỌC MÁU OZONE: CHĂM SÓC SỨC KHOẺ CHO NGƯỜI KHOẺ

Sự tiêu hóa thức ăn ở khoang miệng và dạ dày diễn ra như thế nào

THÔNG TIN TỔNG HỢP VỀ THANH LỌC MÁU OZONE

Sự tiêu hóa thức ăn ở khoang miệng và dạ dày diễn ra như thế nào

Hỗ trợ điều trị di chứng hậu Covid-19 bằng liệu pháp Thanh lọc máu Ozone

Sự tiêu hóa thức ăn ở khoang miệng và dạ dày diễn ra như thế nào
Share on facebook
Facebook
Share on google
Google+

Mục lục

  • 1 Các hệ tiêu hóa
    • 1.1 Hệ thống tiết dịch
      • 1.1.1 Hệ thống giao thông kênh
      • 1.1.2 Ống tiêm phân tử
      • 1.1.3 Cơ chế liên hợp
      • 1.1.4 Giải phóng các túi màng ngoài
    • 1.2 Khoang dạ dày
    • 1.3 Thực bào
    • 1.4 Các cơ quan và hành vi chuyên biệt
      • 1.4.1 Mỏ
      • 1.4.2 Lưỡi
      • 1.4.3 Răng
      • 1.4.4 Diều
      • 1.4.5 Manh tràng
      • 1.4.6 Hành vi chuyên biệt
    • 1.5 Trong giun đất
  • 2 Tổng quan về tiêu hóa của động vật có xương sống
  • 3 Quá trình tiêu hóa ở con người
    • 3.1 Cơ chế kiểm soát thần kinh và sinh hóa
  • 4 Phá vỡ thức ăn thành chất dinh dưỡng
    • 4.1 Tiêu hóa protein
    • 4.2 Tiêu hóa chất béo
    • 4.3 Tiêu hóa carbohydrat
    • 4.4 Tiêu hóa DNA và RNA
  • 5 Tiêu hóa không phá hủy
  • 6 Hormone tiêu hóa
  • 7 Ý nghĩa của độ pH
  • 8 Hình ảnh
  • 9 Tham khảo

Các hệ tiêu hóaSửa đổi

Hệ tiêu hóa có nhiều hình thức. Có sự khác biệt cơ bản giữa tiêu hóa nội bào và ngoại bào. Tiêu hóa ngoại bào phát triển trước trong lịch sử tiến hóa, và hầu hết các loại nấm vẫn dựa vào cách tiêu hóa này.[2] Theo cách tiêu hóa ngoại bào, các enzyme được tiết ra môi trường xung quanh sinh vật, tại đó phá vỡ chất hữu cơ, và một số các sản phẩm khuếch tán trở lại sinh vật. Động vật có một ống riêng (đường tiêu hóa) trong đó tiêu hóa nội bào diễn ra. Hình thức tiêu hóa này hiệu quả hơn bởi vì nhiều sản phẩm được chia nhỏ có thể được tiêu hóa hơn, và môi trường hóa học bên trong có thể được kiểm soát hiệu quả hơn.[3]

Một số sinh vật, bao gồm gần như tất cả các loài nhện, chỉ đơn giản tiết biotoxins và hóa chất tiêu hóa (enzyme) vào môi trường ngoại bào trước khi ăn món súp "canh" kết quả của việc tiêu hóa trên. Trong những động vật khác, khi các chất dinh dưỡng hoặc thực phẩm đi vào bên trong cơ thể sinh vật, các chất dịch tiêu hóa có thể được tiết ra vào túi tiết dịch hoặc một cấu trúc khác thông qua một đường ống, hoặc thông qua một số cơ quan chuyên trách nhằm làm cho sự hấp thu các chất dinh dưỡng được hiệu quả hơn.

Schematic drawing of bacterial conjugation. 1- Donor cell produces pilus. 2- Pilus attaches to recipient cell, bringing the two cells together. 3- The mobile plasmid is nicked and a single strand of DNA is transferred to the recipient cell. 4- Both cells recircularize their plasmids, synthesize second strands, and reproduce pili; both cells are now viable donors.

Hệ thống tiết dịchSửa đổi

Vi khuẩn sử dụng một số hệ thống để lấy chất dinh dưỡng từ các sinh vật khác trong môi trường.

Hệ thống giao thông kênhSửa đổi

Trong một hệ thống hỗ trợ kênh, một số protein tạo thành một kênh liền kề đi qua màng trong và màng ngoài của vi khuẩn. Nó là một hệ thống đơn giản, chỉ bao gồm ba tiểu đơn vị protein: protein ABC, protein dung hợp màng (MFP) và protein màng ngoài (OMP). Hệ thống bài tiết này vận chuyển các phân tử khác nhau, từ ion, thuốc, đến protein có kích thước khác nhau (20–900 kDa). Các phân tử được tiết ra có kích thước khác nhau, từ peptide colicin V nhỏ của Escherichia coli, (10 kDa) đến protein kết dính tế bào Pseudomonas fluorescens LapA là 900 kDa.[4]

Ống tiêm phân tửSửa đổi

Hệ thống tiết dịch loại III có nghĩa là một ống tiêm phân tử được sử dụng để qua đó vi khuẩn (ví dụ như một số loại Salmonella, Shigella, Yersinia) có thể đưa chất dinh dưỡng vào tế bào protist. Một cơ chế như vậy lần đầu tiên được phát hiện ở Y. pestis và cho thấy rằng chất độc có thể được tiêm trực tiếp từ tế bào chất của vi khuẩn vào tế bào chất của tế bào vật chủ của nó chứ không chỉ đơn giản là được tiết ra môi trường ngoại bào.[5]

Cơ chế liên hợpSửa đổi

Cơ chế liên hợp của một số vi khuẩn (và trùng roi cổ) có khả năng vận chuyển cả DNA và protein. Nó được phát hiện ở Agrobacterium tumefaciens, sử dụng hệ thống này để đưa Ti plasmid và protein vào vật chủ, chúng phát triển thành túi mật (khối u).[6] Phức hợp VirB của vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens là hệ thống nguyên mẫu.[7]

Rhizobia cố định nitơ là một trường hợp thú vị, trong đó các nguyên tố liên hợp tham gia vào quá trình liên hợp giữa các vương quốc một cách tự nhiên. Các nguyên tố như plasmid Agrobacterium Ti hoặc Ri chứa các nguyên tố có thể chuyển vào tế bào thực vật. Các gen được chuyển đi vào nhân tế bào thực vật và biến đổi một cách hiệu quả các tế bào thực vật thành các nhà máy để sản xuất opine mà vi khuẩn sử dụng làm nguồn cacbon và năng lượng. Các tế bào thực vật bị nhiễm bệnh tạo thành các u ở rễ. Do đó, các plasmid Ti và Ri là những vật ký sinh của vi khuẩn, đến lượt chúng lại là ký sinh trùng (hoặc ký sinh trùng) của cây bị nhiễm bệnh.

Bản thân plasmid Ti và Ri có tính chất liên hợp. Sự chuyển giao Ti và Ri giữa các vi khuẩn sử dụng một hệ thống độc lập (tra, hoặc chuyển, operon) từ hệ thống đó để chuyển giao giữa các giới (vir, hoặc độc lực, operon). Sự chuyển giao như vậy tạo ra các chủng độc lực từ các vi khuẩn Agrobacteria có độc lực trước đó.

Giải phóng các túi màng ngoàiSửa đổi

Ngoài việc sử dụng các phức hợp đa protein được liệt kê ở trên, vi khuẩn Gram âm có một phương pháp khác để giải phóng vật chất: sự hình thành các túi màng ngoài.[8][9] Các phần của màng ngoài bị chụm lại, tạo thành các cấu trúc hình cầu làm bằng lớp kép lipid bao quanh các vật liệu ngoại sinh. Mụn nước của một số loài vi khuẩn được phát hiện có chứa các yếu tố độc lực, một số có tác dụng điều hòa miễn dịch, và một số có thể bám trực tiếp và gây nhiễm độc tế bào vật chủ. Trong khi việc giải phóng các mụn nước đã được chứng minh là một phản ứng chung đối với các điều kiện căng thẳng, quá trình tải các protein hàng hóa dường như có chọn lọc.[10]

Khoang dạ dàySửa đổi

Khoang dạ dày có chức năng như dạ dày trong việc tiêu hóa và phân phối các chất dinh dưỡng đến tất cả các bộ phận của cơ thể. Quá trình tiêu hóa ngoại bào diễn ra trong khoang trung tâm này, được lót bởi dạ dày ruột, lớp bên trong của biểu mô. Khoang này chỉ có một lỗ thông ra bên ngoài, có chức năng vừa là miệng vừa là hậu môn: chất thải và chất không tiêu hóa được thải ra ngoài qua miệng / hậu môn, có thể được mô tả như một đường ruột chưa hoàn chỉnh.

Ở một loài thực vật như Venus Flytrap có thể tự tạo thức ăn thông qua quá trình quang hợp, nó không ăn và tiêu hóa con mồi cho các mục tiêu truyền thống là thu năng lượng và carbon, mà kiếm mồi chủ yếu cho các chất dinh dưỡng thiết yếu (đặc biệt là nitơ và phosphor) mà bị thiếu hụt nguồn cung trong môi trường sống nhiều axit, lầy lội của nó.[11]

Các ký sinh trùng Entamoeba histolytica với hồng cầu ăn vào

Thực bàoSửa đổi

Thực bào là một không bào được hình thành xung quanh một hạt được hấp thụ bởi quá trình thực bào. Không bào được hình thành do sự hợp nhất của màng tế bào xung quanh hạt. Thực bào là một ngăn tế bào, trong đó vi sinh vật gây bệnh có thể bị tiêu diệt và tiêu hóa. Phagosomes hợp nhất với lysosome trong quá trình trưởng thành của chúng, tạo thành phagolysosome. Ở người, Entamoeba histolytica có thể thực bào hồng cầu.[12]

Các cơ quan và hành vi chuyên biệtSửa đổi

Để hỗ trợ quá trình tiêu hóa thức ăn của chúng, động vật đã tiến hóa các cơ quan như mỏ, lưỡi, răng, mề, và những cơ quan khác.

MỏSửa đổi

Chim có mỏ xương chuyên hóa theo ngách sinh thái của chim. Ví dụ, vẹt đuôi dài chủ yếu ăn hạt, quả hạch và trái cây, sử dụng chiếc mỏ ấn tượng của chúng để mở ngay cả những hạt cứng nhất. Đầu tiên chúng cào một đường mỏng bằng đầu nhọn của mỏ, sau đó chúng cắt hạt mở bằng hai bên mỏ.

Miệng của mực được trang bị một chiếc mỏ nhọn như sừng chủ yếu được làm từ các protein liên kết chéo. Nó được sử dụng để giết và xé con mồi thành những mảnh có thể kiểm soát được. Mỏ rất khỏe, nhưng không chứa bất kỳ khoáng chất nào, không giống như răng và hàm của nhiều sinh vật khác, kể cả các loài sinh vật biển.[13] Mỏ là bộ phận khó tiêu duy nhất của mực.

LưỡiSửa đổi

Lưỡi là cơ xương trên sàn miệng của hầu hết các động vật có xương sống, có nhiệm vụ điều khiển thức ăn để nhai (nhai) và nuốt (khử). Nó nhạy cảm và được giữ ẩm bởi nước bọt. Mặt dưới của lưỡi được bao phủ bởi một màng nhầy trơn. Lưỡi cũng có xúc giác để định vị và định vị các mảnh thức ăn cần nhai thêm. Lưỡi được sử dụng để cuộn các mảnh thức ăn thành một hình sợi nhỏ trước khi được vận chuyển xuống thực quản thông qua nhu động.

Vùng dưới lưỡi bên dưới mặt trước của lưỡi là vị trí mà niêm mạc miệng rất mỏng và được bao bọc bởi một đám rối tĩnh mạch. Đây là vị trí lý tưởng để đưa một số loại thuốc vào cơ thể. Đường dưới lưỡi tận dụng chất lượng mạch máu cao của khoang miệng, và cho phép đưa thuốc vào hệ thống tim mạch một cách nhanh chóng, bỏ qua đường tiêu hóa.

RăngSửa đổi

Răng là cấu trúc nhỏ màu trắng được tìm thấy trong hàm (hoặc miệng) của nhiều loài động vật có xương sống dùng để xé, cạo, vắt sữa và nhai thức ăn. Răng không được cấu tạo từ xương, mà là các mô có mật độ và độ cứng khác nhau, chẳng hạn như men răng, nhựa thông và xi măng. Răng của con người có nguồn cung cấp máu và dây thần kinh cho phép thụ thai. Đây là khả năng cảm nhận khi nhai, chẳng hạn nếu chúng ta cắn vào một thứ gì đó quá cứng đối với răng, chẳng hạn như một đĩa thức ăn bị mẻ, răng của chúng ta sẽ gửi một thông điệp đến não của chúng ta và chúng ta nhận ra rằng nó không thể nhai được, vì vậy chúng ta ngừng cố gắng.

Hình dạng, kích thước và số lượng các loại răng của động vật có liên quan đến chế độ ăn của chúng. Ví dụ, động vật ăn cỏ có một số răng hàm được sử dụng để nghiền thực vật khó tiêu hóa. Động vật ăn thịt có răng nanh dùng để giết mồi và xé thịt.

DiềuSửa đổi

Diều là một phần mở rộng có thành mỏng của đường tiêu hóa được sử dụng để lưu trữ thực phẩm trước khi tiêu hóa. Ở một số loài chim, nó là một túi cơ bắp, mở rộng gần miệng hoặc cổ họng. Ở chim bồ câu trưởng thành có thể sản xuất sữa diều để nuôi chim non mới nở.[14]

Hình minh họa sơ lược về hệ tiêu hóa của loài nhai lại

Manh tràngSửa đổi

Động vật ăn cỏ đã tiến hóa manh tràng (hoặc dạ múi khế trong trường hợp động vật nhai lại). Động vật nhai lại có bụng trước với bốn ngăn. Đây là dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách và dạ múi khế. Trong hai khoang đầu tiên, dạ cỏ và dạ tổ ong, thức ăn được trộn với nước bọt và phân tách thành các lớp vật chất rắn và lỏng. Chất rắn dính lại với nhau để tạo thành cục thức ăn lớn. Các cục thức ăn lớn sau đó được làm mềm chảy ra, nhai từ từ để trộn hoàn toàn với nước bọt và phá vỡ kích thước hạt.

Chất xơ, đặc biệt là xenluloza và hemi-xenluloza, chủ yếu được phân hủy thành các axit béo dễ bay hơi, axit axetic, axit propionic và axit butyric trong các khoang này (màng lưới) bởi các vi sinh vật: (vi khuẩn, động vật nguyên sinh và nấm). Trong dạ lá sách, nước và nhiều nguyên tố khoáng vô cơ được hấp thụ vào máu.

Dạ múi khế là ngăn dạ dày thứ tư và cuối cùng ở động vật nhai lại. Nó gần tương đương với dạ dày đơn (ví dụ như ở người hoặc lợn), và dạ dày tiêu hóa được xử lý ở đây theo cùng một cách. Nó phục vụ chủ yếu như một nơi để thủy phân axit của protein vi sinh vật và chế độ ăn uống, chuẩn bị các nguồn protein này để tiếp tục tiêu hóa và hấp thụ trong ruột non. Chất tiêu hóa cuối cùng được chuyển đến ruột non, nơi diễn ra quá trình tiêu hóa và hấp thụ chất dinh dưỡng. Các vi sinh vật sinh ra trong dạ cỏ cũng được tiêu hóa ở ruột non.

Một con ruồi đang "thổi bong bóng", có thể đang nén thức ăn bằng cách làm bay hơi nước

Hành vi chuyên biệtSửa đổi

Hành vi ợ đã được đề cập ở trên trong dạ túi khế và diều, đề cập đến sữa diều, một chất tiết ra từ lớp lót của diều của chim bồ câu mà chim bố mẹ nuôi con bằng cách ợ ra ngoài.[15]

Nhiều loài cá mập có khả năng lộn dạ dày từ trong ra ngoài và đưa nó ra khỏi miệng để loại bỏ những thứ không mong muốn (có lẽ được phát triển như một cách để giảm tiếp xúc với chất độc).

Các động vật khác, chẳng hạn như thỏ và động vật gặm nhấm, thực hành hành vi ăn phân - hành vi ăn phân chuyên biệt để tiêu hóa lại thức ăn, đặc biệt là trong trường hợp thức ăn thô. Capybara, thỏ, chuột đồng và các loài có liên quan khác không có hệ tiêu hóa phức tạp như động vật nhai lại. Thay vào đó, chúng hút nhiều dinh dưỡng hơn từ cỏ bằng cách cho thức ăn của chúng đi qua đường ruột lần thứ hai. Phân mềm của thức ăn đã tiêu hóa một phần được thải ra ngoài và thường được tiêu thụ ngay lập tức. Chúng cũng tạo ra phân bình thường, mà chúng không ăn.

Voi con, gấu trúc, gấu túi và hà mã ăn phân của mẹ chúng, có lẽ để lấy vi khuẩn cần thiết để tiêu hóa thực vật đúng cách. Khi chúng được sinh ra, ruột của chúng không chứa những vi khuẩn này (chúng hoàn toàn vô trùng). Nếu không có các vi khuẩn này, chúng sẽ không thể nhận được bất kỳ giá trị dinh dưỡng nào từ nhiều thành phần thực vật.

Trong giun đấtSửa đổi

Hệ tiêu hóa của giun đất bao gồm miệng, hầu, thực quản, màng, mề và ruột. Miệng được bao quanh bởi đôi môi chắc khỏe, hoạt động giống như một bàn tay nắm lấy những mẩu cỏ chết, lá cây và cỏ dại, với những mảnh đất để giúp nhai. Môi sẽ chia nhỏ thức ăn thành nhiều mảnh nhỏ hơn. Trong hầu họng, thức ăn được bôi trơn bởi các chất tiết nhầy để đi qua dễ dàng hơn. Thực quản bổ sung calci cacbonat để trung hòa các axit hình thành do sự phân hủy vật chất thực phẩm. Dự trữ tạm thời xảy ra trong vụ mùa nơi thức ăn và calci cacbonat được trộn lẫn. Các cơ mạnh mẽ của mề hoạt động và trộn lẫn khối lượng thức ăn và chất bẩn. Khi quá trình khuấy hoàn tất, các tuyến trong thành mề sẽ bổ sung các enzym tạo thành hỗn hợp đặc sệt, giúp phân hủy chất hữu cơ về mặt hóa học. Theo nhu động, hỗn hợp được đưa đến ruột, nơi các vi khuẩn thân thiện tiếp tục phân hủy hóa học. Điều này giải phóng carbohydrate, protein, chất béo và các vitamin và khoáng chất khác nhau để hấp thụ vào cơ thể.