Tại sao đến năm 1986 đổi mới đất nước là yêu cầu bức thiết sống còn của Việt Nam

Chúng ta đều biết, cuộc khủng hoảng kinh tế của Việt Nam đã nảy sinh từ cuối thập niên 1970 do cải tạo tư sản ở miền Nam đã đi quá đà. Rồi thì do chiến tranh biên giới Tây Nam và sau đó lan ra biên giới phía Bắc buộc chúng ta phải đối phó vô cùng tốn kém tài lực.

Tại sao đến năm 1986 đổi mới đất nước là yêu cầu bức thiết sống còn của Việt Nam
Cố Tổng bí thư Trường Chinh đang thăm hỏi các chiến sĩ nông nghiệp tại Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua công nông binh toàn quốc lần 2 - Ảnh: TTXVN

Kéo dài gần 10 năm trời, khủng hoảng càng gay gắt hơn sau khi cuộc đổi tiền năm 1985 thất bại và trở thành gánh nặng cho nền kinh tế...

Trước tình trạng khó khăn triền miên về kinh tế của đất nước, ngay từ năm 1984, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh đã có những chuyến "vi hành" thực sự bổ ích ở rất nhiều địa phương trong cả nước. Ông đã thấy được cả cái hay lẫn cái dở của nó dưới cơ sở. Đồng chí, đồng bào cả nước gửi lên ông những lá thư tâm huyết, đọc mà không thể cầm nổi nước mắt. Họ nói lên nỗi cơ cực của địa phương, đơn vị mình đang gặp phải. Đó là những bế tắc, những rào cản của cơ chế cũ đã tỏ ra lỗi thời cần sớm thay đổi...Tất cả buộc ông phải nhìn lại và cho rằng đó chính là những sai lầm tả khuynh duy ý chí của một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu quá trì trệ.

Phát biểu tại một hội nghị cán bộ cao cấp ngày 10.7.1986, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh khi đó đã thẳng thắn nêu vấn đề: “Trong lúc này chúng ta chỉ có hai khả năng lựa chọn: đổi mới để tiến lên hay đi theo con đường cũ để chết?”. Rồi ông đã phân tích, chỉ ra những sai lầm: “Chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội quý báu... Liên Xô viện trợ trong mười năm qua hàng chục tỉ rúp, nhưng với cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, ăn không nên làm không ra, chúng ta cứ rút dần, rút mòn mỗi năm vài trăm triệu rúp để chi cho tiêu dùng xã hội, cho bao cấp và bù lỗ, vài trăm triệu rúp khác thì rải ra trên rất nhiều công trình xây dựng”.

Đây quả là một câu chuyện khó lý giải ở một nhà lý luận tư tưởng vốn bị ấn tượng một thời là người có "tư tưởng bảo thủ" như ông.

Năm 1986, khi đó tôi đang làm báo trong quân đội với cấp quân hàm đại uý. Tuy lương và phụ cấp cao nhưng cuộc sống chẳng dễ chịu gì cho dù chưa phải nuôi ai. Tôi nhớ, để tiết kiệm được món tiền tậu một chiếc xe đạp nội cà tàng khung Sài Gòn thôi, tôi phải chắt bóp hàng năm trời mới mua nổi nó. Khi ấy, ra các cửa hàng kim khí ở Hà Nội chầu chực để mua dần dần từng thứ phụ tùng vào mỗi sáng chủ nhật rảnh rỗi. Phải xếp hàng dài và chen lấn đến dễ sợ, vậy mà nhiều khi đến lượt lại hết hàng... Cơ chế của một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và quan liêu đã cản trở xã hội phát triển trong thời bình quả là ghê gớm.

Ông Đặng Xuân Kỳ, con trai cả của ông Trường Chinh, phó Viện trưởng Viện Triết học thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội (sau Đại hội 6 thì ông Đặng Xuân Kỳ là Ủy viên dự khuyết T.Ư Đảng rồi khoá 7 là Ủy viên T.Ư Đảng) kể với tôi việc ông đã tham gia giúp cha mình cùng một nhóm chuyên gia giỏi hình thành tư duy ban đầu cho công cuộc Đổi mới.

Giai đoạn đó, cha ông đã trưng tập các nhà khoa học có khát vọng đổi mới đến dinh Chủ tịch nước 1-2 ngày mỗi tuần để thảo luận những gì họ tìm hiểu và thu hoạch được từ thực tế đời sống đang bề bộn khó khăn, thậm chí bế tắc. Tổ nghiên cứu, giúp việc cho ông Trường Chinh lúc đó chỉ có rất ít người chuyên trách mà hầu như chỉ là kiêm nhiệm.

Như vậy, Đại hội 6 được tiến hành trong bối cảnh rất xấu, khi mà tất cả lĩnh vực kinh tế đều lâm vào tình trạng khủng hoảng và lòng dân thì không yên.

Thời gian này, Tổng bí thư Lê Duẩn đang lâm trọng bệnh mà việc chuẩn bị nội dung văn kiện và nhân sự cho Đại hội 6 thì chẳng còn bao nhiêu thời gian. Sau khi ông Lê Duẩn qua đời, ông Trường Chinh được Trung ương bầu giữ chức Tổng bí thư (14.7.1986) khi đã 79 tuổi, cái tuổi đã gấp đôi so với thời ông lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám thành công vào năm 1945.

Ông mạnh tay giải quyết một loạt vấn đề cả về tổ chức lẫn về thay đổi quan điểm, tư duy kinh tế chuẩn bị cho Đại hội 6. Thời gian Đại hội thì đã cận kề, chỉ còn 5 tháng, song ông quyết định viết lại toàn bộ văn kiện Đại hội. Ông nêu những băn khoăn rất đúng: tại sao trong công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội vẫn thấy tên nhưng vị lãnh đạo đã từng mắc sai lầm trong cải cách giá - lương - tiền, trong khi đó những người có tư tưởng đổi mới đổi mới thì vắng bóng trong đề cử?

Một êkip mới các chuyên gia giỏi về nhiều lĩnh vực được điều động về Văn phòng Trung ương để viết lại dự thảo báo cáo chính trị đã được hình thành. Bộ phận này do ông Hoàng Tùng, Bí thư Trung ương Đảng trực tiếp phụ trách và nằm dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng bí thư Trường Chinh. Một cách làm chưa có tiền lệ.

Phát "pháo lệnh" đầu tiên dọn đường cho tư tưởng Đổi mới được TBT Trường Chinh đưa ra khi ông đến dự Đại hội Đảng bộ Hà Nội lần thứ 10 (10.1986). Tại đây, lần đầu tiên ông chính thức phát đi thông điệp: " Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có tầm quan trọng sống còn. Yêu cầu đó vừa là đòi hỏi bên trong của nước ta, vừa phù hợp với xu thế của thời đại...."

Hồi ký của giáo sư triết học Trần Nhâm, người thư ký riêng (nay gọi là trợ lý) của TBT Trường Chinh, đồng thời là người tham gia trong tổ nghiên cứu đặc biệt phục vụ đề án đổi mới do ông Trường Chinh trực tiếp chỉ đạo đã nhận xét: "Trong một thời điểm bước ngoặt, tất yếu sẽ xuất hiện các nhân vật lịch sử có chí lớn, có trí tuệ hơn người để giải quyết các vấn đề trọng đại mà cuộc sống đặt ra. Trường Chinh chính là con người như thế..." (Trường Chinh, một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam- NXB Chính trị QG; HN.2012-trang 432).

Đổi mới năm 1986: Bài học từ đổi mới tư duy của Đảng

Quyết định Đổi mới của Đảng ta năm 1986 được xem như bước ngoặt quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Tại sao đến năm 1986 đổi mới đất nước là yêu cầu bức thiết sống còn của Việt Nam
Người dân xếp hàng mua đồ thời bao cấp.

Sau hơn 34 năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng 6, dù phải trải qua nhiều khó khăn thách thức, tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước đã có những bước phát triển trên tất cả các lĩnh vực; đời sống nhân dân được cải thiện, nền kinh tế hội nhập sâu rộng với thế giới.

Kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng, ôn lại một chặng đường lịch sử, một cột mốc đánh dấu đổi mới trong tư duy, phương thức lãnh đạo của Đảng để rút ra những bài học thực tiễn luôn luôn cần thiết trong bất kỳ giai đoạn nào của cách mạng Việt Nam.

Đã 34 năm trôi qua nhưng đến nay nhiều người vẫn còn giữ những tờ tem phiếu, sổ gạo ngả màu ố vàng như để nhắc về quãng thời gian mà người ta quen gọi là “thời bao cấp”. Thời kỳ đó, người ta thèm cả bát cơm trắng và đủ thứ: chiếc bút trơn tru, tờ giấy trắng, chiếc lốp xe chưa vá, chiếc xích xe còn mới... Nhắc lại như vậy là để khẳng định: với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng khách quan, Đảng ta đã có quyết định mang tính cách mạng, đột phá về thực hiện đường lối Đổi mới toàn diện, sâu sắc, coi đó là “mệnh lệnh của cuộc sống”.

Ông Nguyễn Văn Bình, quận Cầu Giấy, Hà Nội nhớ lại:“Thời bao cấp là thời điểm lịch sử. Ai cũng phải lao động sản xuất tạo ra sản phẩm. Thời bao cấp không được luân chuyển, lưu chuyển, hạn chế rất nhiều. Chính vì thế xóa bỏ bao cấp đáp ứng được đời sống lao động của nhân dân”.

Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta vô cùng khó khăn. Chúng ta bị các nước bao vây cấm vận. Liên Xô và Đông Âu bắt đầu cải cách mở cửa nên cắt giảm viện trợ. Trong nước sản xuất đình đốn, đời sống nhân dân đói nghèo đến cùng cực. Tiềm lực kinh tế vô cùng nhỏ bé. Trước tình đó, Tổng Bí thư Trường Chinh tiến hành các cuộc khảo sát thực tế và tập hợp các nhà khoa học để tư vấn. Từ đó nhận ra, đã đến lúc phải đổi mới tư duy về lý luận cũng như tư duy kinh tế. Đó là phải xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, phải có cơ chế tự hoặch toán, tự chủ tài chính, phải bắt đầu áp dụng nền kinh tế có sự quản lý của nhà nước.

Đại hội Đảng lần thứ 6 (tháng 12 năm 1986), khi đề ra đường lối đổi mới, Đảng bắt đầu từ việc đổi mới tư duy, mà “trước hết là tư duy kinh tế”. Kinh tế được điều tiết theo chuyển động thị trường - vấn đề tưởng như là nguyên lý nhưng đặt vào bối cảnh khởi động Đổi mới năm 1986 khi đất nước đang lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, mới thấy hết giá trị mang tính mở đường, tính mới mẻ và hiện đại của những chủ trương chưa từng có trong tư duy của những người Cộng sản.

Giáo sư, Tiến sỹ Mạch Quang Thắng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng, đây là những bước ngoặt lớn trong tư duy lãnh đạo. Chính đổi mới đã khơi dậy sức mạnh toàn dân, giải phóng sức lao động và đưa đến những thành công như hôm nay.

Tại sao đến năm 1986 đổi mới đất nước là yêu cầu bức thiết sống còn của Việt Nam
Sau 34 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt nhiều thành tựu và vị thế được nâng cao
“Đây là mốc lớn đánh dấu việc chính thức đổi mới của Đảng ta. Tôi nói chính thức bởi vì trước đó đã có những bước đổi mới từng phần, tổng kết từ trước đó cho đến Đại hội 6 vào tháng 12 năm 1986 Đảng có báo cáo chính trị, Nghị quyết Đại hội chính thức để ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Mốc Đại hội 6 cực kỳ quan trọng, nhìn thẳng vào sự thật nói rõ sự thật, nói đúng sự thật và nhấn xoáy vào điểm là đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy khó lắm, tức là đổi mới cái đầu của mình. Tư duy ở đây trước hết là tư duy về kinh tế. Đảng ta đang đi đúng trọng tâm của nó”- GSTS Mạch Quang Thắng cho biết.

Đổi mới ở nước ta xuất phát từ sự năng động của nhân dân, mà bắt đầu là từ thực tế của gần 100 cuộc “phá rào” kinh tế trước đó. Tiêu biểu như chính sách khoán của Vĩnh Phúc tạo điều kiện cho nông dân làm chủ trên đồng ruộng của mình; là mô hình phân phối thu mua ở Long An theo giá thoả thuận, hay sự bung ra của thành phố Hồ Chí Minh với việc thương nhân đứng ra thu gom những mặt hàng có thể xuất khẩu để trao đổi trực tiếp với nước ngoài…

Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Lê Quốc Lý, Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh thì không ai có thể phủ nhận được vai trò to lớn của Ðảng là người khởi xướng và lãnh đạo đổi mới, nhưng nếu nói đổi mới là công việc của riêng cán bộ, đảng viên mà không phải là của nhân dân ta thì dù có tài giỏi đến mấy cũng không thể thành công. Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Ðảng.

Hơn 30 năm qua, sự nghiệp đổi mới đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng (tháng 1 năm 2016) đánh giá: “Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Đổi mới là một quá trình cách mạng. Quá trình đó đã diễn ra trên đất nước ta từ năm 1986 và vẫn tiếp diễn. Đảng viên và nhân dân tin tưởng ở Đại hội 13 của Đảng sắp tới sẽ tạo ra động lực mới để phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng, nhắc lại dấu son Đại hội 6 của Đảng và những thành tựu “to lớn và có ý nghĩa lịch sử” qua 34 năm đổi mới để càng vững tin và kiên định vào con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn./.

Theo vov.vn