Tại sao khi trả cổ tức giá cổ phiếu giảm

Vài tháng cổ phiếu mới về tài khoản

Cổ tức là khoản lợi nhuận sau thuế của công ty dành trả các cổ đông hiện hữu. Công ty cổ phần có thể trả cổ tức bằng tiền, cổ phiếu hoặc các tài sản khác. Nếu nhận cổ tức bằng tiền, cổ đông bị đánh thuế thu nhập cá nhân 5% ngay khi công ty thực hiện chi trả thì với việc nhận cổ phiếu, cổ đông bị đánh thuế khi bán cổ phiếu.

Trên thị trường chứng khoán, có nhiều doanh nghiệp ưa thích trả cổ tức bằng cổ phiếu do số cổ phần công ty tăng lên, nhưng không làm ảnh hưởng đến tỷ lệ quyền sở hữu của mỗi cổ đông hiện hành và tổng tài sản công ty không giảm như khi chia bằng tiền, trong khi doanh nghiệp có thêm nguồn tiền mặt để phục vụ hoạt động sản xuất - kinh doanh.

Thực tế, nhà đầu tư không mặn mà với hình thức nhận cổ tức này, nhất là khi không ít doanh nghiệp chốt danh sách trả cổ tức bằng cổ phiếu nhưng cổ đông rất lâu sau mới nhận được cổ phiếu.

Anh Phan Văn Chí, nhà đầu tư lâu năm chia sẻ: “Cổ phiếu trả cổ tức thường sau vài tháng mới về tài khoản nên trước ngày chốt quyền hưởng cổ tức, tôi lập tức bán cổ phiếu vì không muốn chịu cảnh có thể gặp rủi ro trong thời gian dài đó”.

Theo ông Nguyễn Kim Long, Giám đốc Pháp chế và Kiểm soát nội bộ, Công ty Chứng khoán SSI, quy trình trả cổ tức bằng cổ phiếu phải qua nhiều bước, sau khi có nghị quyết đại hội đồng cổ đông về việc trả cổ tức bằng cổ phiếu, tổ chức phát hành nộp báo cáo phát hành đến Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.

Khi được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thông báo nhận đủ hồ sơ, doanh nghiệp mới có thể thông báo chốt danh sách cổ đông hưởng quyền. Tại ngày giao dịch không hưởng quyền, cổ phiếu giao dịch trên sàn sẽ bị điều chỉnh giá tham chiếu tương ứng với tỷ lệ cổ tức được nhận.

Sau khi có danh sách cổ đông được hưởng quyền nhận cổ tức bằng cổ phiếu từ Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam, tổ chức phát hành báo cáo kết quả phát hành với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, làm các thủ tục lưu ký bổ sung, đăng ký niêm yết bổ sung số cổ phiếu mới phát hành để trả cổ tức, đăng ký tăng vốn điều lệ tại Cơ quan đăng ký kinh doanh.

“Khi Sở giao dịch chứng khoán chấp thuận niêm yết bổ sung thì tổ chức phát hành đăng ký ngày giao dịch bổ sung số cổ phiếu mới phát hành để trả cổ tức. Tại ngày giao dịch bổ sung, cổ đông nhận cổ tức mới có thể giao dịch số cổ phiếu mới. Quá trình này diễn ra tuần tự và có thể kéo dài nếu tổ chức phát hành không có nhiều kinh nghiệm chuẩn bị hồ sơ. Một số tổ chức có kinh nghiệm có thể chuẩn bị hồ sơ các bước song song, rút ngắn được khoảng thời gian từ ngày chốt quyền đến ngày cổ phiếu chính thức được giao dịch”, ông Long cho biết thêm.

Quy định pháp luật về việc trả cổ tức không có nhiều thay đổi. Theo Khoản 4, Điều 135, Luật Doanh nghiệp 2020, cổ tức phải được thanh toán đầy đủ trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày kết thúc họp đại hội đồng cổ đông thường niên.

Hội đồng quản trị lập danh sách cổ đông được nhận cổ tức, xác định mức cổ tức được trả đối với từng cổ phần, thời hạn và hình thức trả chậm nhất là 30 ngày trước mỗi lần trả cổ tức.

Thông báo về trả cổ tức được gửi bằng phương thức để bảo đảm đến cổ đông theo địa chỉ đăng ký trong sổ đăng ký cổ đông chậm nhất là 15 ngày trước khi thực hiện trả cổ tức.

Ông Nguyễn Kim Long cho rằng, quy định tại Khoản 4, Điều 135, Luật Doanh nghiệp không phân biệt cổ tức bằng tiền hay cổ tức bằng cổ phiếu.

“Do vậy, tôi nghĩ rằng, có thể áp dụng thời hạn 6 tháng cho trường hợp trả cổ tức bằng cổ phiếu mà không cần phải có quy định thêm”, ông Long nói.

Kiến nghị chưa đánh thuế cổ tức bằng cổ phiếu

Bên cạnh việc ấm ức vì thời gian chi trả kéo dài, các nhà đầu tư đều ngán ngẩm vì nhận cổ tức bằng cổ phiếu cũng bị đánh thuế thu nhập cá nhân ở mức 5% dù không phát sinh thu nhập, vì số lượng cổ phiếu tăng thêm bao nhiêu phần trăm thì giá trị mỗi cổ phiếu giảm đi bấy nhiêu phần trăm, bởi giá trị công ty không thay đổi.

Theo Nghị định 126/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế, đối với cá nhân nhận cổ tức bằng chứng khoán, cá nhân là cổ đông hiện hữu nhận thưởng bằng chứng khoán, tổ chức có trách nhiệm khai thuế thay và nộp thuế thay cho cá nhân đối với thu nhập từ đầu tư vốn khi chuyển nhượng chứng khoán cùng loại là công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại, hoặc tổ chức phát hành, tùy từng trường hợp.

Đối với chứng khoán thông qua hệ thống giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán thì tổ chức khai thuế thay và nộp thuế thay là công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại nơi cá nhân mở tài khoản lưu ký, công ty quản lý quỹ nơi cá nhân ủy thác danh mục đầu tư.

Đối với chứng khoán không thông qua hệ thống giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán thì tổ chức khai thuế thay và nộp thuế thay như sau: chứng khoán của công ty đại chúng đã đăng ký chứng khoán tập trung tại Trung tâm Lưu ký chứng khoán thì tổ chức khai thuế thay và nộp thuế thay là công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại nơi cá nhân mở tài khoản lưu ký chứng khoán.

Chứng khoán của công ty cổ phần chưa là công ty đại chúng nhưng tổ chức phát hành chứng khoán ủy quyền cho công ty chứng khoán quản lý danh sách cổ đông thì tổ chức khai thuế thay và nộp thuế thay là công ty chứng khoán được ủy quyền quản lý danh sách cổ đông; chứng khoán không thuộc trường hợp quy định nêu tại đoạn này thì tổ chức khai thuế thay và nộp thuế thay là tổ chức phát hành chứng khoán.

Đối với cá nhân được ghi nhận phần vốn tăng thêm do lợi tức ghi tăng vốn thì tổ chức nơi cá nhân có vốn góp có trách nhiệm khai thuế thay, nộp thuế thay cho cá nhân đối với thu nhập từ đầu tư vốn khi cá nhân chuyển nhượng vốn, rút vốn.

Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam, Hiệp hội Kinh doanh chứng khoán, Câu lạc bộ Các công ty quản lý quỹ, Câu lạc bộ Các công ty niêm yết vừa có ý kiến đề xuất chưa nên áp dụng các sắc thuế này.

Các hiệp hội cho rằng, trả cổ tức bằng cổ phiếu hay trả cổ phiếu thưởng là để giúp doanh nghiệp hạn chế trả bằng tiền mặt, có khoản lợi nhuận được giữ lại để đầu tư mở rộng sản xuất - kinh doanh.

Thuế đánh vào cổ tức trả bằng cổ phiếu và cổ phiếu thưởng khiến đông đảo nhà đầu tư giảm nhiệt tình với hình thức chi trả này nói riêng, kênh đầu chứng khoán nói chung vì sợ thiệt đơn thiệt kép, mức thuế cao và không có thu nhập, thậm chí thua lỗ cũng phải nộp thuế (cổ phiếu trả cổ tức khi về tài khoản giảm giá so với giá tham chiếu trong ngày giao dịch không hưởng quyền khiến nhà đầu tư thua lỗ, nhưng vẫn phải nộp thuế).

Theo đó, các nhà đầu tư sẽ đòi hỏi các doanh nghiệp phải chia cổ tức tiền mặt nhiều hơn, hạn chế hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu và cổ phiếu thưởng. Như vậy, nguồn lực tái đầu tư để phát triển, mở rộng sản xuất - kinh doanh bị hạn chế, các doanh nghiệp có thể phải vay nợ nhiều hơn.

Ngoài ra, với các doanh nghiệp đang “khát” vốn tự có như hệ thống ngân hàng cổ phần trong nước, thu thuế cổ tức bằng cổ phiếu sẽ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu ngân hàng và các ngân hàng sẽ gặp khó khăn khi tăng vốn điều lệ từ nguồn lợi nhuận sau thuế.

Theo các hiệp hội, việc đánh thuế còn cản trở cơ chế huy động vốn hàng năm và thường xuyên của các doanh nghiệp, hệ thống ngân hàng trong nước sẽ gặp khó khăn khi đang cần giữ lại nhiều lợi nhuận sau thuế để xử lý nợ xấu.

Chính sách cổ tức luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư khi đưa ra quyết. Cổ tức có thể ảnh hưởng đến giá cổ phiếu cơ sở của một công ty theo nhiều cách khác nhau. Đối với các nhà đầu tư, cổ tức đóng vai trò là một nguồn thu nhập đầu tư phổ biến. Đối với công ty phát hành, chúng là một cách để phân phối lại lợi nhuận cho các cổ đông. Bởi vì dòng tiền chi trả cổ tức có nguồn gốc từ lợi nhuận giữ lại của một công ty, chỉ những công ty có lợi nhuận đáng kể mới có khả năng thực hiện chi trả cổ tức

Có 2 hình thức chia cổ tức phổ biến: Chia cổ tức bằng tiền mặt và chia cổ tức bằng cổ phiếu. Trong cả hai trường hợp số lượng cổ tức mà nhà đầu tư nhận được phụ thuộc vào số lượng cổ phần mà họ sở hữu.

TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG VỀ CHIA CỔ TỨC

Đa số các nhà đầu tư tham gia trên thị trường đều ưa thích một công ty có lịch sử chi trả cổ tức ổn định. các công ty làm được điều này được xem là có sức khỏe tài chính tốt. Cổ phiếu của các công ty này thu hút được sự chú ý của nhiều nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư có ý định mua và nắm giữ dể hưởng lợi từ cổ tức. Khi nhiều nhà đầu tư mua vào để tận dụng lợi ích này của việc sở hữu cổ phiếu, giá cổ phiếu sẽ tăng lên. Khi một công ty công bố tỷ lệ chi trả cổ tức cao hơn bình thường giá cổ phiếu có xu hướng tăng mạnh.

Ngược lại, Khi tỷ lệ chi trả cổ tức thấp hơn bình thường hoặc không thực hiện chi trả cổ tức. Đây có thể là một dấu hiệu cho thấy công ty đang gặp khó khăn. Tuy nhiên trên thực tế tỷ lệ chi trả cổ tức thấp hoặc không chi trả cổ tức có thể đến từ việc công ty sử dụng lợi nhuận mục đích khác như mở rộng sản xuất.

ẢNH HƯỞNG CỦA TUYÊN BỐ CHI TRẢ CỔ TỨC LÊN GIÁ CỔ PHIẾU

Trước khi thực hiện chi trả cổ tức doanh nghiệp thường công bố tỷ lệ chi trả cổ tức và ngày chi trả cổ tức. Các khoản thời gian được công bố bao gồm: Ngày giao dịch không được hưởng quyền, Ngày đăng ký cuối cùng và ngày thanh toán cổ tức. Ngày giao dịch không hưởng quyền là ngày giao dịch mà nhà đầu tư mua chứng khoán sẽ không được hưởng quyền lợi của cổ đông như quyền nhận cổ tức, quyền mua cổ phiếu phát hành thêm. Ngày đăng ký cuối cùng là ngày chốt danh sách cổ đông, tại ngày đăng ký cuối cùng nếu nhà đầu tư có tên trong danh sách sẽ được nhận các quyền lợi của cổ đông như cổ tức, quyền mua cổ phiếu. Ngày thanh toán là ngày cổ tức bằng tiền mặt hoặc cổ tức bằng cổ phiếu sẽ được trả về tài khoản chứng khoán của nhà đầu tư.

Thông thường, giá cổ phiếu sẽ tăng cao sau ngày công bố cổ tức và trước ngày giao dịch không hưởng quyền / ngày chốt quyền. Vì nhà đầu tư biết rằng họ sẽ nhận được cổ tức nếu mua cổ phiếu trước ngày giao dịch. Cầu tăng cao thúc đẩy giá cổ phiếu tăng lên. Một số nhà đầu tư mua cổ phiếu sát ngày chốt quyền và sau đó bán lại ngay. Đây được xem là một chiến thuật có thể mang lại lợi nhuận hấp dẫn cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp.

CÁC LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH GIẢI THÍCH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CỔ TỨC VÀ CỔ PHIẾU

Mô hình chiết khấu cổ tức

Mô hình chiết khấu cổ tức cho rằng giá cổ phiếu hiện tại bằng giá trị hiện tại của tất cả các khoản thanh toán cổ tức trong tương lai. Khi giá trị hiện tại tăng, giá cổ phiếu tăng. Do đó, cổ tức cao hơn chuyển trực tiếp vào giá cổ phiếu cao hơn. Tuy nhiên, có vấn đề với mô hình. Nó không giải thích giá của cổ phiếu không chia cổ tức, và nó hy vọng rằng tốc độ tăng trưởng lợi nhuận vốn sẽ luôn ổn định và không vượt quá tỷ suất lợi nhuận yêu cầu của nhà đầu tư, được gọi là chi phí vốn.

Định lý Modigliani-Miller

Định lý Modigliani-Miller tuyên bố rằng các cổ đông không quan tâm đến việc phân chia lợi nhuận giữ lại thành cổ tức và các khoản đầu tư mới. Nếu đúng, nó dự đoán rằng số tiền thu nhập giữ lại được chi cho cổ tức, vốn làm tăng giá cổ phiếu, được bù đắp bởi tác động của việc phát hành cổ phiếu mới để thay thế số tiền chi cho cổ tức, điều này làm giảm giá cổ phiếu. Mô hình này không xem xét việc sử dụng nợ thay vì phát hành cổ phiếu mới. Định lý MM kết luận rằng chính sách cổ tức không ảnh hưởng đến giá cổ phiếu.

Hiệu ứng Clientele

Hiệu ứng khách hàng là sự thừa nhận rằng các nhà đầu tư theo định hướng thu nhập bị thu hút bởi cổ phiếu trả cổ tức, trong khi những người ít rủi ro bất lợi lại thích tăng vốn. Do đó, nếu một công ty thực hiện những thay đổi đáng kể đối với chính sách cổ tức của mình, một số cổ đông sẽ chấp thuận và có thể mua thêm cổ phiếu, trong khi các cổ đông khác sẽ bán cổ phiếu của họ và tìm những cổ đông khác theo ý thích của họ.

Hiệu ứng tín hiệu

Lý thuyết này cho rằng việc tăng tỷ lệ cổ tức nên được xem như một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm của hội đồng quản trị về triển vọng tăng trưởng và thu nhập của công ty. Nếu hội đồng quản trị nghĩ rằng công ty sẽ thiếu tiền, họ sẽ cắt giảm cổ tức thay vì tăng chúng. Vì ban giám đốc là người biết rõ nhất về công ty nên các tín hiệu tích cực mà công ty gửi đi sẽ được các nhà đầu tư xem như một lý do để mua cổ phiếu và do đó tăng giá cổ phiếu.

Video liên quan

Chủ đề