Tại sao nói hoạt động là phạm trù cốt lời của tâm lý học

SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC
PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC
MỞ ĐẦU
Tâm lý học ngày nay là lĩnh vực phát triển năng động, trở thành bộ môn
khoa học tổng hợp nghiên cứu tâm lý, ý thức con người. Trong quá trình phát
triển, tâm lý học không chỉ bổ sung thêm những tri thức mới, nội dung, đặc điểm,
quy luật, cơ chế vận động của tâm lý, ý thức mà còn xây dựng các khái niệm,
phạm trù làm công cụ để nghiên cứu đối tượng. Phạm trù tâm lý học là những
khái niệm tâm lý lớn nhất, bao quát nhất, phản ánh những mặt, những đặc tinh
căn bản, những phương diện, quan hệ phổ biến nhất của các hiện tượng tâm lý
trong đời sống của chủ thể. Từ những khái niệm, phạm trù đơn lẻ ban đầu, hiện
nay, tâm lý học đã xây dựng nên hệ thống phạm trù có cấu trúc và các mối quan
hệ qua lại chặt chẽ với nhau, thúc đẩy nhau phát triển. Hệ thống phạm trù tâm lý
học cung cấp phương tiện và công cụ để các chủ thể phản ánh các hiện tượng tâm
lý vốn rất phức tạp, hết sức đa dạng trong đời sống hiện thực, đồng thời phát triển
khả năng tư duy khoa học tâm lý một cách có hệ thống và có căn cứ. Tâm lý học
hiện nay thể hiện những vấn đề quan trọng nhất của mình qua các phạm trù cơ
bản là: phản ánh, hoạt động, nhân cách, giao tiếp. Dưới đây sẽ lần lượt nghiên
cứu các phạm trù đó.
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC PHẠM TRÙ TÂM LÝ
HỌC
Các phạm trù của tâm lý học có lịch sử phát triển lâu dài cùng với sự phát
triển của bản thân Tâm lý học. Hệ thống các phạm trù tâm lý học hiện nay là kết
quả nghiên cứu, khái quát hoá hiện tượng tâm lý của nhiều thế hệ các nhà tâm lý
học, triết học, xã hội học...Nó không chỉ phản ánh đặc điểm các giai đoạn phát
triển khác nhau của tâm lý học (giai đoạn tiền khoa học, giai đoạn tâm lý học
phát triển trong lòng triết học, giai đoạn tâm lý học trở thành khoa học độc lập)
mà còn phản ánh sự phát triển của bản thân hệ thống phạm trù tâm lý học. Trong
từng giai đoạn, các phạm trù tâm lý học đã đóng vai trò công cụ nhận thức khái
1

quát những hiện tượng tâm lý, phản ánh nhu cầu về tri thức tâm lý của đời sống
hiện thực, gắn liền với sự phát triển xã hội ở một giai đoạn cụ thể với những điều
kiện kinh tế - xã hội tương ứng. Cùng với sự phát triển của lịch sử tâm lý học, nội
dung các phạm trù tâm lý học cũng được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện. Các phạm
trù tâm lý học là sự khái quát dưới hình thức lý luận các hiện tượng tâm lý trong
đời sống hiện thực và những quan niệm của con người về hiện tượng đó. Vì vậy,
ngoài ý nghĩa thông tin các nội dung cơ bản của tâm lý học nó còn phản ánh cả
quan điểm, thái độ của nhà tâm lý, sự nhận định, đánh giá của họ về hiện tượng
tâm lý. Theo lịch sử của tâm lý học, có thể chia ra hai giai đoạn hình thành của
phạm trù tâm lý học. Giai đoạn thứ nhất, tâm lý học lấy một phạm trù làm trung
tâm để giải thích và nghiên cứu hiện tượng tâm lý. Giai đoạn thứ hai, tâm lý học
lấy nhiều phạm trù (hệ thống phạm trù) để xây dựng phương pháp luận nghiên
cứu.
1- Giai đoạn thứ nhất: Tâm lý học lấy một phạm trù làm trung tâm để giải
thích toàn bộ đời sống tâm lý. Giai đoạn này bắt đầu từ thời kỳ cổ đại đến hết thời
kỳ khủng hoảng của tâm lý học, tức là vào những năm 20- 30 của thế kỷ XX.
Trong giai đoạn này, ở mỗi thời kỳ lại lấy một phạm trù tâm lý làm trung tâm. Đó
là các phạm trù: tâm hồn, ý thức, hành vi.
a. Phạm trù tâm hồn: Lịch sử phát triển nhân loại cho thấy, con người bắt
đầu quan tâm nghiên cứu hiện tượng tâm lý ngay từ thời xa xưa. Tuy nhiên, các
khái niệm, phạm trù của tâm lý học chỉ bắt đầu xuất hiện khi những tư tưởng
khoa học về tâm lý đầu tiên xuất hiện trong các hệ thống triết học cổ đại, trước
hết là triết học cổ Hy Lạp. Những tri thức đầu tiên về tâm lý học được khái quát
lại trong thuyết Vật linh (Animism). Theo thuyết này, tất cả mọi vật (người, động
vật, thực vật, đá, sông núi....) trong mọi hiện tượng tự nhiên (sấm, chớp, mây,
mưa) hay các thực thể khác đều có linh hồn. Linh hồn được xem là nguyên nhân
của sự phát triển, của sự vận động của muôn loài - Aristốt là người đã xem tâm
hồn có ở mọi quá trình cơ thể với học thuyết về ba loại tâm hồn: tâm hồn thực
vật, tâm hồn động vật, tâm hồn trí tuệ.

2

Sau này, đã hình thành nên hai quan điểm đối lập nhau về bản chất của tâm
hồn. Quan điểm duy tâm (Platôn) và quan điểm duy vật (Demôcrít). Platôn cho
rằng tâm hồn không có gì giống với vật chất. Tâm hồn hoàn toàn thuộc lĩnh vực
tinh thần (ý niệm). Nhận thức thế giới không phải là quá trình tác động qua lại
của tâm hồn với thế giới bên ngoài mà là tâm hồn nhớ lại những gì nó đã thấy
được ở thế giới ý niệm trước khi nhập vào thân thể con người. Đemôcrít cho rằng
tâm hồn cũng giống như toàn bộ thế giới tự nhiên là vật chất, được cấu tạo nên
bởi vật chất. Tâm hồn được cấu tạo nên từ các nguyên tử bé nhất, nhẹ nhất chứ
không như các nguyên tử khác tạo nên các vật thể vật lý. Các học thuyết về tâm
hồn lấy phạm trù “hồn” hay “tâm hồn” làm trung tâm giải thích toàn bộ quá trình
nảy sinh, vận động, biến đổi của tâm lý. Mặc dù với cách lý giải về tâm hồn rất tự
nhiên, ngây thơ nhưng những tri thức về tâm hồn trong đó có chứa đựng nhiều
nội dung có tính khoa học, ảnh hướng đến các giai đoạn phát triển sau này của
tâm lý học
b. Phạm trù ý thức: Thế kỷ XVII đã hình thành nên những tiền đề cho việc
nghiên cứu tâm lý, ý thức một cách khoa học. R.Đềcáctơ khẳng định rằng động
vật không có tâm hồn mà chỉ là cái máy phản ứng với các tác động từ bên ngoài.
Còn con người, do có ý thức, bằng tư duy có khả năng hiểu và tạo nên thế giới
tâm lý bên trong, đó là tâm hồn. Đ.Lốccơ khẳng định rằng ý thức không phải do
thượng đế ban cho con người. Tất cả những gì có trong tâm hồn đều được đưa
đến thông qua các cơ quan cảm giác. Từ đó ông đưa ra định đề cho rằng ý thức có
cấu trúc từ các quá trình tâm lý đơn giản nhất (cảm giác). Cảm giác được liên kết
lại với nhau (liên tưởng), tạo nên các cấu thành tâm lý, ý thức phức tạp.
Đến thế kỷ XVIII, các nhà tâm lý học Anh là T. Hôpxơ và Đ. Gartli đã tiếp
tục phát triển tâm lý học liên tưởng, dùng các quy luật liên tưởng để giải thích
toàn bộ đời sống tâm lý. Tiếp theo, trong các nghiên cứu của P.Hônbách và
K.Henvenxi đã xuất hiện tư tưởng về bản chất xã hội của tâm lý người.

c. Phạm trù hành vi: Các nghiên cứu thực nghiệm tâm vật lý, sinh lý và
các thành tựu của tâm lý thần kinh trong chữa trị bệnh tâm thần đã góp phần đưa
tâm lý học trở thành khoa học độc lập. Vào đầu thế kỷ 20, nhà tâm lý học Mỹ
3

Đ.watsơn, người sáng lập tâm lý học hành vi đã chứng minh được sai lầm trong
quan điểm của R.Đecáctơ và D.Lốccơ về ý thức và tuyên bố rằng tâm lý học cần
từ bỏ nghiên cứu ý thức mà chuyển sang nghiên cứu hành vi là cái có thể quan sát
được, đo đạc được.
Cùng với thuyết Hành vi, Phân tâm học, Tâm lý học Gestal, thuyết Tâm
thế.... cũng phát triển tâm lý học thông qua một phạm trù chính, đó là “vô thức”,
“Gestal”, “Tâm thế”.
2. Giai đoạn thứ hai: Từ sau những năm 30, thế kỷ XX cho đến nay. Mặc
dù, hiện nay có sự thống nhất trong giới tâm lý học, lấy đối tượng nghiên cứu của
tâm lý học là tâm lý, song vẫn cùng tồn tại nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tâm lý
học ngày nay trở thành lĩnh vực đa ngành nhằm phục vụ những nhu cầu đa dạng
của cuộc sống, nên việc hình thành quan điểm tiếp cận nhiều phạm trù trong
nghiên cứu tâm lý học là điều đương nhiên. Tâm lý học Mác-xít là nền tâm lý học
đứng trên quan điểm duy vật biện chứng để nghiên cứu nguồn gốc, bản chất của
tâm lý. Để giải quyết những vấn đề cơ bản của mình tâm lý học Mác- xít cũng
dựa trên một hệ thống phạm trù đã được nhiều thế hệ các nhà tâm lý học xây nên,
trong đó các phạm trù cơ bản gồm: phạm trù phản ánh (phản ánh tâm lý); phạm
trù hoạt động, phạm trù nhân cách và phạm trù giao tiếp. Bốn phạm trù này là
những khái niệm tâm lý học lớn nhất, có khả năng bao quát các phạm trù, khái
niệm tâm lý khác và đóng vai trò chủ đạo trong giải quyết các vấn đề chính của
tâm lý học. Phạm trù phản ánh là phạm trù then chốt của tâm lý học, xem tâm lý
là phản ánh của chủ thể về hiện thực khách quan. Phản ánh là quá trình diễn ra ở
nhiều cấp độ, trong đó chủ thể tích cực xử lý thông tin về khách thể để xây dựng
mô hình phù hợp với khách thể. Phạm trù hoạt động như là tính tích cực của lao

động sáng tạo, có mục đích của chủ thể trong đời sống hiện thực.Phạm trù nhân
cách nghiên cứu về con người như là chủ thể của hoạt động và giao tiếp. Giao
tiếp như là quá trình giao lưu trong đó diễn ra sự trao đổi thông tin, tiến hành các
tác động qua lại lẫn nhau và hiểu biết lẫn nhau giữa người với người. Các phạm
trù này có quan hệ qua lại, chi phối lẫn nhau, đảm bảo chức năng, vai trò là nền
tảng về lý luận, phương pháp luận cho nghiên cứu tâm lý học hiện nay.
4

II. CÁC PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC
1. Phạm trù phản ánh (phản ánh tâm lý).
a. Định nghĩa phạm trù phản ánh.
* Phản ánh là thuộc tính phổ biến của vật chất, thể hiện ở năng lực lưu
giữ, tái hiện lại những dấu hiệu, thuộc tính, quan hệ của khách thể được phản
ánh.
* Phản ánh tâm lý: Dạng phản ánh cao nhất, phức tạp nhất, chức năng
của não phản ánh hiện thực khách quan nhằm định hướng, điều khiển, điều chỉnh
hành vi, hoạt động của chủ thể.
Phản ánh là phạm trù cơ bản của triết học và cũng phạm trù cơ bản của tâm
lý học. Trong triết học Mác-Lênin, lý luận phản ánh là cơ sở của lý luận nhận
thức biện chứng duy vật. Nó lần đầu tiên đã đưa ra cách hiểu tâm lý là sự phản
ánh chủ quan về hiện thực khách quan mở đầu cho việc phát triển tâm lý học trên
cơ sở lý luận Mác-Lênin. Chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định: phản ánh là thuộc
tính phổ biến của vật chất, thể hiện ở năng lực lưu giữ, tái hiện lại những dấu
hiệu, thuộc tính, quan hệ của khách thể được phản ánh. Năng lực phản ánh, tính
chất của phản ánh thế nào phụ thuộc vào cấp độ tổ chức của khách thể đang phản
ánh. Có ba loại phản ánh:
- Phản ánh thụ động: Dạng phản ánh này có ở thế giới tự nhiên vô cơ.
- Phản ánh thích ứng - tích cực: Dạng phản ánh này có ở cơ thể sinh vật.
- Phản ánh tích cực - cải tạo: Dạng phản ánh này có ở cấp độ xã hội trong

đó con người sống và hoạt động
Con người là một tồn tại sinh vật xã hội. Con người không chỉ thích ứng
tích cực với các điều kiện sống mà còn cải tạo tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ cho
các nhu cầu của mình. Do vậy phản ánh tâm lý là sự phản ánh chủ quan về hiện
thực khách quan với chức năng để định hướng, điều khiển, điều chỉnh hành vi
hoạt động của chủ thể.
b. Nội dung phạm trù phản ánh tâm lý.
a. Những luận điểm có tính nguyên tắc về phản ánh tâm lý.
5

+ Phản ánh tâm lý là sản phẩm của vật chất có tổ chức cao là não. Nội
dung của phản ánh tâm lý không phụ thuộc vào não mà do thế giới khách quan
quy định.
+ Phản ánh tâm lý là hình ảnh của đối tượng bên ngoài đang tồn tại khách
quan không phụ thuộc vào chúng ta.
+ Thực tiễn là cơ sở đồng thời là tiêu chí đánh giá tính đúng đắn của phản
ánh tâm lý.
+ Phản ánh tâm lý mang tính chủ quan, chịu sự chi phối của kinh nghiệm,
các nhu cầu, hứng thú, động cơ, tính chất hoạt động của con người.
+ Phản ánh tâm lý mang tính tích cực, chủ động, sáng tạo.
b. Các đặc điểm của phản ánh tâm lý:
+ Phản ánh tâm lý không phải là sự cứng nhắc, phản ánh kiểu gương soi,
máy móc mà là quá trình có khởi đầu, kết thúc trải qua nhiều giai đoạn khác
nhau, liên tục phát triển, hoàn thiện, liên tục giải quyết các mâu thuẫn, trở ngại để
đi lên.
+ Phản ánh tâm lý luôn mang tính gián tiếp. Một tác động từ bên ngoài lên
chủ thể đều phải khúc xạ qua lăng kính bên trong chủ thể. Đó là những đặc điểm
tâm lý đã hình thành trước đây, các trạng thái tâm lý cụ thể đang diễn ra....Bởi
vậy cùng một tác động nhưng mỗi chủ thể lai phản ánh nó một cách khác nhau

hoặc ngay một người nhưng ở các thời điểm khác nhau lại phản ánh lên một kích
thích một cách khác nhau.
+ Phản ánh tâm lý là sự phản ánh chân thực, đúng đắn và hiện thực. Những
hình ảnh của thế giới vật chất có trong tâm lý chủ thể đều là những tấm ảnh, là
dấu vết, bản sao các đối tượng các hiện tượng, sự kiện có thực diễn ra ở bên
ngoài. Ở người, tính chủ quan của phản ánh tâm lý thể hiện ở sự tích cực cải tạo
đối tượng được phản ánh. Tuy nhiên bản chât của tính chủ quan vẫn mang tính
khách quan không hề thay đổi.
+ Phản ánh tâm lý là dạng phản ánh phức tạp nhất, phát triển nhất. Ở các
giai đoạn thấp của phản ánh tâm lý, tức là ở tâm lý động vật, hình thức cao nhất
của phản ánh tâm lý là hành vi trí tuệ. Ở giai đoạn cao đã hình thành nên ý thức
6

và tự ý thức. Đặc thù của phản ánh ý thức, tự ý thức được biểu hiện trong đời
sống xã hội loài người. Phản ánh ý thức và tự ý thức có những đặc trưng: phản
ánh chính là con đường mà con người dùng để nhận thức về bản thân, về hoạt
động và hành vi của mình; phản ánh là công cụ để nhận thức về người khác; phản
ánh giúp con người tự kiểm tra, tự giáo dục mình. Phản ánh là con đường để nhận
thức về đời sống xã hội, các quan hệ xã hội.
c. Ý nghĩa, vai trò của phạm trù phản ánh tâm lý.
- Đưa phạm trù phản ánh vào tâm lý học là công lao của các nhà tâm lý học
Mác- xít. Chính nhờ đó mà tâm lý học thoát khỏi cách hiểu duy tâm, duy vật tầm
thường về bản chất tâm lý, góp phần xây dựng nền tâm lý học Mác - xít thật sự
khoa học.
- Đối với tâm lý người, phạm trù phản ánh đã chỉ ra rằng: tâm lý con người
không nảy sinh một cách trực tiếp từ các tác động bên ngoài lên cơ thể mà là kết
quả, sản phẩm của hoạt động con người với các đối tượng đó. Hoạt động là khâu
trung gian nối liền đối tượng bên ngoài với phản ánh tâm lý bên trọng.Trong hoạt
động diễn ra sự chuyển hoá cái bên ngoài thành cái bên trong.

- Vận dụng phạm trù phản ánh vào nghiên cứu tâm lý là phải nghiên cứu
đặc điểm, chức năng, cấu trúc phản ánh tâm lý ở các cấp độ khác nhau, từ đơn
giản đến phức tạp.
2. Phạm trù hoạt động
a. Định nghĩa phạm trù hoạt động.
* Hoạt động là quá trình tích cực, có mục đích của con người sản xuất ra
các giá trị vật chất, tinh thần nhằm thoả mãn nhu cầu của bản thân, xã hội.
Hoạt động là phạm trù cơ bản của triết học Mác được các nhà tâm lý học
Liên xô nghiên cứu vận dụng vào trong tâm lý học và trở thành phạm trù cơ bản,
trung tâm của tâm lý học Mác- xít. Theo C.Mác, hoạt động là đặc tính của giới tự
nhiên trong đó có con người. Hoạt động là phương tiện để con người và giới tự
nhiên sản sinh và phát triển chính bản thân và để xác định đúng vị trí của mình
trong tự nhiên. Hoạt động của con người khác với các loài khác trong tự nhiên vì
đó là “quá trình diễn ra giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong đó bằng
7

hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao
đổi chất giữa họ với tự nhiên”1.
Trong số các loại hình hoạt động đa dạng hiện có, hoạt động thực tiễn mà
đặc trưng là lao động sản xuất vật chất cảm tính là loại hình hoạt động quyết định
sự hình thành, phát triển của con người và cũng là loại hình hoạt động quy định
sự hình thành, phát triển tâm lý, ý thức con người.
Các nhà tâm lý học Liên Xô đã chuyển phạm trù hoạt động có đối tượng
của triết học Mác vào trong tâm lý học, xây dựng nên phạm trù hoạt động cho
tâm lý học. Năm 1922, X.L Rubinstêin đã dựa vào quan điểm của C.Mác về hoạt
động, xây dựng nên nguyên tắc phương pháp luận của tâm lý học: “Nguyên tắc
thống nhất giữa ý thức và hoạt động”, cụ thể hoá luận điểm tâm lý, ý thức nảy
sinh, vận động và phát triển trong hoạt động tích cực, sáng tạo của chủ thể”.
Hoạt động của con người không phải là tổng số các phản ứng của cơ thể

mà là tính tích cực có mục đích của chủ thể, là hoạt động mang bản chất xã hội
lịch sử, có sản phẩm; trong thành phần của hoạt động có “tâm lý” ở dạng các mục
đích, ý nghĩa, ý nhân cách, trải nghiệm, ý chí...
Các nhà tâm lý học Liên Xô khác như: L.X Vưgôtxki, A.N.Leônchev, P.Ia
Galpêrin, K.A Abunkhanôva - Slavskia... đã tiếp tục xây dựng, hoàn thiện phạm
trù hoạt động với vai trò phạm trù trung tâm của tâm lý học.
b. Nội dung phạm trù hoạt động.
* Các tính chất đặc thù của phạm trù hoạt động:
Bản chất của hoạt động như là một tập hợp các hành động của con người
hướng vào việc thoả mãn các nhu cầu của mình được thể hiện qua các tính chất
đặc thù sau:
- Hoạt động của con người mang tính xã hội: Bất kỳ một dạng hoạt động
nào của con người mà tôi nghiên cứu đều là sản phẩm của sự phát triển có tính
lịch sử - xã hội của bản thân con người nếu xét về nội dung cũng như các phương
thức thực hiện. Trong khi tiến hành một hoạt động nào đó con người phải thực
hiện một loạt các hành động cụ thể mà việc gọi tên hành động cũng như cách làm
1

C.M¸c . P.¡ngghen, Toµn tËp, T. 20, Nxb CT, M. 1995, tr. 653-654.

8

thế nào đều do xã hội quy định, trong những điều kiện xã hội lịch sử cụ thể của
lao động quy định.
- Hoạt động của con người mang tính mục đích: Hoạt động của con người
khác với các bản năng ở con vật là có tính mục đích do ý thức đề ra và chỉ có thể
đạt đến kết quả nhờ ý thức đóng vai trò là nhân tố tổ chức, chọn lựa các điều
kiện, phương tiện thực hiện. Một hoạt động bất kỳ đều bao gồm những hành động
được liên kết lại, bị chi phối bởi một mục đích chung mà con người nhằm tới để

đạt được những kết quả mà mục đích đã đề ra.
- Hoạt động của con người có tính kế hoạch: Hoạt động không đơn thuần
là một tập hợp các hành động hay các cử động. Một hành động cụ thể luôn được
xắp xếp theo một kế hoạch tổng thể của một hoạt động. Các hành động của hoạt
động có quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau theo một trật tự nhất đinh, được tổ
chức theo một kế hoạch cụ thể.
- Hoạt động của con người có tính hệ thống: Khi ta nghiên cứu hoạt động
của người này hoặc người kia, chúng ta phân tích nó theo thời gian, không gian,
theo sự phân chia có hệ thống của xã hội. Những tiêu chí này luôn bộc lộ rõ ở
hoạt động lao động là hoạt động cơ bản, chủ yếu của con người. Một cử động,
thậm chí một hành động đơn lẻ nào đó chưa thể gọi là hoạt động.
* Các đặc trưng cơ bản của phạm trù hoạt động:
- Tính đối tượng: Tính đối tượng của hoạt động thể hiện ở chỗ các khách
thể của thế giới bê ngoài không tác động trực tiếp lên chủ thể mà nó luôn được
biến đổi, chuyển hoá trong quá trình hoạt động. Trong tiến hoá chủng loại, tính
đối tượng của hoạt động ở hình thức sơ khai đã có ở động vật khi nó phản ứng trả
lời lên các kích thích tín hiệu về đối tượng có khả năng đáp ứng nhu cầu của
mình.
Ở hình thức phát triển cao, tính tối tượng, theo đúng nghĩa của nó, chỉ có ở
hoạt động của con người. Hoạt động của con người bị chi phối bởi toàn bộ các
giá trị, các ý nghĩa, các hình thức sinh hoạt, hoạt động của loài người có trong
nền văn hoá xã hội. (các ý nghĩa, giá trị, mẫu hành vi, kiểu hoạt động, các vai
trò, chuẩn mực xã hội...).
9

- Tính chủ thể: Tính chủ thể của hoạt động biểu hiện ra ở các nội dung của
tính tích cực như tính quy định của kinh nghiệm đối với việc nảy sinh các hình
ảnh tâm lý (nhu cầu, tâm thế, cảm xúc, mục đích, động cơ). Các yếu tố này quy
định xu hướng, tính lựa chọn của hoạt động, ý nhân cách quy định thái độ của

chủ thể đối với các đối tượng, các sự kiện, các hành động.
- Cấu trúc của hoạt động: Hoạt động có cấu trúc hệ thống thứ bậc với các
thành phần cấu trúc có quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau được thể hiện ở sơ đồ
sau:

HOẠT ĐỘNG

ĐỘNG CƠ

HÀNH ĐỘNG

MỤC ĐÍCH
NHIỆM VỤ

THAO TÁC

ĐIỀU KIỆN

Cấu trúc tâm lý của hoạt động (A.N Leonchev)
Cấu trúc tâm lý hoạt động là cấu trúc hệ thống, thứ bậc gồm 2 dãy: dãy đối
tượng của hoạt động có động cơ, mục đích, điều kiện.
- Động cơ - là đối tượng mà hoạt động hướng tới hay là đối tượng của nhu
cầu.
- Mục đích: biểu tượng về kết quả của hành động (cái cần phải đạt tới. Mục
đích có thể là của cá nhân hoặc xã hội, gần hoặc xa...)
- Điều kiện thực hiện hoạt động: Trong đó quan trọng nhất là phương thức
đạt được mục đích.
Dãy các đơn vị cấu trúc của hoạt động gồm:
10

- Hoạt động (riêng lẻ, cụ thể) được phân định dựa theo động cơ thúc đẩy.
Đó là các quá trình phụ thuộc vào mục đích đã được xây dựng nên bởi ý thức của
chủ thể. Hành động có tính độc lập tương đối và có thể tham gia vào các hoạt
động riêng lẻ khác nhau.
- Thao tác: là những phương thức thực hiện hành động trực tiếp phụ thuộc
vào những điều kiện đạt tới của những mục đích cụ thể:
- Nhiệm vụ: thực hiện các nhiệm vụ thông qua các hành động và các thao
tác.
Theo A.N Leonchev, khái niệm hoạt động gắn với khái niệm động cơ. Mỗi
hoạt động cụ thể có một nhu cầu và hướng tới đối tượng của nhu cầu. Đối tượng
của hoạt động đem đến cho hoạt động một hướng xác định, đó chính là động cơ
thực của hoạt động. Các hoạt động khác nhau là do đối tượng của chúng khác
nhau.
Hành động là thành phần cơ bản trong cấu trúc hoạt động, phụ thuộc vào
mục đích được chủ thể đề ra một cách có ý thức. Nó được thúc đẩy bởi động cơ
hoạt động song lại hướng tới mục đích. Hành động và hoạt động là hai thành
phần cấu trúc thuộc 2 tầng bậc khác nhau. Một hành động có khả năng tham gia
thực hiện nhiều hoạt động khác nhau và có nhiều động cơ thúc đẩy khác nhau) và
ngược lại, động cơ hoạt động cũng có thể hiện thân, được cụ thể hoá vào nhiều
hành động khác nhau.
Mục đích xuất hiện do khách quan, trong các điều kiện khách quan do đó
việc ý thức được mục đích phải là quá trình. Phương diện tâm lý quan trọng khác
của quá trình ra mục đích là cụ thể hoá mục đích và tìm các điều kiện thực hiện.
Hành động, dưới góc độ của các điều kiện cụ thể của sự thực hiện trở thành
phương thức thực hiện. Như vậy ngoài mặt tinh thần (tâm lý) biểu hiện ở cái cần
đạt tới, hành động còn có mặt thao tác - (đạt tới mục đích bằng cách nào).
Phương thức thực hiện hành động gọi là thao tác.
Hành động và thao tác có nguồn gốc sinh thành khác nhau, vận động và
biến đổi khác nhau. Hành động được sinh ra bởi sự trao đổi giữa các hoạt động

11

còn thao tác là kết quả của sự cải biến hành động diễn ra do kết quả của việc di
chuyển thao tác sang hành động khác.
Tóm lại, phân tích cấu trúc tâm lý hoạt động chỉ ra rằng, hoạt động trọn
vẹn quan hệ với nhu cầu, động cơ, với nội dung đối tượng của nó.
Động cơ thôi thúc con người đề ra mục đích. Còn mục đích lại được hiện
thân trong những điều kiện nhất định đòi hỏi việc thực hiện hành động phải
hướng tới việc làm đối tượng thoả mãn động cơ, nhu cầu. Trong quá trình này,
tương ứng với động cơ là hoạt động cụ thể, tương ứng với mục đích là hành
động, tương ứng với điều kiện thực hiện hành động là thao tác.
3. Ý nghĩa, vai trò của phạm trù hoạt động.
Phạm trù hoạt động được các nhà tâm lý học Mác- xít nghiên cứu sử dụng
không chỉ với vai trò là đối tượng nghiên cứu của tâm lý học mà còn là nguyên
tắc lý giải mọi hiện tượng tâm lý. Do vậy, phạm trù hoạt động đóng vai trò là
phạm trù cơ bản, trung tâm của tâm lý học.
Với vai trò là đối tượng nghiên cứu của tâm lý học, phạm trù hoạt động đã
xem mọi hiện tượng, quá trình tâm lý với tư cách là những hoạt động để phân tích
nó. Tức là, xem hiện tượng tâm lý đó đang đứng ở vị trí nào trong cấu trúc chung
của hoạt động, từ đó mà chỉ ra đặc điểm, nội dung, tính chất, quy luật vận động,
phát triển của nó.
Phạm trù hoạt động còn sử dụng cách tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu
tâm lý. Mỗi hiện tượng tâm ý đều được xem dưới dạng vận động có cấu trúc hệ
thống của các quá trình, trạng thái, thuộc tính tâm lý của nhân cách. Cấu tạo tâm
lý mang tính hệ thống được hình thành nhằm giải quyết một nhiệm vụ cụ thể của
cải tạo hiện thực hay thích ứng với nó.
Trong vai trò nguyên tắc giải thích tâm lý, phạm trù hoạt động đã đem lại
sự giải thích mới bản chất, quy luật vận động, chức năng của phản ánh tâm lý.
Theo lời của A.G Acmôlôv thì hoạt động là một hệ thống có cấu tạo thứ bậc, tự

phát sinh, phát triển, vận động thực hiện sự tác động qua lại giữa chủ thể với thế
giới bên ngoài. Trong quá trình đó nảy sinh ra hình ảnh tâm lý, chủ thể nhập thân
12

vào khách thể, vừa thực hiện vừa cải biến các quan hệ của chủ thể với thế giới
đối tượng bẳng phản ánh tâm lý.
3. Phạm trù nhân cách
a- Định nghĩa phạm trù nhân cách.
Nhân cách là tổng hoà những phẩm chất xã hội được cá nhân lĩnh hội trong
hoạt động và giao tiếp, phản ánh giá trị xã hội của cá nhân đó trong cộng đồng.
Phạm trù nhân cách có vị trí quan trọng hàng đầu trong các phạm trù tâm
lý học vì nó có quan hệ chi phối tới tất cả các khái niệm phạm trù tâm lý khác
Việc nghiên cứu phạm trù nhân cách trong tâm lý học đã trải qua ba giai đoạn với
ba phương pháp tiếp cận khác nhau. Cách tiếp cận thứ nhất còn gọi là tiếp cận
“mẫu” nhân cách. Thời kỳ này diễn ra vào những năm 50- 60 thế kỷ 20. Đặc
điểm của cách tiếp cận này là coi nhân cách như một mẫu chứa đựng các nét nhân
cách, các đặc trưng, đặc điểm tâm lý trong nhân cách. Cách tiếp cận thứ hai gọi là
tiếp cận cấu trúc. Cách tiếp cận này xuất hiện vào những năm 60. Theo đó, nhân
cách có cấu trúc gồm các tiểu câu trúc: khí chất, tính chất, xu hướng, năng lực....
Thực chất đây là cách triển khai quan hệ giữa yếu tố sinh vật và xã hội trong nhân
cách. Cách tiếp cận này có nhược điểm không phân biệt rõ các khái niệm con
người, cá nhân, nhân cách. Cách tiếp cận thứ ba, còn gọi là tiếp cận hệ thống,
xuất hiện từ cuối những năm 70 đến nay. Phạm trù nhân cách được nghiên cứu
sâu về nội tâm, tính chủ thể, về năng lực tự khẳng định, tự phát triển trong đời
sống xã hội. Cách tiếp cận này chỉ ra những đặc trưng bản chất của nhân cách
gồm:
- Thế giới quan của nhân cách: bao gồm hệ thống các niềm tin, các quan
điểm khoa học về tự nhiên, xã hội, tư duy đã trở thành tài sản bên trong nhân
cách quy định mục đích, xu hướng đường đời của nhân cách.

- Mức độ trọn vẹn của thế giới quan trong nhân cách phản ánh tính chất
thuần nhất không mâu thuẫn về quan điểm, lối sống của nhân cách trong bất kì
hoàn cảnh lối sống nào.
- Mức độ hiểu đúng (giác ngộ) vị trí của mình trong đời sống xã hội.
- Nội dung tính chất của các nhu cầu lợi ích.
13

- Tính ổn định và dễ dàng chuyển đổi của các lợi ích.
- Tính đặc thù trong quan hệ cũng như các biểu hiện của phẩm chất nhân
cách trong đời sống thực.
b. Nội dung phạm trù nhân cách.
Nội dung phạm trù nhân cách được biểu hiện ở ba mặt tương đối độc lập
và thống nhất với nhau của tâm lý nhân cách. Đó là, mặt tâm lý- cá nhân; mặt thế
giới quan của nhân cách; mặt tâm lý- xã hội của nhân cách. Cụ thể: mặt tâm lýcá nhân phản ánh đặc thù sự vận động của các quá trình thuộc tính trạng thái cấu
thành tâm lý.
- Các quá trình tâm lý: là các hiện tượng tâm lý đảm bảo nội dung phản
ánh ban đầu và sự ý thức của nhân cách về các tác động từ bên ngoài.
- Các thuộc tính tâm lý: là những đặc điểm thường xuyên biểu hiện ra và
có độ ổn định cao của nhân cách đảm bảo cho hành vi và hoạt động diễn ra bình
thường. Các thuộc tính tâm lý nhân cách gồm các tính chất, tính cách, năng lực,
xu hướng.
- Trạng thái tâm lý : là xu hướng, mức độ biểu hiện chất lượng vận hành
của tâm lý nhân cách ở một thời điểm nhất định nào đó.
- Cấu thành tâm lý: là các hiện tượng tâm lý mà nhân cách lĩnh hội được từ
trong cuộc sống, thông qua hoạt động, học tập, rèn luyện.
+ Mặt thế giới quan của nhân cách: bao gồm thế giới quan, đạo đức, thái
độ của nhân cách.
+ Mặt tâm lý- xã hội của nhân cách: là thái độ đối với người khác, đối với
vai trò và vị trí xã hội, tâm thế xã hội.

c. Vai trò, ý nghĩa của phạm trù nhân cách.
- Là một trong những phạm trù quan trọng nhất của tâm lý vì có ảnh hưởng
chi phối đến tất cả các khái niệm phạm trù khác của tâm lý học.
- Phạm trù nhân cách góp phần phát triển nhân tố con người với vai trò là
chủ thể tích cực sáng tạo, cải tạo thế giới, làm ra các giá trị vật chất tinh thần đáp
ứng nhu cầu phát triển của bản thân, xã hội.
14

- Phạm trù nhân cách góp phần đấu tranh chống các quan điểm duy tâm,
siêu hình, phản khoa học về con người và phẩm chất tâm lý của con người.
4. Phạm trù giao tiếp
a. Định nghĩa phạm trù giao tiếp.
Giao tiếp là quá trình tác động tâm lý giữa người với người thông qua hệ
thống ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ nhằm mục đích trao đổi thông tin, cảm xúc,
lĩnh hội tri thức, tác động qua lại lẫn nhau để thiết lập nên những mối quan hệ
phối hợp với nhau trong hoạt động thực tiễn.
C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I Lênin là những người đặt nền móng cho
nghiên cứu giao tiếp như là một tồn tại xã hội trong quan hệ “chủ thể - chủ thể”,
giao tiếp là phạm trù đi sâu nghiên cứu mặt quan hệ xã hội của con người. Trong
tác phẩm “ Bản thảo kinh tế triết học” của Mác, (1844) và tác phẩm “Tình cảnh
giai cấp công nhân Anh” của Ph.Ăngghen, giao tiếp được xem là công cụ kết nối
sự hợp tác giữa người với người, sự tác động lẫn nhau giữa họ trong hoạt động
chung. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” hai ông đã phê phán quan điểm giao
tiếp thuần túy của M.Stirunhera và cho rằng giao tiếp của con người mang bản
chất xã hội. Nền sản xuất xã hội quyết định nội dung, hình thức của giao tiếp.
Phạm trù giao tiếp đã được nghiên cứu từ lâu trong tâm lý học. I.M
Sechenốp (Nga) đã nghiên cứu, giao tiếp của con người và ý nghĩa của nó đối với
phát triển các tình cảm đạo đức của con người. V. M Becherép đã nghiên cứu sự
khác biệt của quá trình nhận thức trong điều kiện chủ thể làm việc một mình và

trong giao lưu với người khác. Ông là người đầu tiên đã xây dựng được lý thuyết
tâm lý đại cương về giao tiếp, trong đó V.M.Beccherev chỉ ra tính đặc thù của các
quá trình tâm lý diễn ra trong điều kiện giao tiếp. Hướng nghiên cứu tâm lý giao
tiếp của ông được B.G. Ananhev tiếp tục phát triển. Những vấn đề tâm lý giao
tiếp cũng được nghiên cứu trong các công trình của A.Ph.Ladurxki, V.N. Masisev.
Chính ở đây cấu trúc tâm lý ba thành phần lần đầu tiên đã được các ông nêu ra,
gồm sự phản ánh có tính xã hội; thái độ của cảm xúc và phương thức hành vi.
Các nghiên cứu về giao tiếp chiếm vị trí trung tâm trong các công trình khoa học
của L.X.Vưgôtxki. Chính L.X.Vưgôtxki đã khẳng định rằng sự phát triển tâm lý
15

người ngay từ đầu đã bị quy định bởi các quy luật xã hội, trong đó có giao tiếp.
A.A Lêônchép thì cho rằng giao tiếp cũng là một dạng của hoạt động. B.Ph
Lômôv lại cho rằng không nên xem giao tiếp là một dạng hoạt động. Bản chất
của giao tiếp nằm trong mối quan hệ chủ thể - chủ thể. B.Đ Parưghin lại xem giao
tiếp là quá trình xử lý thông tin phức hợp.Những năm 20-30 thế kỷ XX, vấn đề
giao tiếp được nghiên cứu rất mạnh, chủ yếu trong tâm lý học xã hội. Tuy nhiên,
do tầm quan trọng của nó, phạm trù giao tiếp được tâm lý học đại cương hiện nay
tập trung nghiên cứu mạnh mẽ.
b. Nội dung phạm trù giao tiếp.
* Nội dung, hình thức, chức năng, phương tiện của giao tiếp.
+ Nội dung của giao tiếp: là thông tin được truyền từ người này sang
người kia trong quá trình tiếp xúc tâm lý. Đó có thể là sự trao đổi các sản phẩm,
đối tượng hoạt động, trao đổi ý kiến, động cơ, mục đích, nhu cầu, hứng thú hoặc
kinh nghiệm hoạt động.
+ Hình thức của giao tiếp: có nhiều hình thức giao tiếp như giao tiếp trực
tiếp, gián tiếp, giao tiếp thẳng, tay đôi, giao tiếp có sử dụng công cụ, giao tiếp đại
chúng, giao tiếp liên nhân cách....
+ Các chức năng của giao tiếp: giao tiếp có nhiều chức năng, chức năng

biểu cảm, thông tin, thiết lập liên hệ, chức năng xã hội hoá nhân cách, tự nhận
thức, tổ chức hoạt động cùng nhau, phát triển quan hệ liên nhân cách....
+ Các phương tiện giao tiếp: Theo A.A.Boocdanốp, có phương tiện ngôn
ngữ và phi ngôn ngữ của giao tiếp. Phương tiện ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Phương tiện phi ngôn ngữ gồm: các phương tiện nghe, nhìn, sờ mó, mùi vị...
Tóm lại, trong tâm lý học giao tiếp được xem là một không gian tâm lý
phức tạp, là môi trường phát triển nhân cách, một trong những động lực thôi thúc
hoạt động và phát triển con người.
*Cấu trúc tâm lý của giao tiếp: Giao tiếp là quá trình phức tạp, nhiều mặt
của sự tiếp xúc tâm lý giữa người và người, nảy sinh do động cơ hoạt động cùng
nhau. Giao tiếp có cấu trúc gồm 3 thành phần cơ bản sau:
- Thành phần giao lưu của giao tiếp (trao đổi thông tin):
16

Giao tiếp là để tìm được tiếng nói chung, để gắn kết với nhau trong lao
động cùng nhau, đòi hỏi phải có ngôn ngữ làm phương tiện giao tiếp. Trong ngôn
ngữ có chứa đựng thông tin nằm ở nghĩa của từ, lời nói. Thông tin giúp con người
hiểu mục đích hành động của nhau, điều chỉnh hành vi, hành động của mình cho
phù hợp. Trong giao tiếp, các bên phải dùng một ngôn ngữ chung và phải hiểu
được nghĩa, ý chứa đựng trong các từ, ký hiệu ngôn ngữ, thông qua đó mà thực
hiện việc lĩnh hội và truyền thông tin cho nhau.
- Thành phần tác động lẫn nhau của giao tiếp.
Trong giao tiếp, con người thực hiện mục đích tác động lên nhau. Giao tiếp
bao giờ cũng có kết quả là làm biến đổi hành vi, hoạt động của đối tác hoặc ít,
hoặc nhiều. Do vậy, tác động qua lại lẫn nhau là tập hợp các mối liên hệ, ảnh
hưởng lẫn nhau được tạo ra qua quá trình hoạt động cùng nhau. Tác động lẫn
nhau diễn ra như một quá trình có khởi đầu, diễn biến, kết thúc và diễn ra dưới sự
kiểm soát xã hội, theo những mô hình, mẫu quan hệ thông dụng trong xã hội. Mỗi
cá nhân có thể có các vai trò xã hội khác nhau, do đó là chủ thể của các quá trình

giao tiếp khác nhau theo những mẫu khác nhau.
Giao tiếp đòi hỏi phải có sự phù hợp nhau về hành vi, tâm thế. Tuy nhiên,
trong thực tiễn có khi giao tiếp diễn ra trong điều kiện có mâu thuẫn về tâm lý
giữa các bên. Do vậy, cần nghiên cứu vai trò, ý nghĩa của xung đột tâm lý trong
giao tiếp.
- Thành phần hiểu biết lẫn nhau của giao tiếp:
Giao tiếp cần sự tri giác lẫn nhau và kết quả là các bên hiểu biết rõ về
nhau. Đây là điều kiện cần của giao tiếp. Để tác động, điều khiển được nhau thì
các bên giao tiếp phải hiểu biết về nhau. Sự hiểu biết lẫn nhau trong giao tiếp bao
gồm tri giác lẫn nhau, hiểu hành vi, tâm lý của nhau, kết luận, đánh giá tâm lý
của nhau. Để hiểu nhau, các bên giao tiếp còn dùng các cơ chế “phản tư”, “đồng
nhất hoá”, dùng động hình tâm lý....
c. Vai trò, ý nghĩa của phạm trù giao tiếp.
Giao tiếp có vai trò quan trọng trong đời sống tâm lý con người, bởi giao
tiếp cùng lúc thực hiện nhiều chức năng khác nhau như: thông báo, trao đổi thông
17

tin, suy nghĩ, tình cảm thông qua tiếng nói, cử chỉ, ký hiệu, điều lệ... Truyền đạt
cho nhau các giá trị xã hội, văn hoá, đạo đức... tác động lên ý thức, hành vi con
người, làm tiền đề cho hoạt động có hiệu quả, yếu tố cấu thành hành vi, tự nhận
thức về mình, nhận biết về mình và người khác, điều kiện hiện thực hoá các quan
hệ liên nhân cách.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ
HỌC
Hệ thống các phạm trù cơ bản của tâm lý học có mối quan hệ qua lại biện
chứng, quy định lẫn nhau. Trong thực tiễn các mối quan hệ đó thể hiện ở cả chiều
hàng ngang và chiều hàng dọc.

Hoạt động

Nhân cách

Giao tiếp

Phản ánh

Sơ đồ hệ thống phạm trù cơ bản của tâm lý học
Chuyên đề này với cách tiếp cận lấy phạm trù hoạt động làm trung tâm, đi
sâu phân tích mối quan hệ của phạm trù hoạt động với các phạm trù khác.
1. Mối quan hệ giữa phạm trù hoạt động và phạm trù phản ánh.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của phạm trù hoạt động là phải lý
giải được sự nảy sinh của phản ánh tâm lý ở các cấp độ khác nhau như là sự phản
ánh chủ quan về thế giới khách quan. Theo A. N. Lêônchép ngoài phạm trù hoạt
động không thể và không tồn tại một phản ánh tâm lý nào. Phản ánh tâm lý nảy
sinh vận hành, tồn tại trong hoạt động. Hình ảnh về đối tượng (phản ánh tâm lý)
luôn chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động. Do vậy không thể nghiên cứu
và hiểu được sự nảy sinh vận hành của phản ánh tâm lý khi tách nó khỏi phạm trù
hoạt động.
- Hoạt động là cơ sở hình thành nên hình ảnh tri giác. Theo A.N. Lêônchép
để một hình ảnh chi giác xuất hiện chủ thể phải thực hiện một hành động tri giác
18

phức tạp với nhiều thao tác. Hình ảnh tâm lý về đối tượng là sản phẩm của các
mối quan hệ sống, mang tính thực tiễn của chủ thể.
- Hoạt động là điều kiện hình thành các yếu tố tạo nên tư duy: các khái
quát ban đầu của con người mang tính đối tượng, thực tiễn. Sau đó từ các nghĩa
của từ được chủ thể xử lý, khái quát, diễn ra như một quá trình tư duy mà sản
phẩm là các khái niệm.

- Hoạt động là điều kiện hình thành nên ý nhân cách: Bằng hành động và
thông qua hoạt động chủ thể phát hiện ra nghĩa và ý của đối tượng.
- Hoạt động là điều kiện hình thành nên “tự ý thức” của nhân cách.
2. Mối quan hệ của phạm trù hoạt động với phạm trù nhân cách.
Hoạt động là cơ sở hình thành nên nhân cách. Nhân cách được tạo nên bởi
các quan hệ xã hội mà cá nhân gia nhập vào thông qua hoạt động có đối tượng.
Trong thực tiễn cá nhân đồng thời tiến hành nhiều hoạt động, do đó mà nhân cách
được hình thành. Thông qua hệ thống hoạt động có thứ bậc mà các yếu tố nhu
cầu, động cơ, cảm xúc, ý, nghĩa, các thái độ của cá nhân được hình thành.
Theo tâm lý học hoạt động, nội dung tâm lý của nhân cách biểu hiện ở ba
tiêu chí sau: số lượng các hoạt động của chủ thể; cấu trúc hệ thống thứ bậc các
hoạt động; cấu trúc chung của hoạt động.
Như vậy cấu trúc của nhân cách được xây dựng nên từ hệ thống cấu trúc
các hoạt động. Hoạt động là đơn vị nghiên cứu nhân cách.
Tất cả các hiện tượng tâm lý đều được hình thành biểu hiện phát triển trong
hoạt động và giao tiếp, xong chúng hoạt động như thế nào là do nhân cách đóng
vai trò là chủ thể của hoạt động quyết định.
4. Mối quan hệ của phạm trù hoạt động với phạm trù giao tiếp.
Mối quan hệ giữa hoạt động và giao tiếp được xây dựng trên nền tảng tính
xã hội, tính ý thức và bản chất hoạt động của con người. Con người sống trước
hết là trong các quan hệ hiện thực với những người khác ở mọi lúc mọi nơi. Các
phẩm chất giao tiếp như tính xã hội, tính ý thức của hành vi giao tiếp luôn được
thể hiện thông qua hoạt động. Phong cách giao tiếp phản ánh cách suy nghĩa, thái
19

độ, các thể hiện có ở trong năng lực như là kết tinh hoạt động của mỗi cá nhân.
Giao tiếp còn là yếu tố trực tiếp tham gia điều chỉnh hoạt động.
- Giao tiếp là cầu nối để hoạt động chuyển từ hình thức tập thể, xã hội sang
hình thức cá nhân.

- Giao tiếp là một thành phần trong cấu trúc hoạt động chung của tập thể.
- Giao tiếp còn là một dạng của hoạt động cụ thể.
KẾT LUẬN
Những phạm trù cơ bản của tâm lý học phản ánh nội dung cơ bản, những
mặt, những quy luật vận động phát triển của tâm lý. Hệ thống phạm trù cơ bản
của tâm lý học cung cấp phương tiện nhận thức các hiện tượng tâm lý, loại hiện
tượng phức tạp nhất, khó nghiên cứu nhất trong thế giới hiện thực. Đồng thời
phạm trù cơ bản của tâm lý học còn góp phần phát triển năng lực tư duy tâm lý
học cho nhà nghiên cứu. Nắm vững các phạm trù cơ bản của tâm lý học là điều
kiện để nhà nghiên cứu xây dựng cho mình một tư duy hệ thống và cơ bản về tâm
lý học.
Các phạm trù cơ bản tâm lý học có lịch sử phát triển lâu dài cùng lịch sử
phát triển của bộ môn tâm lý. Ở từng giai đoạn, thời kỳ lịch sử cụ thể các phạm
trù cơ bản của tâm lý học được bổ sung, phát triển. Từ một phạm trù hiện nay tâm
lý học đã xây dựng được cả một hệ thống các phạm trù cơ bản phục vụ cho
nghiên cứu và triển.
Các phạm trù cơ bản của tâm lý học là sự khái quát những hiện tượng tâm
lý, ý thức của con người, thể hiện quan điểm của nhà nghiên cứu. Vì vậy phạm
trù cơ bản của tâm lý học ngoài ý nghĩa thông tin về các nội dung tâm lý học, nó
còn phản ánh thái độ quan điểm của nhà nghiên cứu, của trường phái tâm lý học.
Do vậy, chỉ có đứng vững trên quan điểm duy vật biện chứng Mác-xít nhà nghiên
cứu mới hiểu và sử dụng đúng các phạm trù tâm lý học, góp phần phát triển bộ
môn tâm lý học và hệ thống các phạm trù cơ bản của tâm lý học trong tương lai.

20