Theo em để dân số phát triển ổn định cần phải có chính sách dân số và phát triển kinh tế như thế nào

Số 3 - 2018

SUY NGHĨ VỀ CHÍNH SÁCH DÂN SỐ CỦA VIỆT NAM

06/03/2018

Xem cỡ chữ
Có lẽ ngay từ khi nhà nước đầu tiên của nhân loại ra đời, các nhà thống trị đất nước đã quan tâm đến vấn đề dân số. Ở thời hồng hoang đó, dân số đông đồng nghĩa với nước mạnh. Dân số càng đông, nước càng mạnh.

Ngày nay vấn đề dân số vẫn là vấn đề quan trọng của một quốc gia. Dường như không có quốc gia nào trên thế giới không có vấn đề về dân số. Vì vậy, các quốc gia đều đưa ra các chính sách về dân số. Vậy chính sách dân số có nghĩa như thế nào? Theo Bách khoa toàn thư về dân số năm 2003, “Chính sách dân số có thể được định nghĩa là sự sắp xếp về mặt thể chế/hoặc việc xây dựng các chương trình cụ thể thông qua đó nhà nước tác động trực tiếp hay gián tiếp tới quá trình thay đổi về mặt nhân khẩu học” của dân số nước mình.Tuy nhiên, ở các quốc gia khác nhau, vấn đề dân số gặp phải cũng khác nhau, do vậy chính sách dân số cũng khác nhau.

Quá trình chuyển tiếp xã hội và nhân khẩu học

Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy loài người có sự phát triển liên tục theo hướng ngày càng hiện đại. Từ chỗ chỉ đi hái lượm săn bắt chuyển sang trồng trọt và chăn nuôi. Từ chỗ nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu chuyển sang nền kinh tế công nghiệp, rồi ngày nay là “kỹ thuật” số. Quá trình thay đổi về phương thức “canh tác” làm cho tư duy của con người cũng thay đổi theo, từ đó giá trị đạo đức xã hội cũng thay đổi theo. Song, một quan niệm không hề thay đổi từ trước đến nay là “lao động là một giá trị đạo đức”. Nhưng về mặt xã hội nhiều quan niệm đã thay đổi theo sự thay đổi của các phương thức sản xuất. Nhà nhân khẩu học Caldwell đã tổng kết sự thay đổi này trong thuyết về nhân khẩu học. Ông cho rằng ở xã hội truyền thống, của cải từ con cái chảy sang bố mẹ, còn ở xã hội hiện đại của cải từ bố mẹ chảy sang con cái. Lý do để đưa ra nhận xét này là ở xã hội truyền thống, nền kinh tế nông nghiệp là chủ đạo nên nhà càng đông người càng có thu nhập cao. Trẻ trên 10 tuổi đã có thể ra đồng phụ giúp bố mẹ. Trẻ 10 tuổi đã có thể trông em, làm việc vặt trong nhà. Vì vậy các gia đình sẽ sinh đẻ nhiều. Ở xã hội hiện đại việc nuôi dạy con cái từ lúc nó được sinh ra đến lúc nó tự kiếm được cơm ăn việc làm rất tốn kém, vì phải cho chúng ăn uống đầy đủ, học ở các trường tốt để sau này còn kiếm được việc làm và việc làm phải có thu nhập cao... Với các lý do đó các gia đình tự hạn chế việc sinh đẻ. Ở xã hội truyền thống, bình quân một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có thể lên tới 5-6 trẻ. Ở xã hội hiện đại chỉ tiêu này chỉ là từ hai đến 3 trẻ.

Trên giác độ nhân khẩu học, quá trình phát triển của dân số các nước trên thế giới được thể hiện qua mô hình quá độ nhân khẩu học/dân số (Demographic Transition Model). Ở mô hình này, quá trình nhân khẩu học trải qua 4 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất được đặc trưng bởi tỷ lệ sinh cao và tỷ lệ chết cũng cao. Giai đoạn quá độ này tương ứng với thời kỳ sản xuất nông nghiệp, thời gian mà sự phát triển của khoa học kỹ thuật còn yếu kém, con người chưa có khả năng khống chế sinh đẻ và cũng chưa có khả năng khống chế cái chết đặc biệt là chết của trẻ sơ sinh và trẻ em. Ở giai đoạn này, tốc độ tăng dân số ở mức thấp. Giai đoạn thứ hai được đặc trưng bởi tỷ lệ sinh cao và tỷ lệ chết bắt đầu giảm và giảm mạnh. Giai đoạn quá độ này tương ứng với thời kỳ sản xuất công nghiệp đã phát triển và đã có sự phát triển của khoa học kỹ thuật đặc biệt là trong lĩnh vực y tế: con người đã khống chế được một phần bệnh tật. Tuy nhiên, khả năng khống chế sinh đẻ vẫn còn bị hạn chế. Vì vậy, tốc độ tăng dân số tự nhiên bắt đầu tăng và tăng cao. Giai đoạn thứ ba, thành tựu về y tế và xã hội đã đạt mức bão hòa vì vậy tỷ lệ chết đã giảm tới ngưỡng và tỷ lệ sinh cũng bắt đầu giảm nhờ ra đời các biện pháp tránh thai cho con người. Tuy nhiên, tốc độ giảm của tỷ lệ sinh không cao bằng tốc độ gim của tỷ lệ chết nên tốc độ tăng dân số vẫn tiếp tục tăng. Ở giai đoạn thứ tư tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết ở mức độ thấp và được duy trì theo thời gian. Lúc này tốc độ tăng dân số cũng chững lại, song duy trì ở mức độ cao.

Nguồn: //en.wikipedia.org/wiki/Demographic_transition

Đối với từng thời kỳ quá độ của dân số chính phủ các nước luôn muốn đưa ra các giải pháp để điều khiển quá trình phát triển của dân số. Tức là đưa ra các chính sách khác nhau nhằm khống chế các mặt không mong muốn của sự phát triển dân số. Ở giai đoạn đầu, người ta đưa ra các chương trình nhằm giảm tỷ lệ chết của dân số, đặc biệt là tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh và trẻ em. Ở giai đoạn thứ hai, các chính sách nhằm giảm tỷ lệ chết vẫn được tiếp tục duy trì, song các giải pháp nhằm giảm tỷ lệ sinh của dân số cũng được đưa ra. Các biện pháp tránh thai khác nhau như đặt vòng tránh thai, triệt sản, uống thuốc tránh thai, thậm chí là phương pháp nạo phá thai… được áp dụng trong thời kỳ này. Tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết trong thời kỳ này song hành giảm. Chính sách kế hoạch hóa gia đình tiếp tục được duy trì trong giai đoạn thứ ba nên trong giai đoạn này tỷ lệ sinh giảm mạnh. Tuy nhiên, tỷ lệ chết cũng đã giảm tới ngưỡng và tốc độ tăng dân số đạt mức độ cao.

Giống như các hiện tượng vật lý, các hiện tượng dân số cũng có sức ỳ và đặc biệt là quán tính. Các chương trình kế hoạch hóa gia đình tiếp tục được người dân tự nguyện thực hiện theo đúng tinh thần của thuyết Caldwell. Lý do có thể giải thích như Caldwell đã đề cập là nuôi dạy một đứa trẻ trong thời kỳ hiện đại “tốn kém” rất nhiều, vì vậy các cặp vợ chồng sợ sinh con. Hơn thế nữa, trong thời đại mới quan niệm của con người cũng dần thay đổi nhiều theo hướng hưởng thụ hơn là sinh con đẻ cái. Ngay từ những năm cuối của năm 1960 ở thế kỷ trước khi một nữ bác sỹ người Ba Lan được hỏi tại sao người Ba Lan sinh ít con, bà nói rằng “Bây giờ người ta không có con có thể chịu đựng được, còn không có ô tô, không được vui chơi giải trí người ta không chịu đựng được”. Ở thời kỳ thứ tư, tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết đều thấp, vì vậy tốc độ tăng dân số tự nhiên cũng thấp. Các nước rơi vào giai đoạn này đều có các chính sách khuyến sinh. Như trường hợp của Ba Lan, ngay từ những năm 1960 của thế kỷ trước, nước này đã đề ra chính sách đóng thuế độc thân: Đến một độ tuổi nhất định mà không lập gia đình thì phải đóng thuế độc thân.

Về hướng chính sách dân số của Việt Nam

Không ngoài quy luật của quá độ nhân khẩu học, Việt Nam cũng trải qua các thời kỳ như mô hình quá độ nhân khẩu học đưa ra. Năm 1979, tổng điều tra dân số trên phạm vi toàn quốc được tiến hành. Dựa trên kết quả của cuộc điều tra này, lần đầu tiên tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết của Việt Nam được ước lượng. Tỷ lệ sinh vào giai đoạn 1969-1970 của Việt Nam là 37,4%o và tỷ lệ chết ở mức 14,4%o. Như vậy, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở mức 13%o. Kết quả ước lượng này cho thấy vào lúc đó Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của quá độ nhân khẩu học. Ứng với giai đoạn đầu của quá trình dân số, chính phủ các nước thường đưa ra hai chính sách/chương trình dân số. Thứ nhất, giảm tỷ lệ chết, đặc biệt là tỷ lệ chết của trẻ em, chú trọng tới giảm tỷ lệ trẻ em chết yểu. Thứ hai, giảm tỷ lệ sinh. Thực chất, giảm tỷ lệ trẻ em chết yểu cũng là một yếu tố giảm sinh. Lý do là ý thức đẻ đề phòng của người dân cũng giảm đi (đẻ nhiều để đề phòng đứa này bị chết thì có đứa khác thay thế). Trên phạm vi của miền Bắc, ngay đầu những năm 1960, Chính phủ đã thấy được các vấn đề về dân số nên đã triển khai chương trình kế hoạch hóa gia đình. Tuy nhiên, do chiến tranh vẫn còn đang xảy ra, nên quyết tâm về kế hoạch hóa dân số chưa cao. Từ năm 1982, kế hoạch hóa gia đình thực sự được quan tâm. Ủy Ban Dân Số Quốc Gia được thành lập và do các nhà lãnh đạo cao cấp của Nhà Nước đứng đầu. Chính sách “Mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con” được thực hiện. Mọi biện pháp giảm sinh đều được thực hiện: bao cao su, đặt vòng tránh thai, triệt sản, nạo phá thai...Hỗ trợ cho các biện pháp này là các chương trình y tế nhằm vào việc giảm mức độ chết nói chung và tỷ lệ chết của trẻ em, đặc biệt là giảm mức độ chết của trẻ sơ sinh (dưới 1 tuổi) nói riêng. Đơn cử, các chương trình chăm sóc bà mẹ và trẻ em: chăm sóc thai sản, tiêm chủng mở rộng…được triển khai và thực hiện mạnh mẽ. Như vậy, ứng với giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ nhân khẩu học, chính sách dân số của Việt Nam là thực hiện chương trình kế hoạch hóa gia đình và cải thiện môi trường y tế nhằm hạn chế tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết của dân số.

Kết quả của các chương trình kế hoạch hóa dân số và chăm sóc bà mẹ và trẻ em là tỷ lệ sinh và chết của Việt Nam đều giảm và gim ngày càng mạnh. Tỷ lệ sinh thô giảm từ mức 45%o vào cuối thập kỷ 1950 giảm xuống mức 37,6%o vào cuối những năm 1980 rồi xuống mức 32%o vào cuối những năm 1990 (30%o vào năm 1989), 19,9%o vào năm 1999 và 17,6%o vào năm 2009. Tỷ lệ chết, đặc biệt là tỷ lệ chết của trẻ dưới 1 tuổi (IMR), giảm rất nhanh: từ 42,3%o vào năm 1989 giảm xuống mức 36,7%o vào năm 1999 và giảm tiếp xuống mức 16,0%o vào năm 2009. Tuổi thọ trung bình lúc sinh (tuổi trung bình một đứa trẻ khi mới được sinh ra sẽ sống được bao nhiêu năm) của Việt Nam tăng rất nhanh. Theo Tổng điều tra dân số 1979, tuổi thọ trung bình lúc sinh của Việt Nam là 56 tuổi đối với nữ giới và 54 tuổi đối với nam giới. Các chỉ tiêu tương ứng của Tổng điều tra dân số 1989 là 67,5 và 63 tuổi; Tổng điều tra dân số 1999 là 71,8 và 66,6 tuổi (tuổi thọ chung là; 69,1 tuổi); Tổng điều tra dân số 2009 là 75,6 và 70,2 tuổi (tuổi thọ chung là 72,8 tuổi). Như vậy, tuổi thọ trung bình lúc sinh của Việt Nam đã gần tương đương nhiều nước phát triển.

Đề xuất chính sách dân số của Việt Nam trong thời gian tới

Các số liệu trên cho thấy, hiện nay dân số Việt Nam đã bước sang giai đoạn thứ ba và thứ tư của mô hình quá độ dân số. Tỷ lệ sinh đã đạt mức sinh thay thế, một mức sinh mà theo các nhà dân số học nếu nó được duy trì lâu dài dân số sẽ dần trở thành dân số ổn định, có cơ cấu dân số theo giới tính và độ tuổi không thay đổi, tức là có thể nói dưới góc độ nhân khẩu học đạt trạng thái tối ưu. Trên bình diện xã hội, Việt Nam cũng đang chuyển mạnh từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại. Với đặc điểm nhân khẩu học và xã hội như vậy, cần có một chính sách dân số tương thích. Tuy nhiên, dù triển khai bất kỳ một chính sách/chương trình dân số nào đều nên song song hướng tới hai mục tiêu: 1) Đạt được một dân số tối ưu và 2) Có một dân số có chất lượng

Đạt được một dân số tối ưu có nghĩa là: có quy mô dân số, trong điều kiện tổ chức xã hội cụ thể, cho phép khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn vốn quốc gia để tạo ra khối lượng hàng hóa tiêu dùng bình quân một đầu người cao nhất. Để đạt được một dân số tối ưu như vậy, phải có chính sách dân số, kinh tế và xã hội uyển chuyển theo thời gian.

Để có một dân số có chất lượng, trong giai đoạn trước mắt và lâu dài Việt Nam cần đề ra chính sách hướng vào chất lượng dân số. Do dân số là tập hợp của các cá nhân, nên chiến lược đề ra làm sao để các cá nhân trong cộng đồng là các cá nhân có chất lượng. Một cá nhân trong cộng đồng được coi là “Có chất lượng” khi đạt được các tiêu chuẩn sau:

a. Về mặt thể chất: Có thể hình cao lớn; Có thể lực tốt; không thường xuyên bị ốm đau bệnh tật; không khiếm khuyết về mặt sinh học.

b. Về tinh thần và trí tuệ: Có cuộc sống tinh thần vui vẻ; có học vấn cao; có khả năng sáng tạo; có tinh thần thương yêu đồng loại.

Các cá nhân trong cộng đồng có chất lượng chưa thể tạo ra một dân số có chất lượng. Để có một dân số có chất lượng ngoài việc dân số phải được tập hợp từ các cá nhân có chất lượng, còn phải đạt được các yêu cầu sau: Nó phải tồn tại lâu dài; phải đảm bảo tạo đủ nguồn lực để duy trì mức sống cao cho cộng đồng; các công dân trong cộng đồng phải có sự gắn kết.

Một dân số không thể được coi là có chất lượng nếu nó gồm toàn những người ốm yếu. Hơn thế nữa ngay cả khi các cá nhân trong cộng đồng có thân hình có vẻ to khỏe nhưng thể lực lại yếu thì cũng không thể coi là có chất lượng. Mặt khác, một dân số bao gồm toàn những người khỏe mạnh, nhưng tỷ lệ sinh lại quá thấp, không đủ khả năng duy trì dân số/dân tộc đó thì cũng không thể coi là có chất lượng được vì sự sinh tồn là nhu cầu khách quan của mọi sinh vật. Trên giác độ này cũng không thể coi các quốc gia có tỷ lệ sinh dưới mức sinh thay thế là các dân số có chất lượng cao. Vì khi tình trạng này kéo dài, dân số đó sẽ biến mất. Với một dân số bao gồm những con người khỏe mạnh, các hộ gia đình có thu nhập cao, mức sinh luôn được duy trì ở mức sinh thay thế, song các cá nhân trong cộng đồng không có sự gắn kết tốt cũng không thể được coi là dân số có chất lượng cao. Với một dân số như vậy khi có sự cố mang tính chất cộng đồng (chiến tranh, thiên tai…) không thể hợp lực cùng nhau giải quyết các sự cố đó.

Trên cơ sở phân tích trên, trước mắt cũng như lâu dài Việt Nam nên theo đuổi chính sách nâng cao chất lượng dân số. Để thực hiện được chính sách này cần phải thực hiện một cách uyển chuyển các chương trình mục tiêu sau:

Tiếp tục thực hiện chương trình SKSS/kế hoạch hóa gia đình nhằm mục đích duy trì tỷ lệ sinh ở mức độ sinh thay thế, đồng thời cải thiện đời sống cho các vùng kinh tế xã hội có mức độ sinh cao. Khẩu hiệu nên đưa ra là “Mỗi cặp vợ chồng nên chỉ có từ 3 con trở xuống”. Lý do đưa ra khẩu hiệu này nhằm tránh tác động xấu của quá trình hiện đại hóa tới hành vi sinh đẻ của con người như thuyết của Caldwel đưa ra. Hiện nay nhiều nước trên thế giới (Đức, Nhật, Ba Lan, Thụy Điển…) đã rơi vào tình trạng nhiều cặp vợ chồng không muốn sinh con và nhà nước đã phải áp dụng chính sách khuyến sinh (từ ngày 1-1-2007, nước Đức áp dụng chính sách trẻ em sinh ra được nhà nước cấp dưỡng; Thụy Điển áp dụng chính sách đàn ông được quyền nghỉ để trông nom con cái…).

Thực hiện các chương trình/phong trào nâng cao thể lực cũng như trí lực cho người dân nói chung và cho các thế hệ trẻ nói riêng như chương trình sàng lọc trước sinh và sàng lọc sơ sinh; chương trình chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh; chương trình sữa học đường; chính sách quản lý giá sữa nhằm tránh tư thương lũng đoạn giá sữa; phong trào nuôi con bằng sữa mẹ; phong trào toàn dân tập thể dục,…

Thực hiện các chương trình nhằm thúc đẩy sự đoàn kết toàn dân; duy trì các chuyên mục trên TV “Việc tử tế”, “Là lành đùm lá rách”…Khuyến khích thành lập các hội gắn kết con người với con người như Hội ái hữu, Hội đồng niên…

Duy trì tỷ lệ trẻ em đi học ở mức cao; nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường; khuyến khích các dòng họ thành lập các quỹ khuyến học,…

Chính sách dân số chung nhằm vào các mục tiêu nêu trên, song việc áp dụng nên có sự uyển chuyển. Cụ thể, ở những vùng có tỷ lệ sinh cao, mức sống của dân cư thấp vẫn cần áp dụng chính sách kế hoạch hóa gia đình, song song với việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Đối với những vùng có tỷ lệ sinh thấp, kế hoạch hóa gia đình không cần được ưu tiên, song chương trình nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân cần được ưu tiên. Các chương trình nhằm thúc đẩy sự đoàn kết toàn dân, nâng cao chất lượng giáo dục… cần được thực hiện chung trên phạm vi toàn quốc.

Tài liệu tham khảo

  1. Ban Chỉ Đạo Tổng điều tra dân số Việt Nam 1989; Phân tích kết quả điều tra mẫu; NXB TK, 1991.
  2. Tổng Cục Thống kê; Tổng điều tra dân số và nhà ở việt nam năm 2009 mức sinh và mức chết ở việt nam: thực trạng, xu hướng và những khác biệt; NXB TK 2011.
  3. Tổng Cục Dân số- KHHGĐ (2007): Báo cáo kết quả nghiên cứu Đề Tài “Nghiên cứu xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê phản ánh chất lượng dân số của Việt Nam.
  4. www.Un.org/esa/Population/Techcoop/...Stablepop/Chapter1.pdf.

ThS. LÊ VĂN DỤY

Các tin khác

  • TÌNH HÌNH XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2018
  • NGÂN HÀNG THẾ GIỚI HỖ TRỢ DỰ ÁN CHĂM SÓC SỨC KHỎE NGƯỜI CAO TUỔI TẠI TỈNH AN HUY, TRUNG QUỐC
  • BÌNH ĐẲNG GIỚI VỚI CƠ HỘI THAM GIA THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
  • BƯỚC ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC: CHUYỂN HƯỚNG TỪ DÂN SỐ-KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH SANG DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN
  • CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUYỀN QUYẾT ĐỊNH GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ

  • Tạp chí DS&PT năm 2018
    • TC DS&PT 2018 - Số 1
    • TC DS&PT 2018 - Số 2
    • TC DS&PT 2018 - Số 3
    • TC DS&PT 2018 - Số 4
    • TC DS&PT 2018 - Số 5
    • TC DS&PT 2018 - Số 6
    • TC DS&PT 2018 - Số 7
    • TC DS&PT 2018 - Số 8
    • TC DS&PT 2018 - Số 9
  • Tạp chí DS&PT năm 2019
    • TC DS&PT 2019 - Số 1
    • TC DS&PT 2019 - Số 2
    • TC DS&PT 2019 - Số 3
    • TC DS&PT 2019 - Số 4
    • TC DS&PT 2019 - Số 5

Số 6 - 2018

DÂN SỐ VỚI PHÁT TRIỂN- NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

01/06/2018

Xem cỡ chữ
Việt Nam xác định, phát triển bền vững là mục tiêu chiến lược của quốc gia. Để đạt được mục tiêu này, trọng tâm của chính sách dân số cần phải thay đổi thích ứng với bối cảnh phát triển mới, như nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển việc làm có giá trị cao để tận dụng cơ cấu “dân số vàng”; phát triển hệ thống giáo dục và y tế phù hợp với cơ cấu dân số thay đổi mạnh mẽ; dân số già và an sinh xã hội; mất cân bằng giới tính khi sinh và hệ lụy; di dân và chất lượng cuộc sống... Nói cách khác, yếu tố dân số cần phải được giải quyết trong mối quan hệ chặt chẽ với phát triển bền vững, vì dân số vừa là động lực tạo ra phát triển, vừa là đối tượng thụ hưởng sự phát triển để kiến tạo xã hội phát triển ở trình độ cao hơn. Việc chuyển đổi trọng tâm của chính sách dân số, từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển đã được triển khai thực hiện trong thời gian qua và thu được thành quả đáng ghi nhận, tuy nhiên cần tiếp tục đẩy mạnh trên các khía cạnh chủ yếu sau đây:

Bổ sung, điều chỉnh hệ thống pháp luật về dân số

Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký tham gia Công ước về “xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ” (ký ngày 29/7/1980, phê chuẩn ngày 19/3/1982). Điểm e, khoản 1, điều 16 của Công ước này ghi rõ: “Quyền tự do và trách nhiệm như nhau khi quyết định về số con, khoảng cách giữa các lần sinh và có quyền tiếp cận thông tin, giáo dục và các biện pháp để thực hiện những quyền này”. Năm 1994, tại Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển, tại Cai-rô (Ai Cập) Việt Nam cũng ký “Chương trình hành động Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển”. Điều 12 Hiến pháp (sửa đổi, năm 2013) ghi rõ: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên…”. Trong những năm gần đây, hàng chục vạn người Việt Nam kết hôn với người nước ngoài. Con số này sẽ tăng lên trong quá trình hội nhập, do đó cần rà soát, bổ sung, điều chỉnh hệ thống pháp luật về dân số phù hợp Hiến pháp sửa đổi năm 2013 và luật pháp quốc tế.

Lồng ghép biến dân số vào kế hoạch hóa phát triển

Quy mô, cơ cấu phân bố dân số đã và đang có xu hướng biến đổi nhanh. Để bảo đảm nguyên tắc con người là trung tâm của phát triển, để kế hoạch có tính thực tiễn, hiệu quả cao thì phải tiến hành dự báo dân số và tính đến yếu tố dân số trong kế hoạch hóa phát triển. Trong đó, trọng tâm là kế hoạch hóa lao động - việc làm, tận dụng cơ cấu “dân số vàng”, kế hoạch hóa giáo dục và đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và kế hoạch hóa y tế, đặc biệt chú ý đến cơ cấu dân số theo tuổi biến đổi nhanh. Đồng thời cần xây dựng hệ thống số liệu dân số đầy đủ, tin cậy và dự báo dân số. Do dân số biến đổi nhanh và phức tạp, như di dân, việc xây dựng hệ thống số liệu dân số đầy đủ, kịp thời, chính xác và dự báo đáng tin cậy là cơ sở không thể thiếu cho việc lồng ghép biến dân số vào kế hoạch phát triển

Thông tin, giáo dục, truyền thông về dân số và phát triển

Những vấn đề dân số và phát triển, như: (1) Cơ cấu dân số thay đổi nhanh và đã hình thành cơ cấu “dân số vàng”, (2) Già hóa dân số, (3) Mất cân bằng giới tính khi sinh, (4) Di dân, đô thị hóa ngày càng mạnh mẽ, yêu cầu tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân, (5) Tác động kinh tế - xã hội trong thời kỳ mức sinh thấp, gia đình nhỏ, gia đình hạt nhân vv..là những vấn đề mới xuất hiện ở Việt Nam. Vì vậy, cần được thông tin, giáo dục, tuyên truyền không chỉ cho người dân mà đặc biệt cần thiết đối với cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị và các nhà hoạch định chính sách, lãnh đạo và quản lý các cấp, các ngành.

Bên cạnh đó, một số vấn đề được nêu trong Chương trình hành động tại Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển (năm 1994, Cai-rô, Ai Cập) cần tiếp tục được nghiên cứu và dự báo để có sự thích ứng phù hợp trong bối cảnh Việt Nam hiện nay. Cụ thể là một số vấn đề sau:

Đảm bảo an ninh lương thực cho quốc gia có dân số lớn

Một trong những mục tiêu hàng đầu của Tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc (năm 2003) là xóa bỏ tình trạng nghèo và đói cùng cực của con người thì an ninh lương thực của Việt Nam hiện đang được bảo đảm. Tuy nhiên, trong tương lai, Việt Nam cũng đứng trước những thách thức như diện tích đất trồng lúa bình quân đầu người vào loại thấp nhất trên thế giới nhưng do phải tiến hành công nghiệp hóa nên diện tích đất trồng lúa giảm mạnh. Theo tổ chức Liên hợp quốc tại Việt Nam, trong 30 năm tới, Việt Nam là một trong 30 quốc gia “có nguy cơ cực lớn” do các tác động của biến đổi khí hậu. Do đó, 5,3% tổng diện tích đất cả nước có thể bị ngập lụt, trong khi dân số vẫn tiếp tục tăng, sẽ đạt khoảng 100 triệu vào năm 2025 và gần 110 triệu vào giữa thế kỷ XXI. Tổng cầu về lương thực ngày càng lớn, trong khi đó tổng cung bị đe dọa bởi thu hẹp diện tích, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, dịch bệnh.

Trong thời kỳ “dân số vàng”, mức sinh thấp, do đó, ở phạm vi hộ gia đình, số con của mỗi cặp vợ chồng ít và trên phạm vi toàn quốc, áp lực dân số lên hệ thống giáo dục phổ thông quốc gia giảm mạnh: quy mô dân số độ tuổi đi học (từ 5 - 24 tuổi) đã giảm, từ hơn 33,2 triệu người năm 1999 xuống còn khoảng triệu 29,5 triệu năm 2013. Kết quả này tạo thuận lợi to lớn cho gia đình và xã hội trong việc chăm sóc sức khỏe, giáo dục, đào tạo cho thế hệ trẻ, thể hiện ở các thành tựu sau: Tỷ lệ nhập học tăng lên, chất lượng giáo dục được nâng cao, tỷ lệ nữ đi học đã tăng lên, ngang bằng với nam giới, góp phần nâng cao vị thế phụ nữ và thực hiện tốt bình đẳng giới. Điều này sẽ tạo điều kiện để phụ nữ tham gia hoạt động kinh tế nhiều hơn và chất lượng cuộc sống cao hơn.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết việc làm

Đặc điểm nổi bật của dân số trong giai đoạn cơ cấu “dân số vàng” là cả số lượng và tỷ lệ dân số có khả năng lao động (từ 15 - 64 tuổi) tăng lên trong 20 năm (1999 - 2019). Đến năm 2019, tỷ lệ này đạt cực đại, chiếm tới gần 70% tổng dân số. Năm 2013, Việt Nam có 90 triệu dân. Nếu tỷ lệ người trong độ tuổi lao động như năm 1979, tức là chỉ có 52,7% thì chỉ có 47,0 triệu lao động, thực tế là 62,1 triệu, tăng hơn 15 triệu người hay gần 30% so với số liệu giả định. Đây là dư lợi lớn của “dân số vàng” cho tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, khoảng nửa dân số trong độ tuổi lao động dưới 34 tuổi, thuận lợi cho việc tiếp thu khoa học, kỹ thuật và linh hoạt trong chuyển đổi ngành, nghề.Tuy nhiên, lao động đông và tăng nhanh cũng tạo ra thách thức về: (1) Việc làm (2) Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật cho hàng chục triệu lao động, đặc biệt là khi tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật (bằng sơ cấp trở lên) hiện còn rất thấp và mất cân đối.

Xây dựng xã hội thích ứng với dân số già

Tổng điều tra Dân số năm 2009 cho thấy: 72,5% người cao tuổi sống ở nông thôn. Trong số người cao tuổi, chỉ có khoảng 16% - 17% hưởng lương hưu hoặc mất sức, hơn 10% các cụ hưởng trợ cấp người có công với nước. Như vậy, còn trên 70% người cao tuổi hiện nay sống bằng lao động của mình, bằng nguồn hỗ trợ của con cháu và gia đình. Trong khi đó, ở nông thôn ruộng đất ít, năng suất, thu nhập thấp, ít có tiết kiệm phòng khi bất trắc.

Theo Điều tra quốc gia về người cao tuổi năm 2011 có tới 56% người cao tuổi có sức khỏe yếu và rất yếu; trung bình mỗi người 2,7 bệnh. Trong bối cảnh con ít và con cái di cư, sống xa cha mẹ, việc chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi càng trở thành vấn đề lớn. Bên cạnh đó, sự khác biệt thế hệ là rất lớn. Nếu không giải quyết tốt sẽ nảy sinh mâu thuẫn và xung đột thế hệ. Tuy nhiên, sự chuẩn bị cho một xã hội có dân số già dường như còn đơn sơ cả về phương diện chính sách, luật pháp, cơ sở vật chất, kỹ thuật và tâm lý xã hội.

Giải quyết vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh

Sự mất cân bằng giới tính ở trẻ sơ sinh thuộc loại mất cân bằng vật chất - nền tảng của sự tồn tại và phát triển bền vững của xã hội, tất yếu sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy, như khó khăn trong việc kết hôn; nguy cơ lan rộng các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, do “thừa” nam, “thiếu” nữ nên nam giới không thể kết hôn hoặc kết hôn muộn, vì vậy, tình trạng quan hệ tình dục ngoài hôn nhân tăng lên, mại dâm khó kiểm soát, du lịch tình dục phát triển; gia tăng tội phạm xã hội do khan hiếm phụ nữ nên xảy ra nạn lừa đảo, bắt cóc, buôn bán phụ nữ, mại dâm,... Hoặc phụ nữ có thể bị ép buộc sinh thêm con, phá thai nhi gái, bất chấp sức khỏe và tính mạng, bị ngược đãi, phụ tình, ruồng bỏ khi không sinh được con trai.

Nâng cao chất lượng cuộc sống của người di cư

Người di cư có đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế ở nơi đến, xóa đói, giảm nghèo ở nơi đi nhưng họ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, như khó khăn về nhà ở. Nhu cầu nhà ở của dòng người nhập cư rất lớn. Năm 2009, cả nước có gần 1,8 triệu sinh viên, vượt quá khả năng cung cấp chỗ ở của các khu ký túc xá. Bên cạnh đó, hàng triệu lao động nhập cư được thu hút vào các khu công nghiệp và trên 90% số này phải thuê nhà trọ, chỉ khoảng 5% - 7% là được sống trong các nhà ở do doanh nghiệp xây dựng đàng hoàng, sạch đẹp. Số người đăng ký hộ khẩu nơi này, cư trú nơi khác ngày càng lớn. Đối với người di cư chỉ có đăng ký tạm trú, không có hộ khẩu sẽ gặp khó khăn, bởi hiện nay trong tổng số 676 văn bản có liên quan đến Luật Cư trú được các bộ, ngành và địa phương rà soát, trong đó xác định có 110 văn bản cần sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ cho phù hợp với những quy định mới của Luật Cư trú, 154 văn bản hết hiệu lực thi hành từ thời điểm Luật Cư trú có hiệu lực. Như vậy, nếu sửa đổi được 110 văn bản và bãi bỏ được 154 văn bản hết hiệu lực thì vẫn còn hàng trăm văn bản liên quan đến Luật Cư trú. Vì thế, những người không hộ khẩu sẽ gặp khó khăn về nhà ở, học tập, học nghề, chữa bệnh và các giao dịch dân sự khác.
Nâng cao chất lượng dân số và chất lượng dân số đầu đời

Theo Pháp lệnh Dân số năm 2003, “chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số”. Còn trong các văn bản của Đảng và Nhà nước thì thường sử dụng “chỉ số phát triển con người” (Human Development Index - HDI) như là thước đo về chất lượng dân số.

Chất lượng dân số của nước ta thông qua thước đo HDI đã không ngừng tăng qua các năm: từ 0,463 năm 1980 đã đạt 0,629 vào năm 2010 và được xếp vào mức trung bình. Tuy nhiên, so với thế giới, HDI của Việt Nam, năm 2010 xếp thứ 113 trong số 169 nước so sánh.

Việc chuyển trọng tâm chính sách từ dân số-kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển là hướng đi phù hợp với sự biến đổi của thực tế xã hội. Nhìn nhận được những vấn đề đặt ra trong giai đoạn chuyển đổi này sẽ giúp quá trình chuyển đổi đạt được những thành công mới.

Nguyễn Nguyên Hồng

Các tin khác

  • KINH TẾ XANH TẠO 24 TRIỆU VIỆC LÀM MỚI
  • CÓ BAO NHIÊU NGƯỜI ĐÃ TỪNG SỐNG TRÊN TRÁI ĐẤT?
  • HỘI NGHỊ BỘ TRƯỞNG PHỤ NỮ ASEAN LẦN THỨ 3: AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM GÁI, HƯỚNG TỚI TẦM NHÌN ASEAN 2025
  • VAI TRÒ CỦA NGƯỜI CAO TUỔI TRONG GIA ĐÌNH Ở VÙNG VEN ĐÔ HÀ NỘI
  • CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI CAO TUỔI VIỆT NAM

  • Tạp chí DS&PT năm 2018
    • TC DS&PT 2018 - Số 1
    • TC DS&PT 2018 - Số 2
    • TC DS&PT 2018 - Số 3
    • TC DS&PT 2018 - Số 4
    • TC DS&PT 2018 - Số 5
    • TC DS&PT 2018 - Số 6
    • TC DS&PT 2018 - Số 7
    • TC DS&PT 2018 - Số 8
    • TC DS&PT 2018 - Số 9
  • Tạp chí DS&PT năm 2019
    • TC DS&PT 2019 - Số 1
    • TC DS&PT 2019 - Số 2
    • TC DS&PT 2019 - Số 3
    • TC DS&PT 2019 - Số 4
    • TC DS&PT 2019 - Số 5

Chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình và bình đẳng giới trong gia đình hiện nay

Thứ tư - 23/12/2020 17:33
Bên cạnh các biện pháp phát triển kinh tế, y tế, giáo dục, kiểm soát việc khai thác tài nguyên, phân bố dân cư hợp lý, giải quyết ô nhiễm môi trường thì kế hoạch hóa gia đình là một biện pháp căn cơ giúp giải quyết vấn đề dân số và nâng cao chất lượng cuộc sống. Kế hoạch hóa gia đình ngoài mục đích hạn chế sự gia tăng dân số còn nhằm bảo vệ sức khỏe của người phụ nữ và trẻ em đồng thời đem lại hạnh phúc cho gia đình.

Ảnh minh hoạ - Nguồn internet


Cách đây 59 năm, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ) nước ta ban hành Quyết định 216/CP ngày 26/12/1961 về hướng dẫn sinh đẻ có kế hoạch và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Ngày 19/5/1997, Thủ tướng Chính phủ nước cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã quyết định lấy ngày 26/12 hàng năm làm ngày Dân số Việt Nam nhằm tập trung toàn xã hội cho công tác này, điều chỉnh sự phát triển dân số cho phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, trước mắt và lâu dài.

Hiện nay, Việt Nam đang được xếp vào một trong những nước có dân số đông và mức tăng dân số cao trên thế giới. Nhằm hướng tới kỷ niệm ngày Dân số Việt Nam 26/12/2020, góp phần tuyên truyền sâu rộng về những chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, những định hướng chuyển đổi trọng tâm từ dân số - kế hóa gia đình sang dân số và phát triển, chúng ta cùng tìm hiểu một số chính sách dân số – kế hoạch hóa gia đình và bình đẳng giới trong gia đình, cụ thể:

Về chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình:

+ Nên sinh từ 1-2 con: sinh ít con sẽ làm giảm khả năng tai biến sản khoa, tránh sa sinh dục, bảo vệ được sức khỏe người phụ nữ tránh các tình trạng kém dinh dưỡng đồng thời còn bảo vệ vẻ đẹp của người phụ nữ.

+ Khoảng cách sinh con nên từ 3-5 năm: không làm tăng thêm gánh nặng cho người phụ nữ về dinh dưỡng cũng như về sức khỏe giúp giảm suy dinh dưỡng, giãm tai biến sản khoa, giúp sinh dễ. Đồng thời, người mẹ có thời gian chăm sóc trẻ, tránh bệnh tật. Không sinh khoảng cách quá xa vì có thể đã quên kinh nghiệm nuôi con.

+ Tuổi có con nên từ khoảng 22-35. Sinh lúc còn quá trẻ khi cơ thể chưa phát triển đầy đủ làm tăng tai biến sản khoa, tăng tỉ lệ suy dinh dưỡng cho cả mẹ và con.

Theo khoản 9 - Điều 3- Pháp lệnh dân số(Số:06/2003/PL-UBTVQH11)quy định: “Kế hoạch hoá gia đìnhlà nỗ lực của Nhà nước, xã hội để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng chủ động, tự nguyện quyết định số con, thời gian sinh con và khoảng cách giữa các lần sinh nhằm bảo vệ sức khoẻ, nuôi dạy con có trách nhiệm, phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện sống của gia đình”.

Về bình đẳng giới trong gia đình

Theo Điều 18 củaLuật Bình đẳng giới, bình đẳng giới trong gia đình gồm:

“1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình;
2. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữutài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình;
3. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật;
4. Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển;
5. Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình”.

Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình là vợ chồng có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trong các hoạt động của gia đình, có ý thức trách nhiệm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ một cách công bằng; như quyền quyết định số con, khoảng cách sinh, số lần sinh, sinh con nào, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc nuôi dạy con cái… trên cơ sở chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau, tạo sự đồng thuận; Sự quan tâm chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau của cả vợ và chồng giúp cho sự phát triển của gia đình được ổn định và bền vững.

Như vậy, có thể nhận thấy thực hiện bình đẳng giới trong gia đình giúp con cái mỗi gia đình được nuôi dưỡng, chăm sóc chu đáo, học hành tốt, lớn lên trở thành những công dân tốt của gia đình và xã hội. Sự quan tâm, giáo dục của gia đình đối với con cái là môi trường quan trọng giúp mỗi con người hòa nhập vào cộng đồng và xã hội, thích ứng với đòi hỏi về nghề nghiệp, đạo đức, vốn sống của mỗi con người; sự quan tâm của họ đối với con cái còn giúp cho con cái tránh nhữngtệ nạn xã hộinảy sinh đối với mỗi con người. Quá trình xã hội hóa giáo dục được tạo bởi ba môi trường gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó gia đình là môi trường đầu tiên có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người; sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau của mỗi thành viên trong gia đình giúp mỗi con người có điều kiện phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và tinh thần.

Tác giả bài viết: Trần Thị Thu

Nguồn tin: VKS.H.Vĩnh Thạnh

Nâng cao chất lượng dân số là đầu tư cho tương lai

Thứ Năm, 24-12-2020, 02:36
Facebook Email Bản in +
Tư vấn dân số - kế hoạch hóa gia đình cho người dân ở Đô Lương (Nghệ An).

Chất lượng dân số là một trong những yếu tố hàng đầu, tác động trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Vì vậy, đầu tư cho việc nâng cao chất lượng dân số chính là đầu tư cho tương lai, tạo nguồn lực nhằm phát triển đất nước nhanh và bền vững.

Theo Tổng cục trưởng Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế) Đỗ Doãn Tú: Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS - KHHGĐ) thời gian qua, đã đạt được nhiều thành tích quan trọng. Quy mô dân số hiện nay gần 96,5 triệu người (năm 2019), tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế thành công, tỷ lệ tăng dân số 10 năm (2009-2019) trong khoảng từ 1,05% đến 1,15%/ năm, mức sinh thay thế được duy trì suốt 14 năm qua. Từ năm 2007, nước ta bước vào thời kỳ dân số vàng, cơ cấu dân số chuyển dịch tích cực, dân số trong độ tuổi lao động tăng mạnh, chiếm 68%.

Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt, tuổi thọ trung bình đạt 73,6% tuổi (năm 2019), cao hơn nhiều nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người. Tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em đều giảm mạnh; tầm vóc, thể lực người Việt Nam có bước cải thiện. Mỗi cặp vợ chồng có hai con đã trở thành chuẩn mực, lan tỏa trong toàn xã hội; dịch vụ DS - KHHGĐ ngày càng được mở rộng và chất lượng ngày càng cao...

Tuy nhiên, công tác dân số hiện đang gặp nhiều khó khăn, thách thức. Từ việc chỉ tập trung giải quyết vấn đề KHHGĐ để ổn định quy mô dân số, hiện nay công tác dân số phải đẩy mạnh việc giải quyết toàn diện các vấn đề cả về quy mô, cơ cấu, phân bổ; nhất là nâng cao chất lượng dân số và phải đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, mức sinh chênh lệch đáng kể giữa các vùng miền, tỉnh thành phố, thậm chí có những nơi mức sinh đã xuống thấp như một số tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long. Trong khi đó, mức sinh vẫn còn cao ở một số tỉnh miền núi phía bắc, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền trung, Tây Nguyên. Đáng chú ý, mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn diễn ra nghiêm trọng và ngày càng lan rộng. Lợi thế dân số vàng chưa thật sự được khai thác và phát huy hiệu quả bởi chưa có giải pháp đồng bộ… Các nội dung về dân số trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội còn chưa được chú trọng đúng mức. Nguồn lực đầu tư cho công tác dân số còn thấp, chưa tương xứng với yêu cầu...

Nhằm khắc phục khó khăn, giải quyết những thách thức nêu trên, hưởng ứng tháng hành động quốc gia về dân số và 50 năm Ngày dân số Việt Nam, Bộ Y tế kêu gọi các cấp, ngành cần “nâng cao chất lượng dân số để góp phần phát triển đất nước nhanh và bền vững”. Theo đó, các ngành, địa phương sớm có những giải pháp triển khai chiến lược dân số Việt Nam đến năm 2030. Cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp về công tác dân số; tiếp tục có chính sách hỗ trợ vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, cận nghèo, người có công với cách mạng, người khuyết tật để nâng cao chất lượng dân số. Mặt khác, xây dựng và triển khai thực hiện cơ chế lồng ghép các yếu tố dân số trong chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội; đẩy mạnh nghiên cứu về dân số và phát triển, trọng tâm là chất lượng dân số. Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố; đặc biệt là chất lượng dân số đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững. Chính sách dân số phải bảo đảm cân bằng, hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ của mọi người dân; giữa việc tuyên truyền vận động, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi. Cần bảo đảm nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu triển khai toàn diện công tác dân số, tập trung vào việc thực hiện các mục tiêu như duy trì mức sinh thay thế, đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, tận dụng hiệu quả lợi thế cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số, phân bố dân số hợp lý và nâng cao chất lượng dân số. Cần có đội ngũ mạnh cả về số lượng và chất lượng, được quan tâm nhất định về chế độ đãi ngộ cũng như đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ này. Việc phát triển mạng lưới cán bộ làm công tác dân số phải được xem là khâu trọng yếu trong việc thực hiện tốt chiến lược dân số đến năm 2030. Cần có đội ngũ cán bộ làm công tác dân số am hiểu, có kinh nghiệm và tâm huyết với công việc.

Bố trí các chương trình, dự án về dân số vào kế hoạch, chương trình đầu tư công; quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước; đẩy mạnh xã hội hóa, huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước cho công tác dân số; có chính sách khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất, phân phối, cung cấp các phương tiện, dịch vụ trong lĩnh vực dân số. Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước, gồm cả ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; đẩy mạnh việc đa dạng hóa các nguồn đầu tư từ cộng đồng, doanh nghiệp, tư nhân cho công tác dân số… Trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, cần vận dụng có hiệu quả các phương tiện truyền thông, mạng xã hội… nhằm phục vụ cho mục tiêu của chiến lược dân số. Thực hiện có hiệu quả các phương tiện truyền thông này sẽ giúp mỗi người dân hiểu hơn về tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng dân số, từ đó góp phần đắc lực vào sự phát triển bền vững. Để góp phần nâng cao chất lượng về dân số, trong đó bao gồm chất lượng về thể lực cần có nhiều giải pháp đồng bộ, tăng cường chế độ dinh dưỡng hợp lý để nâng cao thể trạng cho người Việt Nam.

Nâng cao chất lượng dân số trong tình hình mới đặt ra nhiều cơ hội và thách thức, đòi hỏi các cấp các ngành, trong đó những cơ quan phụ trách công tác DS - KHHGĐ cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, góp phần đạt được các mục tiêu đặt ra trong Chiến lược dân số Việt Nam đến năm 2030, góp phần đưa Việt Nam vững bước phát triển trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.

THANH MAI
Facebook Twitter Link EmailQuay lại

Video liên quan

Chủ đề