Tiểu luận triết học mác - lênin về ý thức

Tiểu luận triết học mác - lênin về ý thức
Tiểu luận quan điểm của triết học mác - lênin về vai trò của quần chúng nhân dân

Dưới đây là bài Tiểu luận: Quan điểm của triết học mác – lênin về vai trò của quần chúng nhân dân, các bạn có thể tải về kham khảo miễn phí, đây là đề tài tiểu luận môn triết học được giới thiệu cho các bạn sinh viên đang tìm kiếm tài liệu, ngoài ra các bạn có thể kham khảo thêm các bài tiểu luận về Quan điểm của triết học mác – lênin về vai trò của quần chúng nhân dântrên chuyên mục tiểu luận triết học.

Lưu ý: Trong quá trình viết tiểu luận Môn Triết Học nếu các bạn không có thời gian và cần hỗ trợ viết bài hoàn chỉnh, chất lượng tốt, các bạn có thể liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận chất lượng qua Zalo: https://zalo.me/0932091562

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊ NIN VỀ VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN

1.1. Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội

            Học thuyết về hình thái kinh tế – xã hội của C. Mác đã chứng minh rằng, phương thức sản xuất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Nguyên lý cơ bản đó của chủ nghĩa duy vật lịch sử vạch rõ rằng, không có sản xuất vật chất thì bất cứ xã hội nào cũng không tồn tại được. Lịch sử của xã hội, do vậy trước hết cũng là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất. C.Mác viết: “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp… tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta” (Tiểu luận: Quan điểm của triết học mác – lênin về vai trò của quần chúng nhân dân)

Thực tiễn lịch sử của xã hội loài người cho thấy, mọi quan hệ phức tạp của đời sống xã hội dù thể hiện trong bất kỳ lĩnh vực nào: chính trị hay pháp quyền, nghệ thuật hay đạo đức, tôn giáo hay khoa học… tất cả đều hình thành và biến đổi trên cơ sở sự vận động của nền sản xuất vật chất. Cộng đồng xã hội nào cũng được tạo nên từ những con người cụ thể, do đó sự tồn tại và phát triển của con người là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Song, con người muốn tồn tại, trước hết phải ăn, uống, mặc, ở…, mà để có những thứ đó, họ phải sản xuất và tái sản xuất. Nghĩa là, loài người bắt đầu làm nên lịch sử của mình bắt đầu từ việc chế tạo ra công cụ lao động, sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội, nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.

 Trong quá trình sản xuất vật chất đó, con người tất yếu phải liên kết lại với nhau theo những cách thức nhất định, đó chính là quan hệ sản xuất. Trong Lao động làm thuê và tư bản, C. Mác viết: “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó”.

 Trên quan hệ sản xuất này mà hình thành và phát triển hàng loạt những mối quan hệ xã hội khác mang tính tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, như chính trị, đạo đức, văn hóa, khoa học, tôn giáo. Như vậy, sản xuất vật chất là điều kiện căn bản quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. (Tiểu luận: Quan điểm của triết học mác – lênin về vai trò của quần chúng nhân dân)

1.2. Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội

Từ khi xã hội phân chia thành giai cấp đến nay, lịch sử xã hội là lịch sử đấu tranh giai cấp. Đây là quá trình tất yếu khách quan của xã hội có áp bức giai cấp, không do một lý thuyết xã hội nào tạo ra. Theo quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin, đấu tranh giai cấp không phải là những cuộc bạo loạn, khủng bố, lật đổ, chỉ có ý nghĩa phá hoại, tiêu cực mà là những cuộc đấu tranh rộng khắp của quần chúng nhân dân lao động chống lại giai cấp thống trị bảo thủ. Nguyên nhân khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp trong các xã hội có giai cấp đối kháng là do mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất phát triển mang tính chất xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đ trở nên lạc hậu so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ đại diện cho lực lượng sản xuất mới đang đòi hỏi một quan hệ sản xuất mới thích hợp, với một bên là giai cấp bóc lột bảo thủ, đại biểu cho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.

Chính các cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân bị áp bức, bị bóc lột chống lại giai cấp thống trị, giai cấp bóc lột, phát triển từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn đã làm cho xã hội phát triển. Thông qua đấu tranh giai cấp, trình độ giác ngộ giai cấp và trình độ tổ chức lực lượng đấu tranh của quần chúng ngày càng cao. Đến một giai đoạn nhất định, sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp của quần chúng nhân dân dẫn đến cách mạng xã hội. Theo V.I.Lênin, mọi cuộc cách mạng xã hội đều biểu hiện dưới hình thức đấu tranh giai cấp và thông qua đấu tranh  giai cấp mà đưa xã hội tiến lên từ thấp đến cao.

Trong mọi cuộc cách mạng xã hội, quần chúng nhân dân lao động luôn giữ vai trò quyết định. Khi nghiên cứu lý luận và thực tiễn cách mạng, C. Mác cho rằng, “chính con người làm ra lịch sử của mình”; rằng, lịch sử là lịch sử của con người theo đuổi những mục đích của mình.  Tuy  nhiên, lịch sử đó không phải được tạo nên  bởi những cá nhân riêng  lẻ, mà  phải do số đông thực hiện, đó là  quần chúng nhân dân. Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào mà không phải là hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng. V. I.Lênin khẳng định: “Cuộc cách mạng chỉ thực sự là một cuộc cách mạng khi nào hàng chục triệu người đồng lòng hăng hái nổi dậy”, “Toàn bộ lịch sử các cuộc chiến tranh giải phóng đều chỉ cho chúng ta thấy rằng khi các cuộc chiến tranh đó được đông đảo quần chúng tham gia một cách chủ động thì công cuộc giải phóng được thực hiện một cách nhanh chóng”.(Tiểu luận: Quan điểm của triết học mác – lênin về vai trò của quần chúng nhân dân)

Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, để cách mạng thành công không chỉ cần lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, mà còn cần đến tính tích cực, sáng tạo của họ trong từng thời kỳ lịch sử. Thời kỳ cách mạng là thời kỳ mà tính chủ động, sáng tạo của đông đảo quần chúng được phát huy cao độ. Đó cũng là thời kỳ bộc lộ rõ nét nhất, sâu sắc nhất sức mạnh vô địch của quần chúng đứng lên lật đổ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. V. I.Lênin viết: “Cách mạng là  ngày hội của những người bị áp bức và bị bóc lột. Không lúc nào quần chúng nhân dân có thể tỏ ra là người sáng tạo trật tự xã hội mới tích cực như trong thời kỳ cách mạng. Trong những thời kỳ như thế… thì nhân dân có thể làm được những kỳ công”.  Nhờ sức mạnh của quần chúng nhân mà “thời kỳ cách mạng có một tính sáng tạo lịch sử rộng lớn hơn, phong phú hơn, tự giác hơn, có kế hoạch hơn, có hệ thống hơn, dũng cảm hơn và rõ ràng hơn so với những thời kỳ tiến bộ của tiểu thị dân, của Đảng dân chủ – lập hiến, của chủ nghĩa cải lương. Đáng chú ý là, cuộc cách mạng xã hội càng triệt để bao nhiêu thì tính tích cực và sáng tạo

của quần chúng càng sâu sắc bấy nhiêu. Ngược lại, các cuộc cách mạng không triệt để thì tất nhiên, không phát huy được mạnh mẽ tính tích cực và sáng tạo của quần chúng. Theo C. Mác và Ph.Ăngghen, tính tích cực sâu sắc của quần chúng nhân dân thể hiện rõ nhất trong cách mạng vô sản, vì đó là cuộc cách mạng mang lại lợi ích cơ bản cho nhân dân lao động. Cuộc cách mạng đó tiêu diệt chế độ tư hữu, xóa bỏ chế độ người bóc lột người và đưa đến xã hội mới tiến bộ, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.

1.3. Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần

 Quần chúng nhân dân không những là lực lượng quyết định và sáng tạo trong sản xuất của cải vật chất, trong cách mạng xã hội, mà còn là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần. Tuy nhiên, không phải lúc nào vai trò này của quần chúng nhân dân cũng được xem xét đúng mức. Trong lịch sử, các giai cấp bóc lột thống trị thường cho rằng, nhân dân lao động l à những người thấp hèn, “vai u thịt bắp” thì không thể có vai trò gì trong việc phát minh khoa học và sáng tạo văn học, nghệ thuật; rằng, hoạt động tinh thần là lĩnh vực dành riêng cho những người trí thức, thuộc tầng lớp trên trong xã hội.

 Bên cạnh đó, quan niệm duy tâm cho rằng, lĩnh vực hoạt động văn hóa tinh thần như khoa học, triết học, nghệ thuật, không thuộc về nhân dân lao động, mà thuộc về những thiên tài, những người sáng tác chuyên nghiệp đã được “thần thánh” trao cho những khả năng ấy. Đây là những quan niệm sai lầm mà chủ nghĩa duy vật lịch sử đã bác bỏ. Với phương pháp biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử trong khi không hề phủ nhận hoặc coi nhẹ vai trò của các danh nhân văn hóa nhân loại, như các nghệ sĩ, các nhà triết học, các nhà khoa học, vẫn luôn khẳng định vai trò to lớn của quần chúng nhân dân lao động đối với sự phát triển đời sống tinh thần của x ã hội. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác cho rằng, ngay từ buổi đầu của lịch sử, trong xã hội cộng sản nguyên thủy, bên cạnh những hoạt động sản xuất vật chất, con người đã có những hoạt động về tinh thần, về văn học, nghệ thuật, mặc dù những lĩnh vực này còn thô sơ, mộc mạc. Có thể nói, từ khi loài người biết chế tạo và sử dụng công cụ để tiến hành sản xuất của cải vật chất, thì đồng thời họ cũng bắt đầu sản xuất ra những giá trị tinh thần. Trong lao động sản xuất, con người luôn tiếp xúc với tự nhiên và xã hội; nhờ đó, trí tuệ của họ về mọi lĩnh vực dần hình thành và phát triển, hiểu biết về tự nhiên, về xã hội, về chính bản thân mình được nâng cao. Những mong muốn tìm hiểu vũ trụ, những vui mừng cảm hứng trước những thành quả lao động, trước cảnh vật thiên nhiên của con người được thể hiện trong thần thoại, trong hội họa, điêu khắc.(Tiểu luận: Quan điểm của triết học mác – lênin về vai trò của quần chúng nhân dân)

 Có thể nói, những nền văn học nghệ thuật lớn đều bắt nguồn từ văn học nghệ thuật dân gian. C.Mác viết: “Thần thoại Hy Lạp không những cấu thành kho tàng của nghệ thuật Hy Lạp mà còn là miếng đất đã nuôi dưỡng nghệ thuật Hy Lạp nữa”. Hồ Chí Minh cũng từng nói: “Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng quần chúng không chỉ sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là những người sáng tác nữa”. Một mặt, quần chúng lao động là người trực tiếp tham gia sáng tác; mặt khác, những hoạt động thực tiễn, những nguyện vọng, tâm tư, tình cảm của họ là nguồn cảm hứng vô tận giàu chất thơ cho hoạt động sáng tác của những người làm văn học, nghệ thuật chuyên nghiệp. Bất cứ một giá trị văn hóa nghệ thuật nào cũng không thể tách rời đời sống phong phú của quần chúng nhân dân. Cùng với văn học, nghệ thuật, sự ra đời và phát triển của khoa học, kỹ thuật cũng chứng minh vai trò to lớn của quần chúng nhân dân.

Khoa học, kỹ thuật ra đời tr ên cơ sở khái quát kinh nghiệm thực tiễn lao động sản xuất và đấu tranh của quần chúng lao động cũng như do sự thôi thúc của nhu cầu sản xuất. Chính những cải tiến công cụ, phát minh khoa học, kỹ thuật đều bắt nguồn từ quá tr ình sản xuất của quần chúng lao động. Ngay toán học là một lĩnh vực trừu tượng nhất của khoa học tự nhiên, dường như là sản phẩm của trí tuệ thuần túy thì cũng có nguồn gốc trong thực tiễn đo đạc trong sản xuất nông nghiệp thời cổ đại. Không chỉ l à người tham gia phát triển khoa học – kỹ thuật, nhân dân lao động còn là những người trực tiếp áp dụng những thành tựu của khoa học – kỹ thuật vào sản xuất và thông qua đó, kiểm nghiệm lại những phát minh, giả thuyết, kết luận của khoa học, kỹ thuật. Thực tiễn sản xuất luôn đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi khoa học, kỹ thuật giải quyết, thúc đẩy khoa học, kỹ thuật phát triển không ngừng. Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Nếu trong xã hội xuất hiện một nhu cầu kỹ thuật thì điều đó sẽ thúc đẩy khoa học tiến lên hơn một chục trường đại học”. Sự phát triển không ngừng đó luôn mang tính kế thừa, luôn dựa vào những thành tựu của các thế hệ trước, dựa trên tri thức và kinh nghiệm của quần chúng nhân dân. Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt động tinh thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử.

XEM THÊM ==> DỊCH VỤ VIẾT THUÊ TIỂU LUẬN

 Tuy nhiên, phải trải qua một thời gian dài tới khi chủ nghĩa Mác ra đời thì chân lý “quần chúng sáng tạo ra lịch sử” mới được nêu lên. Từ khi có được nhận thức đúng về vai trò của quần chúng và nhận thức ấy được ăn sâu vào hàng triệu con người thì lịch sử biến chuyển nhanh chóng lạ thường, tính tích cực và sáng tạo cách mạng của quần chúng được biểu lộ vô cùng mạnh mẽ, thời gian phát triển lịch sử được rút ngắn, nhất là những thời kỳ cách mạng. Có thể khẳng định rằng, so với những quan niệm khác trong lịch sử về vai trò của quần chúng nhân dân, quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề này đã thể hiện sự vượt trội hơn hẳn cả từ góc độ lý luận lẫn thực tiễn. V.I.Lênin đã đánh giá cao quan điểm duy vật lịch sử của C.Mác về vai trò của quần chúng nhân dân: “Những lý luận trước kia đã không nói đến chính ngay hành động của quần chúng nhân dân, còn chủ nghĩa duy vật lịch sử, lần đầu tiên, đã giúp ta nghiên cứu một cách chính xác, như khoa học tự nhiên, những điều kiện xã hội của đời sống quần chúng và những biến đổi của những điều kiện ấy”. 

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN VỀ VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VÀO THỰC TIỄN CÁCH MẠNG NƯỚC TA

2.1. Quan điểm của triết học Mác – Lê nin về quần chúng nhân dân

         Quá trình vận động, phát triển của lịch sử diễn ra thông qua hoạt động của khối đông đảo con người được gọi là quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của một cá nhân hay một tổ chức, nhằm thực hiện mục đích và lợi ích của mình.Căn cứ vào điều kiện lịch sử xã hội và những nhiệm vụ đặt ra của mỗi thời đại màquần chúng nhân dân bao hàm những thành phần, tầng lớp xã hội và giai cấp khác nhau.Như vậy, quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản, baogồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.(Tiểu luận: Quan điểm của triết học mác – lênin về vai trò của quần chúng nhân dân)

             Khái niệm quần chúng nhân dân được xác định bởi các nội dung sau đây:

+ Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần, đóng vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân.

+ Thứ hai, những bộ phận dân cư chốnglại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với nhân dân.

+ Thứ ba, những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trựctiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

           Do đó, quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động biến đổi theo sự phát triển của lịch sử xã hội.

             Quần chúng nhân dân không phải là một cộng đồng bất biến mà trái lại, nó thay đổi càng với sự biến đổi của những nhiệm vụ lịch sử ở mỗi thời đại, mỗi giai đoạn phát triển nhất định. Tuy nhiên luc lượng cơ bản nhất của mỗi cộng đồng nhân dân chính là những con người lao động sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho sự sinh tồn và phát triển của xã hội. Ngoài ra tùy theo mỗi điều kiện lịch sử xác định mà bao gồm trong cộng đồng quần chúng nhân dân còn có thể bao gồm những lược lượng giai cấp và tầng lớp xã hội khác. Quần chúng nhân dân là những bộ phận XH có chung lợi ích liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của 1 cá nhân hay 1 Đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề về kinh tế, chính trị, XH của 1 thời đại lịch sử

– Đặc trưng của k/niệm quần chúng nhân dân:

+ Quần chúng nhân dân là những người LĐ sản xuất ra của cải vật chất tinh thần cho XH.

+ Quần chúng nhân dân là những bộ phận dân cư đấu tranh chống lại các giai cấp thống trị trong lịch sử.

2.2. Vai trò của quần chúng nhân dân

            Theo quan điểm duy vật lịch sử quần chúng nhân dân có vai trò là người sáng tạo ra lịch sử-nghĩa là sự phát triển của lịch sử XH là do hoạt động của quần chúng nhân dân tạo nên.

         Về căn bản, tất cả các nhà tư tưởng trong lịch sử trước mac đều không nhận thức dúng vai trò sang tạo lịch sử của quần chúng nhân dân. Về nguồn gốc lý luận, điều đó có nguyên nhân từ quan diểm duy tâm. Tôn giáo và phương pháp siêu hình trong phân tích các vấn đề xã hội.

         Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo lịch sử và là lực lượng quyết định sự phát triển lịch sử, do đó lịch sử trước hết và căn bản là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung.

+ Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Con người muốn tồn tại phải có các điều kiện vật chất cần thiết, mà những nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng được thông qua sản xuất. Lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc. Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay có vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Song, vai trò của khoa học chỉ có thể phát huy thông qua thực tiễn sản xuất của quần chúng nhân dân lao động, nhất là đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức trong nền sản xuất xã hội, của thời đại kinh tế tri thức. Điều đó khẳng định rằng, hoạt động sản xuấtcủa quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.

+ Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào mà không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng. Trong các cuộc cách mạng làm chuyển biến xã hội từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, nhân dân lao động là lực lượng tham gia đông đảo. Cách mạng là ngày hội của quần chúng, là sự nghiệp của quần chúng. Tất nhiên, suy đến cùng, nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng là bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng nhân dân. Bởi vậy, nhân dân lao động là chủ thể của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.(Tiểu luận: Quan điểm của triết học mác – lênin về vai trò của quần chúng nhân dân)

+ Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần. Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học, nghệ thuật,văn học, đồng thời, áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn. Những sang tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính trị, đạo đức… của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại. Hoạt động của quần chúng nhân dân từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội.

Mặt khác, các giá trị văn hóa tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến.

           Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt động tinh thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện lịch sử mà vai trò chủ thể của quần chúng nhân dân cũng biểu hiện khác nhau. Chỉ có trong chủ nghĩa xã hội, quần chúng nhân dân mới có đủ điều kiện để phát huy tài năng và trí sáng tạo của mình.

        Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, như Nguyễn Trãi đã nói: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết”. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, và quan điểm “lấy dân làm gốc” trở thành tư tưởng thường trực nói lên vai trò sáng tạo ra lịch sử của nhân dân Việt Nam.

XEM THÊM ==> CÁCH LÀM TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ĐIỂM CAO

2.3. Vai trò của cá nhân (Tiểu luận: Quan điểm của triết học mác – lênin về vai trò của quần chúng nhân dân)

            Con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là con người của truyền thống văn hóa Việt Nam, con người của lòng yêu nước và ý thức tự tôn dân tộc. Lòng yêu nước và ý thức tự tôn dân tộc đã trở thành một bộ phận cấu thành nên “cốt cách” dân tộc, đã được chứng minh suốt chiều dài lịch sử. Từ thuở Hùng Vương dựng nước, mỗi khi độc lập dân tộc bị xâm phạm, danh dự dân tộc bị xúc phạm, thì cả dân tộc Việt Nam sát cánh bên nhau, đồng cam cộng khổ, muôn người như một, vượt qua mọi khó khăn để làm nên những chiến công lẫy lừng từ Bạch Ðằng, Ðống Ða, tới Ðiện Biên Phủ. Ðến thời đại Hồ Chí Minh, dưới lá cờ vẻ vang của Ðảng, được tiếp thêm sinh lực từ lý tưởng tiên tiến của thời đại, truyền thống yêu nước của dân tộc đã được nâng lên một tầm cao mới, các phẩm chất cao quý của văn hóa, con người Việt Nam được phát huy đến mức cao nhất, và trở thành động lực tinh thần của toàn dân, cùng Ðảng và Bác Hồ vượt qua mọi gian khổ, đưa sự nghiệp giải phóng Tổ quốc đến đích thắng lợi cuối cùng.

Chiến tranh không chỉ là thử thách khắc nghiệt đối với mỗi cộng đồng dân tộc, mà đối với mỗi con người, thử thách còn khắc nghiệt hơn, vì mỗi người đều phải trực tiếp giải quyết các mâu thuẫn giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa sự sống và cái chết, giữa gia đình và Tổ quốc, nảy sinh từ chiến tranh. Và do có ý thức sâu sắc về vận mệnh của đất nước, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mọi người Việt Nam từ hậu phương tới tiền tuyến đều nhận rõ vai trò và trách nhiệm của mình, đặt sang một bên quyền lợi riêng, lấy lợi ích và quyền dân tộc làm mục đích sống.

Ở miền nam, ngay sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 được ký kết, Mỹ và tay sai đã tỏ rõ ý đồ không thực hiện Hiệp định, không thực hiện hiệp thương và tổng tuyển cử tự do, đồng thời ra sức củng cố quyền lực, triển khai chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” để dìm phong trào cách mạng vào trong biển máu. Với tinh thần bất khuất, kiên cường, cán bộ và đồng bào miền nam đã vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, từng bước khôi phục, phát triển lực lượng, dấy lên phong trào Ðồng khởi, đẩy chính quyền tay sai vào thế lúng túng. Chính vì thế, đế quốc Mỹ phải đưa quân viễn chinh vào Việt Nam. Hàng triệu quân Mỹ và tay sai, hàng triệu tấn bom đạn được sử dụng, những loại vũ khí hiện đại nhất được huy động, các thủ đoạn chiến tranh thâm độc, tàn bạo nhất được tiến hành, sức mạnh kinh tế được huy động để tạo ra cuộc sống “phồn vinh giả tạo” để mê hoặc đồng bào ở vùng tạm chiếm, nhưng đã không thể khuất phục, không thể lung lạc ý chí, quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ, đồng bào miền nam. Ðồng cam, cộng khổ, chịu đựng mọi gian khổ, thiếu thốn, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào miền nam từ nông thôn tới thành thị, từ đồng bằng tới miền núi, không phân biệt già trẻ, gái trai, không phân biệt sắc tộc và tôn giáo, đã cùng đứng trong một đội ngũ, chủ động và sáng tạo tìm ra cách đánh hiệu quả nhất, lập nên vô vàn chiến công hiển hách, làm kẻ thù phải kinh ngạc, khiếp sợ, chịu thất bại sau khi quân và dân Việt Nam tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước, với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trong cuộc chiến đấu hào hùng ấy, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc đã ngã xuống trên chiến trường. Các Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi, Bùi Ngọc Dương, Mai Quốc Ca, trở thành tấm gương tiêu biểu cho thế hệ con người Việt Nam mới, trung thành với lý tưởng và hiến dâng thân mình cho sự nghiệp cách mạng vĩ đại.(Tiểu luận: Quan điểm của triết học mác – lênin về vai trò của quần chúng nhân dân)

2.4. Ý nghĩa thực tiễn về vai trò của quần chúng nhân dân

            Lý luận duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân đã cung cấp một phương pháp luận khoa học quan trọng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn:

Thứ nhất, việc lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân đã xóa bỏ được sai lầm của chủ nghĩa duy tâm đã từng thống trị lâu dài trong lịch sử nhận thức về động lực và lực lượng sáng tạo ra lịch sử xã hội loài người. Đồng thời, đem lại một phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu và nhận tính lịch sử cũng như việc nghiên cứu và đánh giá vai trò của mỗi cá nhân, thủ lĩnh, vĩ nhân, lãnh tụ trong cộng đồng xã hội.

Thứ hai, lý luận về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân đã cung cấp một phương pháp luận khoa học để các Đảng Cộng sản phân tích các lực lượng xã hội, tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng nhân dân trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là, sự liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông nhân và đội ngũ trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. trên cơ sở đó tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp nhằm tạo ra động lực to lớn trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đi tới thắng lợi cuối cùng

2.5. Liên hệ thực tiễn về vai trò của quần chúng nhân dân

              Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã dẫn đến sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta. Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân quyết định nhất vẫn là: “sức mạnh của cả dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Sức mạnh đó đã được Đảng ta phát huy để trở thành sức mạnh nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và kẻ xâm lược, giành lại độc lập tự do cho dân tộc.

          Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, các Triều đại của dân tộc ta đã biết khơi dậy lòng yêu nước, tập hợp nhân dân tạo thành lực lượng có sức mạnh vô cùng lớn để chống thiên tai, địch họa, giữ vững sự trường tồn của dân tộc. Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của các thế lực xâm lược. Phát huy tinh thần đó Đảng ta đã vận dụng sáng tạo truyền thống của dân tộc và thấm nhuần sâu sắc, vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng vào cách mạng nước ta một cách phù hợp với thực tiễn. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nhận thức rõ sứ mệnh lịch sử mà dân tộc giao phó: Lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Thực hiện sứ mệnh cao cả đó, Đảng ta đã chú trọng công tác tập hợp, xây dựng lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa trên nền tảng khối  liên minh công – nông vững chắc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc đã được phát huy cao độ đặc biệt trong cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8 năm 1945 đập tan chế độ thực dân, phong kiến, xây dựng nhà nước Công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. (Tiểu luận: Quan điểm của triết học mác – lênin về vai trò của quần chúng nhân dân)

          Để huy động sức mạnh của toàn dân tộc Đảng ta đã chủ động tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân thành lập Mặt trận Việt Minh. Ngay sau đó các đoàn thể của Mặt trận Việt Minh như: Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc đã được thành lập và phát triển nhanh chóng ở khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước. Trong lúc cao trào kháng Nhật đang sục sôi khí thế thì nạn đói đang diễn ra nghiêm trọng ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, Đảng lại kịp thời đưa ra khẩu hiệu: “Phá kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói”. Khẩu hiệu hợp lòng dân đó đã thổi bùng ngọn lửa cách mạng, đưa hàng triệu quần chúng vào cao trào khởi nghĩa, đánh đổ chính quyền phát xít và tay sai.

          Đúng như nhận định của Đảng và Bác Hồ vĩ đại, ngày 14-8-1945, Nhật đầu hàng đồng minh, thời cơ Tổng khởi nghĩa đã đến. Đảng ta đã phát động toàn dân nổi dậy khởi nghĩa. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào cả nước đứng dậy “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Đáp lại lời kêu gọi đó, đồng bào cả nước đã đồng loạt đứng dậy tiến hành Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền ở khắp các địa phương mà khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội là một điển hình về phát huy sức mạnh của nhân dân. Để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa, tại Hà Nội đã tổ chức hoạt động quyên góp, ủng hộ quỹ mua vũ khí, thuốc chữa bệnh… được đông đảo công nhân hưởng ứng; thậm chí, một số cai, ký cũng tìm đến Việt Minh.

          Đến sát ngày khởi nghĩa, tổ chức Công nhân cứu quốc đã có hàng trăm hội viên chính thức và hàng vạn quần chúng cảm tình sẵn sàng hành động theo lời kêu gọi của Việt Minh. Cuối tháng 7, đầu tháng 8-1945, cao trào chống Nhật, cứu nước do Đảng lãnh đạo dâng lên mạnh mẽ ở nhiều nơi. Tự vệ Cứu quốc đã nắm lấy tổ chức Thanh niên bảo an do Nhật lập ra, để hoạt động… Sôi nổi nhất là phong trào không nộp thuế, nộp thóc cho phát xít Nhật và chính quyền bù nhìn; phong trào phá kho thóc của Nhật; cảnh cáo bọn Việt gian, thuyết phục nhà giàu, kỳ hào, hương lý lấy thóc cứu đói,…

XEM THÊM ==> DANH SÁCH TÊN ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC 

          Để trừng trị một số tên Việt gian phản động làm mật thám cho Nhật, cảnh cáo bọn chạy theo Nhật, Thành uỷ Hà Nội chỉ đạo thành lập Đội trừ gian (tháng 4-1945). Đội có những hoạt động tích cực, phối hợp với tự vệ chiến đấu, trừng trị những phần tử tay sai đắc lực của Nhật, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Trong khí thế cách mạng của quần chúng lên cao chưa từng thấy, công tác binh, địch vận đã lôi cuốn cả một bộ phận cảnh sát và bảo an ngả theo cách mạng. Cuộc “phản mít tinh” ngày 17-8 biến thành cuộc tuần hành thị uy trên đường phố của hàng vạn quần chúng Hà Nội với khí thế cách mạng chưa từng thấy đã làm cho phát xít Nhật bối rối không dám can thiệp, quân đội của chúng án binh bất động. Sau Hà Nội nhân dân các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hoá… cũng đã đồng loạt đứng lên, càng góp phần thúc đẩy phong trào chuẩn bị khởi nghĩa và khởi nghĩa ở các địa phương trên cả nước một cách mạnh mẽ.

Tiểu luận triết học mác - lênin về ý thức
Tiểu luận quan điểm của triết học mác – lênin về vai trò của quần chúng nhân dân

          Sáng ngày 19-8, Hà Nội chìm trong màu sắc đỏ rực của cờ cách mạng. Theo kế hoạch đã định, hàng vạn nông dân và dân nghèo được tập hợp thành đội ngũ kéo về trung tâm thành phố. Sau đó, cuộc mít tinh khổng lồ của gần 20 vạn người chuyển thành biểu tình thị uy của quần chúng, có các đơn vị tự vệ, tuyên truyền xung phong dẫn đầu, chia thành hai khối lớn chiếm các vị trí theo kế hoạch đã định. Một khối quần chúng chiếm phủ Khâm sai, đã giành được thắng lợi mau lẹ, một khối chiếm trại bảo an, lực lượng tự vệ nhanh chóng chiếm các vị trí quan trọng trong trại. Chúng ta thực hiện đấu tranh vừa kiên quyết vừa mềm dẻo và trước áp lực của quần chúng, đến 5 giờ chiều ngày 19-8, quân Nhật buộc phải rút lui khỏi Hà Nội. Cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội nhanh chóng lan ra khắp cả nước và cách mạng tháng 8 đã đã giành thắng lợi. Qua đó chứng minh chân lý đã được chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định: “quần chúng là người làm nên lịch sử”. (Tiểu luận: Quan điểm của triết học mác – lênin về vai trò của quần chúng nhân dân)

            Cuộc Tổng khởi nghĩa diễn ra trong điều kiện thuận lợi đó là thời cơ đã chín muồi. Tuy nhiên, chính khí thế của quần chúng, biểu hiện sức mạnh của tinh thần đoàn kết dân tộc đã làm cho các thế lực phản động khiếp sợ. Sức mạnh của nhân dân trong cách mạng tháng 8 là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được tổ chức thành một đội quân chính trị và vũ trang, với quyết tâm một lòng đấu tranh giành lại chính quyền đưa nước ta ra khỏi cuộc đời nô lệ, cả dân tộc đi lên CNXH.

          Như vậy, có thể khẳng định dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ vĩ đại cách mạng tháng 8 năm 1945 thắng lợi đã mở ra một thời đại mới cho dân tộc ta – thời đại đấu tranh giữ vững chính quyền, thống nhất, độc lập, cả nước tiến lên CNXH. Thắng lợi ấy có nhiều nguyên nhân, xong vai trò của quần chúng vẫn là một bài học vô cùng to lớn, nó khẳng định trong mọi thời kỳ sức mạnh của quần chúng nhân dân là sức mạnh vô địch dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là một bài học kinh nghiệm quý báu để Đảng và dân tộc ta tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc thành công trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược (1945 – 1975). Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay Đảng ta cần tiếp tục vận dụng phù hợp vào điều kiện mới, nhằm thực hiện thắng lợi cách mạng XHCN ở Việt Nam hiện nay.

Trên đây là tiểu luận môn Triết Học đề tài: Quan điểm của triết học mác – lênin về vai trò của quần chúng nhân dân, dành cho các bạn đang làm tiểu luận môn học đại cương: còn nhiều bài mẫu tiểu luận môn học các bạn tìm kiếm trên chuyên mục nhé. 

Lưu ý: Có thể trên website không có tài liêu đúng như các bạn mong muốn để hoàn thiện bài làm hoàn toàn mới và chất lượng tốt các bạn có thể cần tới sự hỗ trợ của dịch vụ viết tiểu luận để kham khảo bảng giá và quy trình làm việc các bạn có thể trao đổi với mình qua SDT/Zalo: https://zalo.me/0932091562

DOWNLOAD FILE