Vai trò của chính sách đất đai trong nông nghiệp

17/11/2021 Từ viết tắt Đọc bài viết

Chính sách pháp luật đất đai phát triển kinh tế hợp tác xã

Trên cơ sở thực tế triển khai thi hành Luật Đất đai cho thấy những yêu cầu, thách thức cần tiếp tục nghiên cứu và giải quyết nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý, sử dụng đất trong bối cảnh hiện nay đối với phát triển kinh tế hợp tác xã.

Làm rõ cơ chế tiếp cận đất đai của các doanh nghiệp

Pháp luật đất đai, pháp luật đầu tư, pháp luật đấu thầu và một số pháp luật khác có liên quan vẫn chưa quy định thống nhất về việc doanh nghiệp được quyền tiếp cận đất đai. Luật Đất đai chỉ quy định các trường hợp phải áp dụng hoặc không áp dụng đấu giá quyền sử dụng đất, Luật Đấu thầu chỉ quy định các trường hợp phải đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư, Luật Đầu tư chỉ quy định các trường hợp quyết định chủ trương đầu tư. Do đó, khi xem xét một trường hợp cụ thể sẽ gây khó khăn cho địa phương quyết định áp dụng hình thức đấu giá, đấu thầu hay quyết định chủ trương đầu tư.

Việc tiếp cận đất đai giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài chưa hoàn toàn bình đẳng như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà phải thuê đất của nhà nước hay nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân để thực hiện dự án đầu tư. Điều này dẫn đến tình trạng một số dự án đầu tư thuộc diện thu hồi đất thì phải chờ Nhà nước thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch để bàn giao, cho thuê đất; trong khi nhà đầu tư nước ngoài có đủ điều kiện về mặt kinh tế thì lại không có cơ sở pháp lý để thực hiện.

Vai trò của chính sách đất đai trong nông nghiệp

Ảnh minh họa

Khuyến khích tích tụ, tập trung đất nông nghiệp

Chủ trương, cơ chế, chính về khuyến khích tích tụ , tập trung đất nông nghiệp được quan tâm. Theo đó, xây dựng chính sách khuyến khích tích tụ, tập trung đất đai, phát huy tiềm năng đất đai cho phát triển kinh tế - xã là chủ trương lớn đã được đặt ra trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI (Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31 tháng 10 năm 2012) và Nghị quyết Trung ương 7 về vấn đề nông nghiệp - nông dân - nông thôn, tiến tới một nền sản xuất nông nghiệp hiện đại.

Việc thể chế hóa các quan điểm, nội dung của Nghị quyết đã tạo bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện chính sách đất đai về chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thuê quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất,… để thực hiện “dồn điền đổi thửa”, quy hoạch lại đồng ruộng, phát triển kinh tế trang trại, phát triển mô hình cánh đồng mẫu lớn để tổ chức sản xuất nông nghiệp hàng hóa hoặc là để xây dựng, chỉnh trang lại các khu dân cư, xây dựng nông thôn mới,...

Quá trình này đã góp phần vào việc phân công lại lao động trong nông thôn, nông nghiệp, phát huy tiềm năng đất đai, nâng cao hiệu quả sản xuất, đời sống của nhân dân, thay đổi diện mạo của nông thôn mới, tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội của các địa phương phát triển mạnh. Tuy nhiên, trong thời gian qua quá trình tích tụ và tập trung đất đai còn chậm, việc thực hiện còn chưa thực sự gắn với tính công bằng, bền vững, hiệu quả, hướng phát triển dài hạn và còn những khó khăn, vướng mắc nhất định.

Minh bạch về thị trường quyền sử dụng đất

Công khai, minh bạch, dân chủ trong quản lý, sử dụng đất là yếu tố quan trọng, góp phần hạn chế việc đầu cơ, gian lận trên thị trường, là yếu tố đảm bảo thúc đẩy sự phát triển thị trường quyền sử dụng đất.

Tuy nhiên, khung pháp lý hiện hành đối với vấn đề này vẫn còn những khoảng trống, hoạt động giám sát mới tập trung đối với giám sát công tác quản lý đất đai của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, chưa có các quy định cụ thể về hoạt động giám sát sử dụng đất, giám sát quyền và nghĩa vụ của sử dụng đất; quy định về việc tiếp nhận và giải quyết các các kiến nghị của người dân trong quá trình quản lý, sử dụng đất còn quá mờ nhạt, ý kiến của người dân tham gia ít khi được quan tâm xem xét một cách thấu đáo và chưa có quy định về việc giải quyết các ý kiến đồng thuận hay không đồng thuận của người dân.

Quy định về quyền thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, tuy đã gỡ bỏ những hạn chế về mục đích thế chấp song vẫn còn thiếu linh hoạt trong việc hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp do chưa cho thế chấp tại các bên cho vay ở nước ngoài, thế chấp của tổ chức kinh tế, người Việt Nam ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng hoặc cá nhân.

Bên cạnh đó, vẫn tồn tại sự khác biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài trong việc tiếp cận đất để đầu tư kinh doanh hạ tầng đối với nghĩa trang, nghĩa địa; việc nhận quyền sử dụng đất trên thị trường từ hộ gia đình, cá nhân; thời hạn sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi nhận chuyển quyền đất có thời hạn ổn định lâu dài;…

* Đất đai là nguồn lực phát triển kinh tế HTX

Kinh tế tập thể với nòng cốt là HTX có đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm cho xã viên và người lao động. Thời gian qua, Nhà nước luôn dành sự quan tâm, tạo điều kiện và có chính sách phù hợp để nâng cao hiệu quả hoạt động của các mô hình HTX.

Hướng đến phát triển bền vững mô hình HTX, một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa quy mô lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao, trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, nền tảng công nghệ tiên tiến cần thiết phải có là một hệ thống chính sách phù hợp với xu thế phát triển. Đất đai là một trong các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, là một yếu tố tác động đến cơ cấu giá thành sản phẩm thì chính sách pháp luật đất đai cũng phải phù hợp với xu thế đó. Đồng thời, hạn chế tình trạng HTX khó khăn tiếp cận nguồn vốn tín dụng.

Theo các chuyên gia thời gian tới, chính sách, pháp luật đất đai cần thiết tăng cường các giải pháp chính như: Nghiên cứu tháo gỡ các rào cản về thể chế nhằm phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong đó có thị trường về quyền sử dụng đất nông nghiệp; điều kiện nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp để thực hiện dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp... Xây dựng cơ chế khuyến khích việc tích tụ, tập trung ruộng đất để sản xuất, kinh doanh; đặc biệt là đối với việc hình thành chuỗi sản xuất, chế biến và tiêu thụ các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp tập trung quy mô lớn; Thực hiện tốt công tác quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp (khoanh vùng các khu vực đất trồng lúa cần bảo vệ; quy hoạch sử dụng các khu vực chuyên canh gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ); Hỗ trợ về mặt bằng sản xuất; cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai...

N.Bách

Bài 1: Chính sách khơi thông nguồn lực

Bằng các quy định công khai trong lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng; đơn giản hóa thủ tục hành chính, đáp ứng yêu cầu dân sinh, phát triển công nghiệp, tập trung, tích tụ đất đai trong nông nghiệp...; chính sách, pháp luật về đất đai đã và đang khơi thông nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển…

Bằng các quy định công khai trong lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng; đơn giản hóa thủ tục hành chính, đáp ứng yêu cầu dân sinh, phát triển công nghiệp, tập trung, tích tụ đất đai trong nông nghiệp...; chính sách, pháp luật về đất đai đã và đang khơi thông nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển…

Cùng với quy định cụ thể các quyền đối với đất đai như quyền của đại diện chủ sở hữu; quyền quyết định mục đích sử dụng đất; hạn mức, thời hạn sử dụng đất; quyền quyết định thu hồi, trưng dụng, quyền quyết định giá đất... thời gian qua, chính sách, pháp luật đất đai đã tạo ra nhiều thuận lợi cho cả cơ quan quản lý và đối tượng sử dụng đất.

Hiệu quả sử dụng đất nâng cao

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN và PTNT), tính đến hết năm 2020, cả nước đã có hơn 14,6 triệu ha rừng; trong đó, diện tích rừng tự nhiên là 10,2 triệu ha và rừng trồng là 4,4 triệu ha, với tỷ lệ che phủ là 42,01%. Cùng với đó, là hơn 4 triệu ha đất trồng lúa, 1,2 triệu ha cây ăn quả và 1,3 triệu ha mặt nước nuôi trồng thủy sản, hằng năm quỹ đất dành cho lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đã một mặt bảo đảm an ninh lương thực, mặt khác ngày càng nâng cao năng lực xuất khẩu (năm 2020 cả nước xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 41 tỷ USD và riêng tám tháng đầu năm nay xuất khẩu các mặt hàng này đã đạt khoảng 30 tỷ USD) góp phần ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao thu nhập cho nhân dân. Riêng đất lúa, từ bảo đảm lương thực, đến nay hằng năm cả nước đã xuất khẩu từ  5 - 7 triệu tấn gạo, năm 2020 kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 3 tỷ USD.

Riêng lĩnh vực đất lâm nghiệp, theo quy định, Nhà nước giao đất lâm nghiệp không thu tiền sử dụng đất cho các đối tượng là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp lao động, sản xuất. Nhà nước cũng cho các hộ gia đình, cá nhân và tổ chức trong nước thuộc mọi thành phần kinh tế và tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất lâm nghiệp sử dụng đúng mục đích theo quy định của pháp luật.

Nhờ chính sách đúng đắn này, trong những năm gần đây kinh tế rừng tại nhiều địa phương đã phát triển khá mạnh mẽ, nhất là tại các khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần bảo vệ môi trường, ổn định đời sống cho người dân sống bằng nghề rừng. Nhờ có vùng nguyên liệu gỗ ổn định, giá trị xuất khẩu lâm sản hằng năm luôn tăng trưởng. Năm 2020, toàn ngành đã đạt gần 12,5 tỷ USD xuất khẩu và năm 2021 phấn đấu đạt mục tiêu xuất khẩu 15 tỷ USD từ gỗ và các mặt hàng lâm sản.

Nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, chính sách, pháp luật đất đai cũng đã tập trung ưu tiên cho những dự án quy hoạch các khu công nghiệp, khu chế xuất và các làng nghề...

Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cả nước đã có 369 khu công nghiệp được thành lập (gồm cả các khu công nghiệp nằm trong khu kinh tế) tại 61 trong số 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, với tổng diện tích gần 114.000 ha; 26 khu kinh tế cửa khẩu được thành lập tại 21 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biên giới đất liền với tổng diện tích khoảng 766.000 ha và 18 khu kinh tế ven biển được thành lập tại 17 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khu vực ven biển, với tổng diện tích mặt đất và mặt nước gần 853.000 ha.

Các khu công nghiệp, khu kinh tế hằng năm đóng góp hàng trăm tỷ đồng cho ngân sách, tạo việc làm cho hơn 3,8 triệu lao động trực tiếp, chiếm khoảng 7% lực lượng lao động của cả nước, góp phần tích cực vào thành tựu tăng trưởng và phát triển của Việt Nam.

Tăng cường quản lý nhà nước

Trong thời gian qua, chính sách quản lý đất đai về cơ bản đã phù hợp hơn với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, riêng lĩnh vực nông nghiệp, các quyền của người sử dụng đất được hoàn thiện hơn, bao gồm các quyền: chuyển đổi, cho thuê, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho, thế chấp và góp vốn. Thời hạn sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được kéo dài lên 50 năm.

Hạn mức sử dụng nhận chuyển nhượng hay là hạn điền đối với hộ gia đình cá nhân được mở rộng phù hợp về quy mô và điều kiện của từng vùng. Thông qua đó, đã tạo điều kiện cho người sử dụng đất tập trung, tích tụ đất đai theo quy mô lớn và yên tâm hơn trong việc đầu tư vào đất đai. Thực tế đã có nhiều mô hình và phương thức thực hiện có hiệu quả, đóng góp tích cực cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp của Việt Nam.

Tổng Giám đốc Công ty Delco Farm (Bắc Ninh) Lê Khánh Mạnh cho rằng, việc tích tụ, tập trung đất đai trong sản xuất nông nghiệp theo chủ trương của Nhà nước đang phát huy tác dụng rõ rệt. Thông qua chính sách này, nhiều doanh nghiệp đã có chiến lược đầu tư nhiều hơn vào chuỗi cung, cầu của lĩnh vực nông nghiệp, trong đó có nông nghiệp công nghệ cao. Sự ổn định của chính sách này, cùng với việc nâng hạn mức sử dụng đất đai cho mọi đối tượng sẽ càng thúc đẩy hơn các doanh nghiệp tham gia sản xuất nông nghiệp, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai.

Theo đánh giá của Tổng cục Quản lý đất đai (Bộ Tài nguyên và Môi trường), chính sách, pháp luật đất đai bước đầu vừa thu hút được các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, góp phần quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã bố trí quỹ đất phù hợp cho mục đích nông nghiệp, đã quan tâm đến việc dành quỹ đất để phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội.

Quy hoạch đất đai phù hợp cũng đã tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Bên cạnh đó, việc hoàn thành cơ bản cấp giấy chứng nhận đối với đất nông nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho đất đai tham gia vào thị trường, là yếu tố quan trọng để thúc đẩy, tích tụ, tập trung đất đai. Cơ chế chuyển đổi mục đích sử dụng đất linh hoạt, đặc biệt là các quy định liên quan đến chuyển đổi cơ cấu cây trồng  hằng năm đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất đất nông nghiệp.

VŨ THÀNH, THÙY LINH, MINH TUẤN

(Còn nữa)

Theo báo cáo của Bộ Tài chính, thu ngân sách nhà nước từ đất đai không ngừng tăng lên hằng năm so với tổng thu ngân sách cả nước, từ 7,8% năm 2013 lên 16,85% năm 2020. Trong đó, chủ yếu là tiền thu từ sử dụng đất và tiền thuê đất (từ năm 2013 đến năm 2020, tiền sử dụng đất chiếm 67,26% và tiền thuê đất chiếm 15,23% tổng các nguồn thu từ đất)...