Văn bản hướng dẫn về cải tạo không giam giữ

Điều kiện giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giảm giữ được quy định như thế nào? Thời giam giảm là bao lâu? Bài viết dưới đây của Luật Hùng Thắng sẽ tư vấn cho bạn đọc các quy định pháp luật về vấn đề này.

1. Quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ

Căn cứ theo quy định tại Điều 36 Bộ luật Hình sự 2015 về hình phạt cải tạo không giam giữ như sau:

- Cải tảo không giảm giữ là một trong những hình phạt được quy định tại Bộ luật Hình sự. Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật Hình sự quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.

- Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hàng tháng. Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.

Lưu ý: Không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự.

- Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.

- Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người đó.

2. Điều kiện giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ

Người chấp hành án có thể được Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực quyết định giảm thời hạn chấp hành án khi có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 102 Luật thi hành án hình sự 2019 dưới đây:

- Đã chấp hành được một phần ba thời hạn án phạt; đối với người dưới 18 tuổi thì phải chấp hành được một phần tư thời hạn án phạt;

- Trong thời gian thử thách người chấp hành án đã chấp hành nghiêm chỉnh các nghĩa vụ của mình; tích cực học tập, lao động, sửa chữa lỗi lầm hoặc lập thành tích trong lao động, bảo vệ an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng;

- Bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự trong trường hợp có nghĩa vụ dân sự.
Như vậy những điều kiện kia bắt buộc phải có đủ thì mới đủ điều kiện để xem xét giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ.

3. Thời giam giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ

Theo quy định tại khoản 2, 3, 4, 5 Điều 102 Luật thi hành án hình sự 2019 như sau:

- Người chấp hành án mỗi năm được xét giảm thời hạn chấp hành án 01 lần, mỗi lần có thể được giảm từ 03 tháng đến 09 tháng.

- Người chấp hành án có thể được giảm thời hạn chấp hành án nhiều lần nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành án là một phần hai mức án, đối với người chấp hành án là người dưới 18 tuổi thì phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành án là hai phần năm mức án.

- Đặc biệt hơn, đối với những người chấp hành án đã lập công, người đã quá già yếu hoặc người bị bệnh hiểm nghèo đã chấp hành được một phần tư thời hạn án phạt thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành án, mức giảm mỗi lần cao nhất là 01 năm nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành án là hai phần năm mức án.

- Người chấp hành án là người dưới 18 tuổi nếu lập công hoặc bị bệnh hiểm nghèo thì được xét giảm ngay. Trường hợp đã chấp hành được hai phần năm mức án thì có thể được giảm hết thời hạn còn lại.

Trên đây là nội dung tư vấn về quy định, điều kiện giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Trường hợp bạn còn vướng mắc cần tư vấn trực tiếp hãy liên hệ với chúng tôi qua số hotline 19000185 hoặc gửi yêu cầu đến địa chỉ email: . Luật sư tư vấn công ty Luật chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp mọi vướng mắc của bạn.

>>Xem thêm: Phân biệt án treo và cải tạo không giam giữ

Điều 36. Cải tạo không giam giữ

1. Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.

Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.

2. Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người đó.

3. Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hằng tháng. Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.

Không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự.

4. Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.

Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.

Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật Thi hành án hình sự.

Bình luận

Đây là hình phạt mang tính chất giáo dục, cải tạo để người phạm tội có thể hoàn lương, trở thành công dân có ích cho xã hội, tính trừng trị trong hình phạt này gần như là không có. Hình phạt cải tạo không giam giữ có một số đặc điểm sau:

Thời hạn áp dụng: từ 06 tháng đến 03 năm, đây là khung thời hạn áp dụng biện pháp cải tạo không giam giữ, sẽ tùy trường hợp mà áp dụng mức hình phạt cụ thể khác nhau. Tuy nhiên bặt buộc không được dưới 06 tháng và không được quá 03 năm. Không có một quy định thành văn nào nhưng thông lệ nếu xét thấy thời gian phạt cải tạo không giam giữ dưới 06 tháng thì sẽ chuyển sang hình thức phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền còn thời hạn trên 03 năm thì sẽ chuyển sang hình phạt tù có thời hạn.

Điều kiện áp dụng: Phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.

Từ nếu ở đây cho chúng ta thấy được: phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng chỉ là điều kiện cần và chứ chưa phải là điều kiện đủ để người thực hiện hành vi phạm tội được áp dụng hình phạt này. Mấu chốt của vấn đề là việc xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội. Mà sự xét thấy đó rất mang tính cảm tính và được quyết định bởi Hội đồng xét xử (bao gồm Thẩm phán và hội thẩm). Theo tác giả, pháp luật trao một quyền khá lớn cho HĐXX trong khi không có định hướng rõ ràng tiêu chí như thế nào thì xét thấy cần hoặc không cần cách ly ra khỏi xã hội là chưa ổn dễ dẫn đến tình trạng áp dụng không thống nhất và mang nặng tính chủ quan của HĐXX trong từng vụ án cụ thể.

Người tiếp nhận: Cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục + sự phối hợp của gia đình. Trong từng trường hợp cụ thể mà Tòa án sẽ quyết định giao người phạm tội cho cơ quan tổ chức nơi học tập,làm việc hoặc giao cho UBND cấp xã. Việc giao cho ai này sẽ được quy định rõ trong bản án sau khi xét xử. Gia đình trong trường hợp này chỉ giữ vai trò phối hợp giám sát, giáo dục.

Nghĩa vụ: thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hằng tháng. Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.

So với quy định tại Bộ Luật hình sự cũ thì việc khấu trừ này đã quy định rõ hơn về phương thức đó là khấu trừ hàng tháng. Bên cạnh đó cũng quy định thêm trường hợp không thực hiện việc khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự.

Ngoài ra Bộ Luật này cũng quy định rõ nếu người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt (không có thu nhập) thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng với thời gian không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.

Đây là một quy định mới và tác giả đánh giá là tiến bộ, giảm thiếu sự bất công. Bởi lẽ, nếu A và B cùng bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ nhưng A có việc làm và có thu nhập thì sẽ bị khấu trừ trong khi B thất nghiệp thì không bị khấu trừ và cũng không bị chế tài khác thay thế là vô lý. Do đó trong Bộ Luật lần này nhà làm luật đã đưa vào biện pháp có giá trị thay thế khá tương xứng với việc bị khấu trừ thu nhập là hợp lý.

Một số lưu ý:

Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.

Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.