Ví dụ khách thể nhận thức là gì

Ví dụ khách thể nhận thức là gì

Những nội dung liên quan đến triết học vốn được cho là có phần trừu tượng và khá khó hiểu. Điển hình là những khái niệm về nhận thức và thực tiễn. Giữa chúng còn có mối quan hệ chặt chẽ tồn tại và liên quan trực tiếp đến nhau. Bạn đã hiểu đúng về nhận thức là gì? Thực tiễn là gì? Có thể đặt ví dụ minh họa cho những khái niệm này chưa? Đừng bỏ qua bài viết này của Lamsao để có câu trả lời nhé!

Nhận thức là gì? Cho ví dụ

Hiện nay, khái niệm về nhận thức là gì được khá nhiều bài viết giải thích theo những cách hiểu khác nhau. Dễ hiểu hơn cả chúng ta có thể hiểu khái niệm về nhận thức như sau:

Nhận thức là một quá trình phản ánh được tính tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc của con người dựa trên cơ sở thực tiễn. Qua đó nhằm mục đích sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan. 

Ví dụ khách thể nhận thức là gì
Nhận thức là một quá trình nhằm phản ánh tính tích cực, tự giác và sáng tạo bộ óc con người

Trong đó, các hình thức cơ bản của nhận thức như sau:

  • Nhận thức lý luận: Được định nghĩa là dạng trình độ nhận thức qua gián tiếp, trừu tượng với tính hệ thống trong việc khái quát quy luật và bản chất các sự vật, hiện tượng. 
  • Nhận thức kinh nghiệm: Là trình độ nhận thức được hành thành bởi việc quan sát trực tiếp sự vật, sự việc, hiện tượng trong xã hội, tự nhiên hoặc thông qua các thí nghiệm phân tích khoa học. 
  • Nhận thức thông thường: Loại nhận thức này sẽ được hình thành một cách hoàn toàn tự phát và trực tiếp thông qua các hoạt động thường ngày của con người. 
  • Nhận thức khoa học: Là dạng nhận thức được hình thành một cách gián tiếp và tự giác từ sự phản ánh đặc điểm bản chất. Những quan hệ tất yếu của các đối tượng nghiên cứu. 

Một số ví dụ liên quan đến nhận thức

Ví dụ khách thể nhận thức là gì
Dựa theo quan sát nhận thức con người biết được cá sống dưới nước

  • Khi một thanh sắt được nung nóng sẽ chuyển sang màu vàng rực. Thông qua quan sát con người kết luận rằng thanh sắt sẽ bị chuyển màu khi nung nóng. 
  • Trái đất vừa tự quay quanh mặt trời vừa chuyển động tịnh tiến xung quanh mặt trời.
  • Con cá là một loài động vật sinh sống dưới nước, thở bằng mang và dùng vây để đẩy tới. 

Theo định nghĩa, thực tiễn là toàn bộ các hoạt động vật chất có mục đích, có tính lịch sử xã hội nhằm mục đích cải biến tự nhiên và xã hội. Một số đặc điểm của thực tiễn như sau:

Ví dụ khách thể nhận thức là gì

Ví dụ khách thể nhận thức là gì
Thực tiễn là gì?

  • Thực tiễn chính là những hoạt động vật chất. Tất cả những hoạt động bên ngoài hoạt động tinh thần của con người chính là hoạt động thực tiễn. 
  • Thực tiễn là hoạt động luôn có mục đích. Khác với các hoạt động bản năng của con vật. 
  • Thực tiễn có tính lịch sử và xã hội: Là những hoạt động con người trong xã hội và những giai đoạn lịch sử nhất định. 
  • Hoạt động bầu cử Đại biểu Quốc hội diễn ra định kỳ. 
  • Các nhà khoa học nghiên cứu, phân tích các thí nghiệm tìm ra vật liệu mới, các loại máy móc, thiết bị phục vụ nhu cầu con người. 

Giữa thực tiễn và nhận thức luôn có mối quan hệ chặt chẽ, không ngừng phát triển và tác động với nhau. Cụ thể: 

Ví dụ khách thể nhận thức là gì
Mối quan hệ giữa thức tiễn và nhận thức chặt chẽ, luôn tác động đến nhau

  • Thực tiễn là cơ sở, nền tảng của nhận thức: Suy cho cùng mọi nhận thức đều nảy sinh trên cơ sở giải quyết nhu cầu vấn đề trong thực tiễn. Đồng thời qua thực tiễn cung cấp những căn cứ, hiện thực để nhận thức giải quyết vấn đề đó.
  • Thực tiễn là động lực sự phát triển cho nhận thức: Sự phát triển nhận thức theo tốc độ nào cũng đều do sự thúc đẩy nhu cầu phát triển mức độ cấp bách của thực tiễn. 
  • Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Mọi nhận thức cho dù là gián tiếp hay trực tiếp đều nhằm mục đích sáng tạo tri thức để giải đáp các vấn đề trong thực tiễn. 

Bên cạnh đó, thực tiễn chính là tiêu chuẩn của chân lý. Bất kỳ một quá trình nhận thức nào thì đến cuối cùng cũng đều dẫn đến việc sáng tạo tri thức đảm bảo tính chính xác. 

Qua bài viết, Lamsao hy vọng đã giúp bạn đọc trả lời được câu hỏi nhận thức là gì? Thực tiễn là gì? Cho ví dụ. Hãy đón chờ các bài viết thú vị tiếp theo của Lamsao nhé! 

Ví dụ khách thể nhận thức là gì

Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những giai đoạn khác nhau của cùng một quá trình nhận thức thống nhất.

Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Nó được thể hiện dưới 3 hình thức là cảm giác, tri giác và biểu tượng.

Cảm giác là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc của mọi hiểu biết của con người. Cảm giác là sự phản ánh từng mặt, từng thuộc tính bên ngoài của sự vật vào các giác quan của con người. Sự vật hoặc hiện tượng trực tiếp tác động vào các giác quan con người thì gây nên cảm giác (chẳng hạn như cảm giác về màu sắc, mùi vị, âm thanh, nhiệt độ…). Cảm giác là kết quả của sự tác động vật chất của sự vật vào các giác quan con người, là sự chuyển hoá năng lượng kích thích bên ngoài thành yếu tố của ý thức. Cảm giác, theo Lênin, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

Tri giác là sự tổng hợp nhiều cảm giác; nó đem lại hình ảnh hoàn chỉnh hơn về sự vật. Tri giác nảy sinh trên cơ sở các cảm giác, là sự kết hợp của các cảm giác. So với cảm giác, tri giác là hình thức cao hơn của nhận thức cảm tính, nó đem lại cho chúng ta tri thức về sự vật đầy đủ hơn, phong phú hơn.

Biểu tượng là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ. Sự tiếp xúc trực tiếp nhiều lần với sự vật sẽ để lại trong chúng ta những ấn tượng, những hình ảnh về sự vật đó. Những ấn tượng, hình ảnh này đậm nét và sâu sắc đến mức có thể hiện lên trong ký ức của chúng ta ngay cả khi sự vật không ở trước mắt. Đó chính là những biểu tượng. Trong biểu tượng chỉ giữ lại những nét chủ yếu, nổi bật nhất của sự vật do cảm giác, tri giác đem lại trước đó. Biểu tượng thường hiện ra khi có những tác nhân tác động, kích thích đến trí nhớ con người. Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng; sự tưởng tượng đã mang tính chủ động, sáng tạo. Tưởng tượng có vai trò rất to lớn trong hoạt động sáng tạo khoa học và sáng tạo nghệ thuật.

Biểu tượng tuy vẫn còn mang tính chất cụ thể, sinh động của nhận thức cảm tính, song đã bắt đầu mang tính chất khái quát và gián tiếp. Có thể xem biểu tượng như là hình thức trung gian quá độ cần thiết để chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính. Trên cơ sở những tài liệu do nhận thức cảm tính cung cấp, nhận thức sẽ phát triển lên một giai đoạn cao hơn, đó là nhận thức lý tính.

c. Nhận thức lý tính (hay còn gọi là tư duy trừu tượng)

Là giai đoạn tiếp theo và cao hơn về chất của quá trình nhận thức, nó nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính. Nếu chỉ bằng cảm giác, tri giác thì nhận thức của con người sẽ rất hạn chế, bởi vì con người không thể bằng cảm giác mà hiểu được những cái như tốc độ ánh sáng, giá trị của hàng hoá, quan hệ giai cấp, hình thái kinh tế – xã hội, v.v.. Muốn hiểu được những cái đó phải nhờ đến sức mạnh của tư duy trừu tượng.

Tư duy trừu tượng là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan. Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy. Tư duy có tính năng động sáng tạo, nó có thể phản ánh được những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, bên trong của sự vật, do đó phản ánh sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn. Muốn tư duy, con người phải sử dụng các phương pháp như so sánh, phân tích và tổng hợp, khái niệm hoá và trừu tượng hoá, v.v.. Nhận thức lý tính, hay tư duy trừu tượng, được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán và suy lý.

Khái niệm là một hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những mối liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của một tập hợp các sự vật, các hiện tượng nào đó, chẳng hạn, các khái niệm “cái nhà”, “con người”, “giai cấp”, v.v…

Khái niệm đóng vai trò quan trọng trong tư duy khoa học. Khái niệm là những vật liệu tạo thành ý thức, tư tưởng. Khái niệm là những phương tiện để con người tích luỹ thông tin, suy nghĩ và trao đổi tri thức với nhau.

Khái niệm có tính chất khách quan bởi chúng phản ánh những mối liên hệ, những thuộc tính khách quan của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vì vậy, khi vận dụng khái niệm phải chú ý đến tính khách quan của nó. Nếu áp dụng khái niệm một cách chủ quan, tuỳ tiện sẽ rơi vào chiết trung và ngụy biện. V.I.Lênin chỉ rõ: “Những khái niệm của con người là chủ quan trong tính trừu tượng của chúng, trong sự tách rời của chúng, nhưng là khách quan trong chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong khuynh hướng, trong nguồn gốc”.

Nội hàm của khái niệm không phải là bất biến, bởi vì hiện thực khách quan luôn vận đông và phát triển cho nên khái niệm phản ánh hiện thực đó không thể bất biến mà cũng phải vận động, phát triển theo, liên hệ chuyển hoá lẫn nhau, mềm dẻo, linh hoạt, năng động. Vì vậy, cần phải chú ý đến tính biện chứng, sự mềm dẻo của các khái niệm khi vận dụng chúng. Phải mài sắc, gọt giũa các khái niệm đã có, thay thế khái niệm cũ bằng khái niệm mới để phản ánh hiện thực mới, phù hợp với thực tiễn mới.

Phán đoán là hình thức của tư duy trừu tượng vận dụng các khái niệm để khẳng định hoặc phủ định một thuộc tính, một mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan. Phán đoán là hình thức liên hệ giữa các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong ý thức của con người. Tuy nhiên, phán đoán không phải là tổng số giản đơn của những khái niệm tạo thành mà là quá trình biện chứng trong đó các khái niệm có sự liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.

Phán đoán được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ là các mệnh đề theo những quy tắc văn phạm nhất định.

Suy lý là một hình thức của tư duy trừu tượng trong đó xuất phát từ một hoặc nhiều phán đoán làm tiền đề để rút ra phán đoán mới làm kết luận. Nói cách khác, suy lý là quá trình đi đến một phán đoán mới từ những phán đoán tiền đề.

Link bài viết: https://havip.com.vn/theo-triet-hoc-mac-lenin-ban-chat-cua-nhan-thuc-la-gi/

Link trang chủ: https://havip.com.vn/