Vì sao diện tích gieo trồng cây vụ Đông giảm - giá trị sản xuất vẫn tăng?
04:10 | 11/10/2016
|
Năm 2015 diện tích lúa mùa giảm những năng suất lại tăng(ĐCSVN)- Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng diện tích gieo trồng lúa mùa cả nước năm 2015 đạt 1,94 triệu ha, năng suất bình quân đạt 49,2 tạ/ha, sản lượng đạt 9,5 triệu tấn. So với vụ trước diện tích giảm 25,3 ngàn ha (1,4%), năng suất tăng 0,3 tạ/ha (0,3%), sản lượng giảm 71,2 ngàn tấn (-1,2%)
Show Ảnh minh họa (Ảnh:M.P) Tại các tỉnh miền Bắc, diện tích gieo trồng đạt gần 1,17 triệu ha, giảm 15,8 ngàn ha (1,3%); năng suất đạt 50,1 tạ/ha, tăng 0,1 tạ/ha (+0,3%); sản lượng đạt 5,84 triệu tấn, giảm 61,8 ngàn tấn, tương ứng 1% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân diện tích canh tác lúa Mùa các tỉnh phía Bắc năm 2015 giảm do các địa phương thực hiện việc dồn ô đổi thửa chỉnh trang đồng ruộng, một phần diện tích trồng lúa chuyển sang làm đường nội đồng, kênh dẫn nước; chuyển đổi một số diện tích kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả hoặc chuyển sang nuôi trồng thủy sản có thu nhập cao hơn. Còn tại các tỉnh phía Nam, diện tích lúa mùa tiếp tục giảm do thời tiết không thuận lợi, tại các tỉnh Duyên hải miền trung, Tây nguyên, chuyển đổi mùa vụ và mục đích sử dụng đất tại các tỉnh ĐBSCL. Diện tích gieo trồng đạt 5 770 ngàn ha (giảm 1,7%), năng suất bình quân đạt 47,8 tạ/ha (tăng 0,2%), sản lượng đạt 3,68 triệu tấn (giảm 1,5%). M.P Nông nghiệp Việt Nam: Những vấn đề tồn tại11/11/2020 07:00 - Trần Đức Viên Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, chúng ta phải thừa nhận là, nền nông nghiệp nước ta về cơ bản vẫn là nền sản xuất thô về sản phẩm, thấp về đẳng cấp, tiêu tốn nhiều nguồn lực, ứng dụng KH&CN và cơ giới hóa trong nông nghiệp còn khiêm tốn, sức cạnh tranh với khu vực và thế giới chưa cao; thậm chí, ở một số lĩnh vực còn đi sau thế giới khá xa. Các nguyên nhân của tình trạng này là do sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất lao động thấp mà giá thành nông sản lại cao, thiếu tính liên kết trong nội bộ ngành nông nghiệp và giữa ngành nông nghiệp với các ngành kinh tế khác như công nghiệp và dịch vụ (như công nghiệp hỗ trợ ngành nông nghiệp chẳng hạn), tạo ra quá nhiều tầng nấc trung gian trong chuỗi giá trị; một nghiên cứu cho thấy, trong khi các quốc gia khác chỉ có chừng 2-4 tác nhân trung gian thì ở Việt Nam con số này là 5-7. Người Việt coi trọng nghề nông, minh triết của người Việt coi nông nghiệp là gốc của mọi thứ trong xã hội, ‘canh nông vi bản’. Ngày nay nông nghiệp không chỉ giúp ổn định cuộc sống cho phần lớn dân cư nông thôn (‘yên dân’), mà còn là nền tảng cho phát triển kinh tế-xã hội và ổn định chính trị, tạo tiền đề để hiện thực hóa khát vọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước từ một quốc gia có nền nông nghiệp còn chưa phát triển. Trong năm 2020, tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 khiến nhiều ngành công nghiệp, dịch vụ bị đình đốn thì sản xuất nông nghiệp của Việt Nam vẫn phát triển, vẫn đảm bảo ổn định an ninh lương thực trong nước và duy trì xuất khẩu nông sản. Những kết quả này rất quan trọng, xét trong bối cảnh khu vực nông thôn chiếm tới 63% dân cư, 66% số hộ, 68% người làm việc; nông nghiệp chiếm tỷ trọng 13.96% trong GDP (Tổng cục thống kê, 2019). Những thách thức từbên ngoài Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào điều kiện khí hậu cho nên thách thức trực tiếp và lâu dài đến sản xuất nông nghiệp là tác động của biến đổi khí hậu - Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu. Nếu mực nước biển dâng cao thêm 1m mà Việt Nam không có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu, thì khoảng 40% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long, 11% diện tích Đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích của các tỉnh khác thuộc vùng ven biển sẽ bị ngập. Lũ lụt sẽ khiến gần 50% diện tích đất nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long bị ngập lụt không còn khả năng canh tác (Phạm Tất Thắng, 2017). Mặt khác, biến động thời tiết ngày càng cực đoan, bất thường, khó kiểm soát; các nhà khoa học cũng dự báo các tỉnh Tây Nguyên và miền Trung sẽ bị hạn nhiều hơn; số đợt không khí lạnh, rét đậm, rét hại sẽ xuất hiện nhiều hơn ở các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ, bão lũ sẽ gây ảnh hưởng ngày thêm nặng nề trên qui mô cả nước.
Nền nhiệt của Việt Nam đã tăng lên đáng kể; nguồn nước chịu ảnh hưởng do thay đổi lượng mưa; mực nước biển dâng dẫn đến thu hẹp diện tích sản xuất, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016); xói lở và xâm nhập mặn diễn ra ngày càng phức tạp và có chiều hướng gia tăng (Nhóm Ngân hàng Thế giới, 2016). Những ảnh hưởng trên khiến cho việc phát triển nông nghiệp gặp bất lợi lớn, do đó cần có các chính sách phù hợp để thúc đẩy phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, thích ứng với biến đổi khí hậu. Nền nông nghiệp quảng canh rủi ro và thiếu hiệu quả Sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp thời gian qua có đóng góp của nhiều ‘điểm sáng’ về thâm canh, ứng dụng công nghệ cao chủ yếu mang tính quảng canh, dựa trên thâm dụng tài nguyên thiên nhiên, thâm dụng lao động, lấy sản lượng, năng suất là chính, chưa quan tâm đúng mức đến chất lượng, hiệu quả kinh tế, giá trị gia tăng của nông sản hàng hóa, và bảo vệ môi trường, dù thời kỳ 'đói khát' đã qua từ lâu. Hơn nữa, nông nghiệp lại chưa gắn với công nghiệp thành một hệ thống để bổ sung, tương trợ cùng nhau phát triển. Số lượng các doanh nghiệp lớn đóng vai trò dẫn dắt trong quá trình hội nhập cho ngành còn ít. Vì vậy, nền nông nghiệp vẫn chưa khắc phục được những yếu kém nội tại, kinh tế nông thôn đang phát triển không đồng đều, thiếu ổn định, mà thực tế ‘được mùa mất giá’, ‘giải cứu nông sản’ hết cây này sang con khác, hết năm này qua năm khác là thí dụ điển hình, là minh chứng của một nền sản xuất chưa bền vững, rủi ro cao, giá cả của đầu ra nông sản bấp bênh, sự thua thiệt thường rơi vào người sản xuất và các doanh nghiệp nhỏ.
Nguồn: Khôi & Thắng, 2019 Năng suất lao động của nông dân Việt Nam đang thuộc nhóm thấp nhất châu Á. Dù trong những năm qua, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của Việt Nam có tốc độ tăng năng suất lao động (NSLĐ) bình quân cao, với 5,2%/năm giai đoạn 2011-2018, cao hơn tốc độ tăng bình quân của khu vực công nghiệp và xây dựng (3%/năm) và khu vực dịch vụ (3,1%/năm), tuy nhiên khu vực này vẫn có mức NSLĐ thấp nhất trong các khu vực kinh tế, đến năm 2018 theo giá hiện hành đạt 39,8 triệu VND/lao động, chỉ bằng 38,9% NSLĐ của toàn nền kinh tế, bằng 30,4% NSLĐ của khu vực công nghiệp và xây dựng, bằng 33,7% khu vực dịch vụ. Trong các nước ASEAN, NSLĐ khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của Malaysia cao gấp 11,9 lần; Indonesia cao gấp 2,4 lần; Thái Lan cao gấp 2,1 lần và Philippine cao gấp 1,8 lần mức NSLĐ của Việt Nam (Tùng Đinh, 2020).
Hình thức tổ chức sản xuất chính trong nông nghiệp ở Việt Nam là nông hộ, chiếm 90% tổng diện tích sản xuất nông nghiệp (Nhóm Ngân hàng Thế giới, 2016). Trong những năm qua, kinh tế hộ gia đình đã phát huy hiệu quả, nhưng cũng đã tới ngưỡng kịch trần của xu hướng phát triển theo chiều rộng. Các nông hộ chưa chú trọng đầu tư nâng cao giá trị, tìm kiếm thị trường, chỉ sản xuất cái gì mình có mà không theo tín hiệu của thị trường. Rõ ràng là, kinh tế hộ vẫn và sẽ mãi là hạt nhân của kinh tế nông thôn, nhưng rất cần nâng lên một tầm cao mới, một vị thế mới. Tiếc là, kinh tế hộ gia đình hiện nay, về cơ bản, vẫn là những gì hộ nông dân đã có từ thời sau đổi mới, sau Khoán 10; chưa có một nghiên cứu nào định hình được chân dung kinh tế hộ gia đình trong thời đại công nghiệp 4.0.
Đầu tư vào nông nghiệphạn chế Mức đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế và dàn trải, chưa tương xứng với tiềm năng và đóng góp của ngành đối với nền kinh tế quốc dân, nên cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, nhất là cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Ví dụ như hệ thống thủy lợi của Việt Nam bị đánh giá là kém hiệu quả, không có hệ thống đo lường chất lượng nước, không có hệ thống điều khiển dòng chảy. Từ đó, năng suất nước thấp (Nhóm Ngân hàng Thế giới, 2016). Các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp cũng chưa phát triển, đặc biệt là khâu bảo quản sau thu hoạch và logistics. Các ngành công nghiệp chế biến và chế biến sâu nông sản chưa phát triển, đa phần là quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu (Quyền Đình Hà, 2017). Điều đó dẫn tới chất lượng nông sản khi xuất khẩu thấp, giá trị gia tăng nhỏ. Việc hỗ trợ kết nối hình thành chuỗi liên kết sản xuất - phân phối các sản phẩm nông nghiệp chủ lực vẫn còn gặp nhiều khó khăn (Nhóm Ngân hàng Thế giới, 2016). Hệ thống kinh doanh nông sản chỉ tập trung vào một số ngành truyền thống hoặc có lợi nhuận cao như lúa gạo, cao su, cà phê, hồ tiêu, điều. Dù đã thành lập các “sàn giao dịch nông sản” nhưng hoạt động của các sàn này còn rất hạn chế, chưa thực chất (Nguyễn Thị Minh Hiền, 2016). Đời sống kinh tế người nông dân bấp bênh Các số liệu điều tra gần đây cho thấy, dù bộ mặt nông thôn đã thay đổi nhiều, thu nhập và đời sống của phần lớn nông dân dù đã cải thiện nhưng vẫn còn thấp, tăng thu nhập giai đoạn 2002-2016 của hộ nông dân đạt 5.75%/năm, nghĩa là thu nhập của nông thôn tăng theo thời gian nhưng với tốc độ chậm, trong khi chi tiêu cũng tăng, nên khả năng tích lũy thực tế của hộ nông thôn rất thấp, năm cao nhất chỉ đạt trên 22 triệu đồng, chưa bằng 50% hộ thành thị. Tỷ lệ đói nghèo ở nông thôn cao gấp 3,7 lần thanh thị, 40% hộ nông thôn không có tích lũy, 84% lao động nông nghiệp không có tiền để dành (Khôi & Thắng, 2019); trong đó, hộ thuần nông cho thu nhập thấp nhất, những hộ thuần làm nông lâm thủy sản có thu nhập/tháng/người bằng 29% thu nhập/tháng/người nông thôn, chỉ nhỉnh hơn nhóm người không làm việc gì! Tỷ lệ hộ nghèo tuy giảm nhanh, nhưng thiếu bền vững, tỷ lệ tái nghèo cao. Tiềm lực tài chính như vậy, nên người nông dân rất khó tự đầu tư mở rộng sản xuất, tự nâng cao trình độ, hay tự ứng phó với những cú sốc về giá hay tai biến về thời tiết, dịch bệnh. (Còn tiếp) Nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn phục vụ nông nghiệp như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến và chế biến sâu, và các lĩnh vực khoa học của kỷ nguyên số như IoT, Bigdata, AI, Blockchain, Robotics và gần đây là Tính toán lượng tử… ứng dụng vào nông nghiệp còn thiếu nhân lực trình độ cao nên chậm được triển khai; điều kiện vật chất kỹ thuật của các cơ sở nghiên cứu, đào tạo còn bị tụt hậu, không đồng bộ so với nhu cầu, nhiệm vụ và so với mặt bằng chung của các cơ sở nghiên cứu và đào tạo về nông nghiệp của các nước có nền nông nghiệp tiên tiến trên thế giới mà chúng ta đang hướng tới, dẫn đến tình trạng đào tạo nhân lực cho khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn chưa gắn lý thuyết với thực hành, thiếu các nghiên cứu chuyên sâu nâng cao giá trị gia tăng trên một đơn vị sản phẩm.
----------------------- Dù phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp hữu cơ thì cũng phải tính đến hiệu quả, tính bền vững và sự phù hợp; tuyệt đối không nên phát triển các phương thức sản xuất nông nghiệp mới nào theo phong trào, ồ ạt, lấy thành tích và để khoe khoang là chính. ---
Tags:
Mục lục
Lịch sửSửa đổiSản xuất nông nghiệp, là lĩnh vực sản xuất quan trọng nhất đối với sự phát triển của Việt Nam, nhiều biến đổi thăng trầm từ những năm tháng thống nhất đất nước vào năm 1975. Sự tăng trưởng mạnh được ghi nhận vào năm 1976—tăng đến 10% so với năm 1975—nhưng sản xuất lại giảm khoảng đến còn 95% trong những năm 1976, 1977 và 1978 và sự phục hồi đáng kể trong năm 1979.[9] Trồng trọt và chăn nuôi đã bù đắp lại sự thiếu hụt của nông nghiệp trong thời kỳ này. Ví dụ, khoảng 8% tăng trong sản lượng gia súc trong năm 1977 làm cân bằng 8% sụt giảm của sản lượng cây trồng (chủ yếu là kết quả của 1 triệu tấn sụt gạo giảm trong các vụ mùa). Trong năm 1978 kết quả đã đảo ngược: hiện tượng sản lượng gia súc sụt giảm mạnh đi với dấu hiệu sản lượng của thóc lúa bắt đầu tăng. Giá trị sản lượng cây trồng đã vượt hơn gấp bốn lần so với sản lượng gia súc lúc bấy giờ.[9] Trên hết vấn đề khó khăn nhất đối với ngành nông nghiệp Việt Nam là thời tiết thất thường, như trận hạn hán diễn ra năm 1977 và những trận bão và lũ lụt trong những năm 1978. Trận hạn hán làm lượng nước vượt quá tiêu chuẩn cần thiết cây trồng, điều đó làm chúng chết dần. Và thêm những trận lũ lụt giảm số lượng gia súc xuống tới 20%. Các thống kê của Việt Nam không được công bố rộng rãi về báo cáo số lượng gia súc giảm cho với mục tiêu chỉ định đặt ra những năm 1978 và 1980. Qua những kế hoạch sai lầm nghiêm trọng vào khoảng cuối năm 1970s đã làm chậm và suy giảm ngành nông nghiệp. Và còn vấn đề phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, và một số dụng cụ cơ khí vẫn còn thiếu ở Việt Nam.[9] Bỏ mặc sự thiếu lương thực lẫn vật liệu trong những thời kỳ đầu chính phủ vẫn quyết định thi hành những chính sách đã dự kiến, với niềm hy vọng sản xuất lương thực đủ để dùng (đủ lương thực cho cần thiết cho mỗi người) không được khả thi cho lắm trong những thập niên 1980. Năm 1980, dự kiến sẽ đạt khoảng trên 15 tấn nhưng không quá 21 triệu tấn, nhưng sản lượng đã không đạt được như mong muốn.[9] Chính sách nông nghiệp được công bố từ năm 1976 đến 1980 đã có những kết quả tốt, xấu. Dựa trên tiêu chuẩn khuyến khích trồng trọt thêm những loại cây lương thực có năng suất cao như (cà chua, sắn, đậu, và bắp) dẫn tới số lượng tăng trưởng thấp hơn 10% trong năm 1975 và tiếp tục tăng đến thêm 20% vào cuối thập niên 1970. Những kế hoạch khuyến khích nông nhân trong những năm 1978 và 1979 bao gồm cố gắng tăng số lượng người tiêu dùng vật phẩm trong các vùng nông thôn và cố gắng năng giá thành. Chính phủ đã thi hành chính sách bằng cách lập nhiều hợp đồng hứa hẹn chắc chắn có lợi nhuận cho những người tham gia sản xuất đầu tư nông nghiệp. Tuy nhiên, các quan chức cao không có khả năng và còn thiếu nguồn cung cấp cho nông nghiệp nên chính sách đã bị thất bại.[9] Kế hoạch được khai triển vào khoảng giữa năm 1977 nhằm xúc tiến sự hợp nhất nông nghiệp Bắc và Nam nhưng đã gặp phải cản trở quyết liệt từ miền Nam. Theo báo cáo về kế hoạch do người dân tự nguyện được thiết kế và được thi hành bởi các chủ tịch địa phương, nhưng nông dân miền Nam chủ yếu là người làm chủ ruộng đồng—nhưng không phải là tá điền—và, bên cạnh đó từ việc lập ra đội sản xuất chung nhằm để chống đối chính sách nhà nước (một ý kiến được nông dân miền Nam chấp nhận ngay lập tức), Họ từ chối hợp tác trong bất cứ kế hoạch hợp tác nào làm không đúng với chủ quyền tài sản.[9] Thất bại từ việc không thể hợp nhất nông nghiệp dẫn tới phương án mới là dùng vũ lực để cưỡng ép nông dân phải hợp tác. chính sách đó dường như làm phản tác dụng. Vào cuối những năm 1978 và 1979 những nhà lãnh đạo chính quyền đã làm chủ được tình hình nông nghiệp dẫn tới tăng sản lượng còn thiếu.[9] Trong miền Bắc, dạng làm việc chung (hợp tác) bởi các nông dân đã được hình thành vào khoảng năm 1959 và 1960, và vào năm 1965 khoảng 90% tài sản của nông dân đã trở thành của chung. Năm 1975, hơn 96% tài sản của nông dân đã thuộc về chính quyền nhà nước dùng để chia đều cho người dân, đồng nghĩa nông dân đã đóng góp đất, của cải, đồ dùng, gia súc để có được thu nhập.[9] Khoảng năm 1976 và 1980, chính sách nông nghiệp ở miền Bắc được thi hành bởi chính quyền mới trong sự nỗ lực làm chủ kế hoạch trồng trọt và nông nghiệp. Sự kiểm soát không chặt chẽ của các chính sách trong những năm chiến tranh đã dẫn tới sự chặt chẽ hơn để nhằm tăng số lượng nhân công để nhận làm các nghĩa vụ khác. Dẫn tới năng suất nhân công giảm. Một người Việt ở nước ngoài khảo sát 10 hợp tác xã sản xuất gạo thì thấy rằng, mặc dù tăng nhân công và diện tích gieo trồng trong những năm 75, 76 và 77, nhưng sản lượng lại giảm trong khi chi phí lại tăng so với những các năm 72 đến 74. Mặc dù không tính đến thời tiết và các yếu tố khác, nhưng những phát hiện trên phù hợp với những kết luận của những người nghiên cứu về những ảnh hưởng của mô hình tập thể hóa ở các quốc gia khác.[9] Vốn đầu tư từ quốc gia cho nông nghiệp trong năm thứ ba của kế hoạch 5 năm vẫn ở mức độ thấp, và các quận huyện gặp phải khó khăn lớn trong thời gian kế hoạch 5 năm và cho đến những 1986 và 1987. Chỉ có duy nhất thóc tăng 5% hàng năm. Tuy số lượng lương thực đủ để đáp ứng nhu cầu tăng dân số 2,3% trong những năm của thập niên 1980, nó vẫn không đủ để tăng số lượng trung bình tiêu thụ mỗi năm cho từng người là cao hơn nhiều so với số lượng 300 kg. Theo nguồn của chính quyền Việt Nam vào năm 1986 các gia đình nông dân phải cống hiến 80% thu nhập của họ để đổi lấy lương thực họ cần.[9] Kết luận năm thứ ba trong quá trình kế hoạch 5 năm, sản lượng nông nghiệp vẫn còn thấp hơn mức cần thiết vì thế chính quyền Việt Nam chuyển sang hướng khai thác các tài nguyền khác để hỗ trợ thêm cho công nghiệp. Trong năm 1986, nông nghiệp thu nhập vững ở khoảng 44% của lợi tức quốc gia (số tiền dùng để cho tăng trưởng quốc gia cần gần tới 10%). Nền nông nghiệp chiếm khoảng 66% nhân công toàn nước—cao hơn những năm 1976 và 1980. Tệ nhất vẫn là sản lượng trung bình mỗi nông nhân (thuộc nông nghiệp) sụt giảm trong thời gian đổi mới, xuống thấp hơn nhiều so với sự tăng trưởng của công nhân (thuộc công nghiệp). Trong năm 1980, ba nhân công nông nghiệp chỉ nhận được thu nhập từ sản xuất bằng một công nhân và năm 1985 một công nhân sản xuất gấp 6 lần so với nông dân.[9] Vào tháng 12 năm 1986, Võ Văn Kiệt, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Thủ tướng Việt Nam, đã nhấn mạnh một trong những vấn đề chính của ngành nông nghiệp Việt Nam trong đoạn diễn văn của ông trong kỳ họp thứ mười hai của quốc hội khóa bảy. Trong khi nhắc tới thành tựu của thủy nghiệp và lâm nghiệp, ông đã lưu ý gần như toàn bộ nông nhân—khoảng 80% của cả ngành nông nghiệp—đã thất bại trong kế hoạch đạt mục tiêu cho năm 1986. Ông đã trách những Hội đồng bộ trưởng, Ủy ban kế hoạch nhà nước, Bộ ngoại thương về thất bại của về việc bảo đảm về vấn đề "nguyên liệu" (Căn bản phải đảm bảo có đủ phân bón và thuốc trừ sâu) cho sự phát triển của nông nghiệp. Ông trách các hệ thống giá cả về sự sản xuất dưới mức cho phép thuộc "cây trồng công nghiệp" xuất khẩu của Việt Nam bao gồm cây đay, đường, đậu phộng, trà, cà phê và cao su. Cấp độ sản lượng bổ sung cho cây trồng và cà chua, bắp, và cây sắn đã bị giảm trong một vài năm, cả hai đều liên quan tới mục tiêu cần đạt tới và cả sản lượng. Điều kì lạ là sản lượng gia súc bao gồm gà, trâu, và heo được chính quyền báo cáo sẽ tiếp tục phát triển thêm để đạt tới mục tiêu, bỏ mặc sự không ổn định giá cả và sự thiếu lương thực cho gia súc.[9] |