Vì sao khi ông họa sĩ và cô kĩ sự chuẩn bị lên thầm nhà anh thanh niên xin phép về trước một tí

Là thanh niên, tôi luôn nghĩ rằng với sức dài vai rộng, phải xung phong đến nơi đầu sóng ngọn gió, đem sức mình cống hiến cho công cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc và dựng xây đất nước. Thế nên, sau khi tốt nghiệp trường đại học, tôi rời thành phố tình nguyện lên công tác ở đỉnh Yên Sơn, cao hai nghìn sáu trăm mét, thuộc Sa Pa, Lào Cai.

Tôi được phân công làm công tác khí tượng thủy văn kiêm vật lí địa cầu. Nhiệm vụ của tôi là đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Công việc không mấy cực nhọc nhưng phải đo, tính và báo cáo cứ 4 giờ một lần. Gian khổ nhất là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng. Trời rét lắm. Ở đây có cả mưa tuyết đấy. Nửa đêm đang nằm trong chăn, nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn thấy là không đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì giống những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung… Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại hừng hực như cháy. Xong việc, trở vào, không thể nào ngủ lại được.


Những ngày đầu mới lên, chưa quen nơi ở mới, tôi buồn lắm. Vốn quen với cuộc sống nơi thành phố tiện nghi và nhộn nhịp, giờ một mình trên đỉnh núi, bốn bề chỉ cây cỏ và mây mù lạnh lẽo, nhớ ơi là nhớ. Cái cảm giác cả ngày chỉ nhìn thấy cỏ cây, không được trò chuyện cùng ai, không nói, không cười thật là đáng sợ. Nhiều lúc, bởi thèm nói chuyện, thèm được lắng nghe giọng nói quá, tôi lăn khúc cây lớn chắn ngang giữa đường, có xe nào đó dừng lại, lấy cớ phụ lăn cây vào lề để được nhìn trông và nói chuyện một lát. Những lần như thế, tôi quen được bác lái xe tốt bụng. Mỗi lần ở dưới lên, bác thường mua tặng tôi món này món kia để tôi vui.

Một lần, bác lái xe dẫn một đoàn khách gồm một ông họa sĩ già và một cô kỹ sư thẻ lên thăm tôi. Lúc ấy, tôi chưa rõ khách đến thăm mình là ai, chỉ vừa thấy xe dừng lại, ba người vừa đi một đoạn là tôi từ trên đỉnh núi háo hức chạy xuống chào đón.

Bận trước, bác lái xe có nói bác gái đang ốm, tôi chuẩn bị sẵn củ tam thất mới đào được gửi tặng cho bác gái bồi dưỡng sức khỏe. Bác lái xe cũng không quên đưa cho tôi mấy quyển sách mà tôi đã dặn nhờ bác mua hộ. Rồi bác dắt tôi lại chỗ nhà hội hoạ và cô gái. Sau những lời chào hỏi, tôi đưa mọi người lên thăm nơi ở và làm việc của tôi. Tôi xin phép chạy lên trước, ý là để pha sẵn ấm trà nóng, mọi người lên tới là có uống ngay cho ấm và tranh thủ cắt lấy một ít hoa cho cô gái. Tôi thầm nghĩ: “con gái nào chẳng thích hoa, nhà mình đầy hoa. Thế nào cô ấy cũng thích”.


Thật đúng là như vậy, khi lên tới nơi, cô gái chỉ kịp “ô” lên một tiếng! Sau gần hai ngày, qua ngót bốn trăm cây số đường dài cách xa Hà Nội, đứng trong mây mù ngang tầm với chiếc cầu vồng kia, bỗng nhiên lại gặp hoa dơn, hoa thược dược, vàng, tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong… ngay lúc dưới kia là mùa hè, đột ngột và mừng rỡ, quên mất e lệ, cô chạy đến bên tôi đang cắt hoa. Rất tự nhiên như với một người bạn đã quen thân, tôi trao bó hoa đã cắt cho cô gái, và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy, trên môi nở một nụ cười rạng rỡ.

Đó cô là cô gái thứ nhất từ Hà Nội lên tới nhà tôi từ bốn năm nay. Tôi nói với cô cứ lấy bao nhiêu tùy thích. Cô ôm bó hoa vào ngực, bạo dạn nhìn thẳng vào mặt tôi cảm động. Bắt gặp cái nhìn đó, phủi vội giọt mồ hôi trên sống mũi, mỉm cười, tôi hạ giọng hỏi vài câu cho đỡ ngượng rồi chuyển sang bác lái xe và ông họa sĩ.

Tôi bước lại bên bác lái xe và ông họa sĩ, hồ hởi kể về công việc của tôi cho ông họa sĩ nghe. Cô gái từ nãy giờ ôm bó hoa đứng ở ngoài vườn cũng lặng lẽ lắng nghe. Nước chè đã ngấm, tôi mời mọi người vào trong nhà cho ấm và thưởng thức nước chè thơm. Tôi rót nước chè mời nhà họa sĩ, ngoảnh lại tìm cô gái, thấy cô đang đọc, liền bưng cái chén con đến yên lặng đặt trước mặt cô. Ông họa sĩ nhấp chén trà nóng ba ngày nay ông mới lại gặp, không giấu vẻ thích thú, tự rót lấy một chén nữa. Ông hóm hỉnh hỏi sao người ta bảo tôi là người cô độc nhất thế gian? Rằng tôi “thèm” người lắm? “A! Chắc bác lái xe đã khoe chuyện này rồi” – tôi thầm nghĩ rồi bật cười khanh khách phân trần rằng: “một mình thì anh bạn trên trạm đỉnh Phan-xi-păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia mới một mình hơn cháu. Làm khí tượng, ở được cao thế mới là lí tưởng chứ”.


Thế rồi, tôi kể lại thời gian hồi mới vào nghề. Những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới thấy một ngôi sao xa, tôi cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này tôi không nghĩ như vậy nữa. Vả, khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao lại là một mình được? Huống chi việc của tôi gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của tôi gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, tôi buồn đến chết mất. Ai cũng muốn được sống giữa mọi người. Nhưng, mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc? Tất cả những điều ấy là động lực thôi thúc tôi làm việc không ngừng nghỉ và không còn thấy việc mình đang làm là gian khổ nữa.

Nhân dân miền Nam đang ngày đêm kháng chiến chống Mĩ, máu nhân dân vẫn đang đổ xuống vì nền hòa bình dân tộc, vì sự nghiệp thống nhất nước nhà. Miền Bắc tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Cần lắm sức trẻ biết hi sinh lợi ích nhỏ của riêng mình vì lợi ích chung của đất nước, vì tương lai của cả dân tộc. Ngay lúc này đây, mình chọn lối sống an nhàn, tận hưởng những điều vụn vặt là có lỗi lắm, sao yên lòng được.

Tôi cứ say sưa kể chuyện thì ông họa sĩ lặng lẽ cũng hí hoáy vẽ vẽ vào cuốn sổ tì lên đầu gối. Tôi biết họa sĩ đang vẽ tôi, hơi ngượng ngùng nhưng để khỏi vô lễ, tôi vẫn ngồi yên cho ông vẽ, nhưng cho là mình không xứng với niềm kì vọng của ông. Tôi xin ông đừng vẽ tôi. Tôi giới thiệu ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa kia đã cống hiến cả tuổi thanh xuân của mình trong vườn rau thực nghiệm chỉ để tạo ra những giống cây tốt hơn, năng suất hơn, đóng góp thiết thực phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước. Tôi còn giới thiệu thêm đồng chí nghiên cứu khoa học ở cơ quan, mười một năm không một ngày xa cơ quan, không đi đến đâu mà tìm vợ chỉ để dò tìm và vẽ lại bản đồ sét riêng cho nước ta. Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước.


Ông họa sĩ khép lại cuốn sổ. Tôi không biết ong đã vẽ gì trong đó, chỉ thấy nụ cười nhẹ trên môi với vẻ mặt ưng ý lắm. Bất giác, tôi nhìn lên đồng hồ: “- Trời ơi, chỉ còn có năm phút!” – tôi kêu lên thảng thốt và tiếc rẻ. Sợ không kịp tiễn đưa, tôi liền chạy ra nhà phía sau lấy mấy quả trứng gà tặng ông họa sĩ. Khi mọi người ra khỏi cửa, tôi phát hiện cô gái còn quên chiếc khăn mùi xoa, tôi vội nhặt lấy gửi cô. Cô gượng cười thẹn thùng, mặt đỏ bừng khó hiểu, vội quay đi. Để tránh phải đối diện với giây phút từ biệt ngậm ngùi, tiếc nuối, tôi lấy cớ tới giờ “ốp”, không đưa mọi người xuống chân núi.

Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng cũng đủ để tôi thỏa lòng mong nhớ. “Chao ôi, có ai ở trong hoàn cảnh của tôi mới biết cái cảm giác “thèm người” nó đáng sợ như thế nào”. Chẳng ai thích sống cô đơn ở nơi vắng lặng như thế này nhưng vì dân tộc, vì đất nước, tôi vẫn luôn tự hào về công việc mình đang làm, yêu nơi mình đang sống. Trong cái Sa Pa lặng lẽ nhưng vẫn luôn có những con người sôi nổi, ngày đêm cống hiến sức lao động của mình cho đất nước. Và có ai đó đòi hoán đổi, nhất định tôi sẽ không đồng ý. Chỉ cần trong lòng ta luôn rộn ràng, luôn gắn kết mình với mọi người thì dù có ở nơi không người đi chăng nữa, ta vẫn cảm thấy vui tươi và lạc quan về cuộc sống, về tương lai rộng mở.

Phân tích nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long – Bài số 1

Mỗi một tác phẩm văn học ra đời đều mang một số phận riêng. Có tác phẩm vừa cất tiếng chào đời đã chết yểu đáng thương. Có tác phẩm gây dư luận xôn xao một thời rồi bị độc giả quên lãng với thời gian. Nhưng cũng có những bài thơ, quyển truyện có một sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc, có một sức hút lạ kì. Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long là một truyện đặc sắc, để lại trong lòng mỗi chúng ta nhiều rung cảm đẹp đẽ.

Truyện không có những tính cách phi thường, những chiến cống vang dội… như ta đã bắt gặp trong nhiều truyện kí viết về chiến tranh thời chống Mĩ.

Nguyễn Thành Long có một lối viết nhẹ nhàng nhiều chất thơ: thiên nhiên hiện hình dưới một màu áo trữ tình ấm áp lòng người đến lạ lùng. Đó là những người lao động bình thường, đáng mến, rất vĩ đại.

Bốn con người được nhà văn nói đến, già có, trẻ có, trai có, gái có, ngoài bác lái xe ra, ba nhân vật còn lại là những trí thức xã hội chủ nghĩa: ông họa sĩ già, anh cán bộ khoa học và cô kĩ sư trẻ mới ra trường. Truyện hầu như không có cốt truyện; thế mà cuộc gặp gỡ giữa họ khó phai mờ trong tâm trí chúng ta.

Bác lái xe tốt bụng, vui chuyện như một nhân vật dẫn chuyện nhưng làm ta khó quên. Ông họa sĩ già từng trải, xin anh em cơ quan hoãn “bữa tiệc” để đi chuyến thực tế “cuối cùng lên Tây Bắc trước lúc về hưu”. “Ngòi bút” như là một quả tim nữa của ông, suốt đời ông “đi”và “vẽ”, ông “khao khát” nghệ thuật vì thế mà ông “yêu thêm cuộc sống”, yêu thêm con người”. Nửa giờ ông trò chuyện vói anh thanh niên, và thái độ chân tình của ông đối với cô kĩ sư như tình “cha con”, làm ta cảm phục và yêu kính ông, vì ông là một nghệ sĩ chân chính, một trí thức lịch duyệt, một nhân cách đẹp có đời sống nội tâm phong phú.

Anh thanh niên là nhân vật được tác giả dành cho nhiều ưu ái, miêu tả sâu sắc, để lại nhiều ấn tượng đẹp, về ngoại hình, anh có “tầm vóc bé nhỏ, nét mặt rạng rỡ”. Anh sống và làm việc một mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m, quanh năm sương mù lạnh lẽo. Lao động và hiệu quả của công việc là thước đo phẩm giá con người. Anh làm công tác khí tượng “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, tham gia vào dự báo thời tiết trước hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Anh lấy số liệu và báo cáo về “nhà “thật chính xác. Những đêm mưa tuyết, lạnh cóng, anh vẫn cầm đèn bão ra vườn lúc một giờ sáng, gian khổ không thể nào nói hết. Anh có công trong việc phát hiện ra một đám mây xốp trên bầu trời Hàm Rồng để không quân ta hạ được nhiều máy bay Mĩ. “Người cô độc nhất thế gian” mà như vậy ư?

Giá trị đích thực ở anh là lẽ sống đẹp. Anh rất “thèm” người, nhưng không phải là “nỗi nhớ phồn hoa đô thị”. Anh luôn tự hỏi mình: “Mình sinh ra làm gì, mình đã ở đâu, mình vì ai mà làm việc?”. Một ý thức trách nhiệm làm ta cảm phục. Anh biết lấy sách để “trò chuyện”, để học tập tiến bộ, trau dồi kiến thức. Anh nói về mình hồn nhiên, khiêm tốn. Anh không muốn ông họa sĩ vẽ chân dung mình. Anh ca ngợi ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa, anh cán bộ khoa học lập bản đồ sét, và theo anh, đó là “những con người làm việc và lo nghĩ… cho đất nước”

Anh còn có một tấm lòng nhân hậu cao đẹp. Anh gửi biếu vợ bác lái xe vừa ốm dậy củ tam thất. Anh tặng cô kĩ sư lên thăm “nhà ” mình một bó hoa rõ to và đẹp. Anh gửi các vị khách một làn trứng để ăn trưa. Toàn là cây nhà lá vườn, nhưng đằng sau món quà ấy là cả một tấm lòng cao cả, đầy tình người. Anh là một trí thức có lối ứng xử lịch sự, ấm áp tình yêu thương.

Cô kĩ sư trẻ được tác giả phác họa một vài nét nhưng thật duyên dáng. Cử chỉ cô “ôm bó hoa vào ngực” cô lắng tai nghe câu chuyện kể của anh thanh niên rồi trầm ngâm lặng lẽ, cô xúc động khi nhìn thấy trang sách anh thanh niên đọc để trên mặt bàn. Mới bước vào đời cô gặp anh thanh niên tựa như một tấm gương, tự soi để tự hiểu mình, nghĩ về mối tình nhạt nhẽo mà cô đã chối bỏ, “về con đường cô đang đi tới”. Cô đẹp như những đóa hoa cô đang cầm trên tay.

Đó là những nhân vật, những tâm hồn trong trẻo, bình dị, hồn hậu và đầy tình thương. Nguyễn Thành Long không tô hồng, mà chỉ thoáng gợi lén “một trang đời, một mảng, một nét của cuộc sống chắt ra… những nhận xét nho nhỏ như nhắc khẽ người đọc”(Tô Hoài) mà thấm thía vô cùng. Vì đó là sắc màu, ý vị cuộc sống.

Anh thanh niên đã tâm sự với nhà họa sĩ: “Cháu thấy cuộc đời đẹp quá”. Quả vậy, truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa đã giúp ta yêu thêm cuộc đời, yêu thêm con người. Và câu thơ của Thanh Hải chợt ngân vang trong lòng, làm ta xúc động về Một mùa xuân nho nhỏ – Lặng lẽ dâng cho đời…

Phân tích nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long – Bài số 2

Văn học Việt Nam 1945 – 1975 đã gắn bó mật thiết với vận mệnh đất nước, sáng tạo nhiều hình tượng cao đẹp về con người Việt Nam trong lao động và chiến đấu. Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là một tác phẩm điển hình cho văn học thời kì này. Nhân vật anh thanh niên với lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm, sự cởi mở, chân thành và khiêm tốn, chính là hình ảnh tiêu biểu cho những con người lao động thời kỳ đồi mới.

Những truyện ngắn và kí của Nguyễn Thành Long thường là sự chắt lọc của cuộc sống hiện thực sôi động diễn ra hằng ngày trên đất nước ta, kèm theo những ẩn ý sâu sắc. Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” trong tập “Giữa trong xanh” (1972) cũng là một tác phẩm như thế. Truyện là kết quả của chuyến đi Lào Cai mùa hè năm 1970 của tác giả, kể về cuộc gặp gỡ ngắn ngủi mà thân tình giữa những con người xa lạ nơi đỉnh Yên Sơn heo hút, mây mù gió tuyết. Trong đó nổi bật và đáng nhớ nhất chính là nhân vật anh thanh niên, tiêu biểu cho những con người lao động đang âm thầm, lặng lẽ cống hiến, xây dựng xã hội, đất nước.

Xem thêm:  Nghị luận xã hội về cho và nhận- Văn 9

Nói đến người thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa”, không thể không nói đến tinh thần trách nhiệm của anh. Anh ý thức được đầy đủ và sâu sắc về ý nghĩa và tầm quan trọng của công việc mình đang làm. “Dãy núi này có một ảnh hưởng quyết định đối với miền Bắc nước ta. Cháu ở đây có nhiệm vụ đo gió, đo mưa, đo nắng, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất và chiến đấu.” Chính vì hiểu được điều đó, anh luôn có tinh thần trách nhiệm trong công việc. Anh biết quên mình, vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. “Gian khó nhất là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng. Rét, bác ạ. Ở đây có cả mưa tuyết đấy. Nửa đêm đang nằm trong chăn, nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn thấy là chưa đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xô tới.” Trong những đêm mưa tuyết, lạnh giá như vậy, ai cũng muốn chui vào tấm chăn ấm áp nằm ngủ tới tận sáng. Anh thanh niên cũng vậy, nhưng không vì thế mà anh bỏ mặc công việc, bỏ quên tinh thần trách nhiệm của mình. Lương tâm anh không cho phép điều đó. Dù công việc có khó khăn đến mấy, anh vẫn hoàn thành đầy đủ.

Bên cạnh đó, anh thanh niên còn rất yêu nghề và gắn bó với công việc. Anh chấp nhận sự cô đơn trên đỉnh núi và cho rằng “làm khí tượng, được ở cao thế mới là lí tưởng chứ”. Và trong chính hoàn cảnh sống một mình ấy, anh đã có những suy ngẫm thật đúng, thật giản dị mà sâu sắc về cuộc sống, về công việc. Có lẽ đây là những tâm sự chân thành nhất của anh, được đúc kết trong cái vắng vẻ, lặng im trên 2000m trên mực nước biển. “Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới thấy một ngôi sao xa, cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ vào nghề này, cháu không nghĩ như vậy được nữa. Vả, khi ta làm bạn, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được. Huống chi công việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất.” Với anh, công việc là nguồn vui, là bạn bè, là một phần không thể thiếu của cuộc sống. Chính công việc đã xua đi sự cô đơn trong lòng anh, tiếp thêm cho anh sự lạc quan và tình yêu cuộc sống.

Chính vì lòng yêu nghề ấy, anh rất tự hào về nghề nghiệp của mình. Anh thấy vô cùng sung sướng và hạnh phúc khi được biết “nhờ cháu có góp phần phát hiện một đám mây khô mà ngày ấy, tháng ấy, không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mỹ trên cầu Hàm Rồng”. Làm sao có thể tả được những cảm xúc dạt dào trong lòng anh khi được biết về kết quả lao động của mình, rằng mình đã làm được một việc có ích cho đất nước. Chỉ cần như vậy thôi cũng có thể khiến anh thanh niên, và cả những con người lao động chân chính khác, hạnh phúc đến khôn tả. Anh chính là hình tượng tiêu biểu cho những người lao động thời kì đổi mới, dám sống hết mình vì lý tưởng và lặng lẽ, âm thầm cống hiến tất cả cho đất nước.

Bên cạnh đó, anh thanh niên còn rất trân trọng tình cảm của mọi người. Lúc đầu mới nhận việc, anh “chưa quen, thèm người quá”. Chính điều bình thường ấy lại cho thấy nét đẹp trong tính cách của anh. Con người ai cũng sợ sự cô độc, muốn được giao tiếp vì đó là món ăn tinh thần không thể thiếu. “Còn người thì ai mà chả “thèm” hả bác? Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?” Đó không phải là nỗi nhớ phồn hoa đô hội tầm thường, xoành xĩnh, mà là mong muốn chính đáng của con người được sống giữa cộng đồng. Sự “thèm người” của anh là điều tự nhiên, cho thấy anh rất quý trọng tình cảm của mọi người. Anh luôn sẵn lòng mời khách đến thăm nhà. Thậm chí, anh còn đếm từng phút được gặp gỡ và nói chuyện với mọi người. Bởi vì với anh, những lúc được gần người như thế được đáng quý trong cuộc sống một mình giữa mây mù và bão tuyết.

Anh thanh niên còn là người rất cởi mở, chân thành. “Anh con trai, rất tự nhiên như với một người bạn đã quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con gái”. Hành động ấy có thể được hiểu theo nhiều nghĩa, nhưng ở đây, đó là lòng hiếu khách, là tình cảm của anh thanh niên với những người đã chịu khó lên thăm anh. Anh cũng không hề tỏ ra câu nệ, khách sáo. Dường như cái vắng vẻ chon von của Yên Sơn đã giúp anh thấm thía ý nghĩa của tình cảm giữa người với người. “Tôi cắt thêm mấy cành nữa. Rồi cô muốn lấy bao nhiêu nữa, tùy ý. Cô cứ cắt một bó rõ to vào. Có thể cắt hết, nếu cô thích.” Một cách tự nhiên, vô tư và không ngại ngần gì cả, “người con trai nói to những điều đáng lẽ người ta chỉ nghĩ, và cũng là những điều người ta ít nghĩ”. Điều đó thật đáng quý và đáng yêu biết chừng nào! Ngoài ra, anh còn chu đáo, biết quan tâm đến mọi người. Anh nhớ vợ bác lái xe bị ốm và gửi cho bác gái củ tam thất để bồi bổ. Khi ông họa sĩ và cô kĩ sư ra về, anh gửi tặng họ một làn trứng để ăn đường. Những hành động nhỏ ấy đã chứng tỏ tình cảm của anh với tất cả mọi người, dù có lẽ anh chỉ gặp họ có một lần ngắn ngủi. Nó càng làm ta thêm yêu, thêm quý người thanh niên đáng mến ấy.

Ngoài những nét đẹp rất đáng yêu ấy, anh thanh niên còn rất khiêm tốn. Anh không muốn ông họa sĩ vẽ mình vì “cho là mình không xứng đáng với thử thách ấy”. Anh giới thiệu với ông họa sĩ những người khác đáng để cho ông vẽ hơn như “ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa”, “đồng chí nghiên cứu khoa học ở cơ quan cháu”,… Anh không hề có ý khoe khoang thành tích hay kể khổ. Thế giới của anh là công việc, “cuộc đời riêng của anh thanh niên thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách”. Sống trên “đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn bốn trăm mét”, “bốn bề chỉ cây cỏ và mây mù lạnh lẽo”, anh vẫn có cách làm đẹp cuộc sống của mình: nuôi gà, trồng rau,… Anh không bao giờ cảm thấy buồn tẻ vì luôn có sách làm bạn, những trang sách ấy soi rọi vào cuộc đời anh. Cách sống ấy khiến ta liên tưởng tới những bậc hiền triết đời xưa sống thanh cao mà giản dị. Nhưng anh thanh niên của chúng ta không phải là một ẩn sĩ không màng thế sự. Anh sống và cống hiến cho sự nghiệp chung một cách khiêm tốn, không vụ lợi chút gì.

Xem thêm:  Nghị luận xã hội về câu “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng “

Có thể nói nhân vật anh thanh niên là một trong những nhân vật thành công nhất của Nguyễn Thành Long. Cốt truyện được xây dựng khá đơn giản nhưng hợp lí. Dù chỉ tập trung vào ba mươi phút gặp gỡ tình cờ ngắn ngủi, nhà văn đã nêu bật lên những nét đẹp đáng quý nhất của anh – yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm, yêu quý mọi người, cởi mở, chân thành và khiêm tốn. Tạo ra tình huống ấy, tác giả đã để cho nhân vật chính hiện lên qua suy nghĩ và ấn tượng của các nhân vật khác, từ đó khai thác được hết những nét tính cách đẹp của anh. Ngoài ra, nhà văn đã kết hợp tự sự với trữ tình và những ý kiến bình luận, giúp nâng cao ý nghĩa cũng như làm nổi bật chiều sâu của nhân vật. Qua đó, Nguyễn Thành Long muốn gửi gắm tới chúng ta: “Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đén chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước.”

Bằng việc xây dựng tình huống hợp lí, kết hợp tự sự, trữ tình với bình luận, Nguyễn Thành Long đã khắc họa thành công nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” – tiêu biểu cho những con người bình thường đang âm thầm, lặng lẽ cống hiến cho đất nước. Học sinh chúng ta cần phải chăm chỉ học tập, rèn luyện để sau này trở thành một người có ích cho xã hội, đất nước. Không cần phải hô hào, hứa hẹn những điều to tát rồi không làm được, chỉ cần như anh thanh niên, như nhà thơ Thanh Hải là đủ:

“Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

Phân tích nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long – Bài số 3

Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là câu chuyện đẹp, nhẹ nhàng và bình dị kể về cuộc sống của những con người trong thời kỳ xây dựng đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa. Trong đó tác giả làm toát lên vẻ đẹp hiếm có của anh thanh niên làm nhiệm vụ trên núi cao và khát vọng sống, khát vọng cống hiến bất diệt.

Với giọng điệu nhẹ nhàng, trữ tình, sâu lắng; những trang viết mộc mạc, chân thực của Nguyễn Thành Long đã khiến cho trái tim người đọc thổn thức, chộn rộn. Hình ảnh anh thanh niên được khắc họa đậm nét trong từng trang viết. Người đọc có một cái nhìn mới mẻ, khách quan hơn đối với những người đang ngày đêm thầm lặng cống hiến cho quê hương, tổ quốc. Anh thanh niên không có tên cụ thể, tác giả chỉ gọi anh là “anh thanh niên”, có lẽ đó là dụng ý nghệ thuật của tác giả.

Qua ngòi bút của Nguyễn Thanh Long, anh thanh niên hiện lên là người làm công tác khí tượng thủy văn, đó gió, đo mây.

Trước hết anh là một người yêu nghề, nhiệt huyết đối với nghề, không quản ngại khó khan để hoàn thành công việc được giao.Cuộc sống của anh vốn bình lặng và giản dị, “sống một mình trên đinh Yên Son cao 2600m, bốn bể chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo”. Với một vài chi tiết đó, chúng ta đã hình dung được cuộc sống buồn chán, tẻ nhạt của anh.Một người đang ở độ tuổi sung sức nhưng lại sẵn sàng cống hiến, sẵn sàng đánh đổi tuổi trẻ để mang lại sự ấm no, hạnh phúc. Chi tiết bác lái xe gọi anh là “người cô độc nhất thế gian” cũng hoàn toàn đúng với cuộc sống hiện tại của anh. Đối lập với sự bình lặng, êm đềm của công việc là tâm thế bình tĩnh, lòng nhiệt huyết và yêu nghề sâu sắc.  Đây chính là đức tính đáng quý của anh thanh niên trong mắt mọi người.

Anh tâm sự với mọi người “Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Qua chi tiết này, anh thanh niên hiện lên là một người đáng kính, anh không ngại khó khăn, thử thách vẫn dẫn thân vào con đường biết rằng không mấy bình lặng. Bởi với anh đó chính là lẽ sống.  Anh đã tự tìm thú vui cho bản thân mình trong những quyển sách. Có lẽ đây là điều mà rất nhiều người trẻ cần phải học tập. Đó chính là việc không được chùn bước, phải luôn ngẩng cao đầu và nhiệt huyết hết mình với công việc.

Khi con người ta sống một mình quá lâu, thường thì sẽ rơi vào cảm giác cô đơn đến cùng cực, sống khép kín và ngại giao tiếp với mọi người. Ấy vậy mà anh lại rất khát người “thèm người”. Chính đức tính này đã tạo nên lòng hiếu khachsm muốn san sẻ, sự nhiệt tình mỗi khi có người đến đây chơi. Tấm lòng này đã để lại trong lòng ông họa sỹ và cô kỹ sư trẻ nhiều tình cảm đặc biệt. Anh đã hồ hởi kể về cuộc sống của mình, về đồng nghiệp, về nét đẹp của Sa Pa trầm lặng.

Anh thanh niên đã lặng lẽ tặng hoa cho cô kỹ sư trẻ cũng như gói trà cho ông họa sỹ già. Tất cả những cử chỉ ân cần đó khiến người khác khâm phục và ngưỡng mộ.

Theo mạch kể của Nguyễn Thành Long, anh thanh niên còn là một người rất khiêm tốn. Mặc dù công việc vất vẻ, khó nhọc nhưng anh không bao giờ kêu than hay tự hào về mình điều gì hết. Anh luôn thấy mình nhỏ bé trước người khác, đặc biệt là hành động ông họa sỹ đòi phác họa chân dung thì anh đã bảo “bác đừng vẽ cháu, cháu sẽ giới thiệu cho bác một người xứng đáng hơn”. Đây chính là một tinh thần rất đáng quý và đáng học tập cho thế hệ trẻ.

Xem thêm:  Nghị luận xã hội về hiện tượng nghiện Facebook

Như vậy với cốt truyện nhẹ nhàng, tinh cảm nhưng Nguyễn Thành Long đã gieo vào lòng người đọc về xúc cảm về hình ảnh một con người hi sinh thầm lặng ở một nơi hoang vắng. CHúng ta càng thêm trân trọng hơn những con người đang ngày đêm vì đất nước.

Phân tích nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long – Bài số 4

Dưới ngòi bút nhẹ nhàng, tình cảm, pha chất kí và giàu chất thơ, thấm đẫm chất trữ tình của nhà văn Nguyễn Thành Long, “Lặng lẽ Sa Pa” đã ra đời để lại trong lòng độc giả nhiều xao xuyến, vấn vương. Đọc truyện ngắn này ta không khỏi ngưỡng mộ trước vẻ đẹp của những con người, trước những tình cảm chân thành, nồng hậu trong một cuộc sống đầy tin yêu. Các nhân vật trong “Lặng lẽ Sa Pa” đều được tác giả xây dựng với những nét thanh cao, đáng khâm phục, đặc biệt nổi lên là anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu. Anh chính là đại diện cho một thế hệ những con người, trong thời kỳ miền Bắc đang tích cực xây dựng cuộc sống mới. Một nhân vật để lại trong lòng chúng ta ấn tượng khó phai mờ.

Người thanh niên ấy hiện lên trên những dòng viết của Nguyễn Thành Long là người yêu đời, yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình. Chúng ta có thể thấy được tấm lòng đẹp của người thanh niên qua lời giới thiệu với ông hoạ sỹ già và cô gái, bác lái xe gọi anh là “người cô độc nhất thế gian”. Đã mấy năm nay anh “sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m bốn bề chỉ có cỏ cây và mây mù lạnh lẽo”. Công việc hàng ngày của anh là“ đo gió, đo mưa, đo chấn động mặt đất” rồi ghi chép, gọi vào máy bộ đàm báo về trung tâm. Nhiều đêm anh phải “đối chọi với gió tuyết và lặng im đáng sợ”. Vậy mà anh rất yêu công việc của mình.

Anh quan niệm: “khi ta làm việc ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được?” Anh hiểu rõ: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Sống một mình nhưng anh không đơn độc bởi “lúc nào tôi cũng có người để trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà”. Con người đang ở tuổi thanh xuân thường ưa thích những nơi xô bồ, đông đúc, ấy vậy mà anh lại yêu một nơi yên ắng, vắng vẻ là Sa Pa. Bởi vì sao, vì ở đây anh được thỏa thích với lòng đam mê công việc của mình, dù cho điều kiện sống và làm việc ở đây là vô cùng thiếu thốn.

Bên cạnh việc hết mình với công việc, anh thanh niên còn biết sắp xếp lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định. Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách, thỉnh thoảng anh xuống đường tìm gặp bác lại xe cùng hành khách để trò chuyện cho vơi bớt nỗi nhớ nhà.

Hoàn cảnh sống khắc nghiệt trên núi cao ở Sa Pa không làm cho trái tim nhiệt huyết cháy bỏng của anh nguội dần và dần trở về thu mình trong nỗi cô đơn. Ngược lại, nó lại thổi bùn trong anh ý chí sống và làm việc quên mình, lại mang lại những cảm giác đáng yêu đó là nỗi “thèm người” của anh, lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo. Lòng mến khách, nhiệt tình của anh đã gây được thiện cảm tự nhiên đối với người hoạ sỹ già và cô kỹ sư trẻ ngay từ những phút đầu gặp gỡ. Niềm vui được đón khách dào dạt trong anh, toát lên qua nét mặt, cử chỉ: anh biếu bác lái xe củ tam thất, mừng quýnh đón quyển sách bác mua hộ, hồ hởi đón mọi người lên thăm “nhà”, hồn nhiên kể về công việc,đồng nghiệp và cuộc sống của mình nơi Sa pa lặng lẽ. Khó người đọc nào có thể quên, việc làm đầu tiên của anh khi có khách lên thăm nơi ở của mình là: hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái lần đầu quen biết. Bó hoa cho cô gái, nước chè cho ông hoạ sỹ già, làn trứng ăn đường cho hai bác cháu…Tất cả không chỉ chứng tỏ đó là người con trai tâm lý mà còn là kỷ niệm của một tấm lòng sốt sắng, tận tình đáng quí.

Điểm nổi bật hơn trong nhân cách rất cao đẹp của người thanh niên còn là ở đức tính cực kỳ khiêm tốn của anh nữa. Anh sống và làm việc trong gian nan, cực khổ, những thành quả trong công việc của anh là đóng góp quan trọng cho đất nước, nhưng người thanh niên nhiệt tình và sôi nổi ấy, nghĩ và nói về mình trong sự khiêm nhường đáng quý. Anh cảm thấy đóng góp của mình bình thường, nhỏ bé so với bao nhiêu người khác. Bởi thế anh ngượng ngùng khi ông hoạ sỹ già phác thảo chân dung mình vào cuốn sổ tay. Con người khiêm tốn ấy hào hứng giới thiệu cho ông hoạ sỹ những người khác đáng vẽ hơn mình: “Không, không, bác đừng mất công vẽ cháu, để cháu giới thiệu cho bác những người khác đáng vẽ hơn. “Đó là ông kỹ sư ở vườn rau vượt qua bao vất vả để tạo ra củ su hào ngon hơn, to hơn. Đó là “người cán bộ nghiên cứu sét, 11 năm không xa cơ quan lấy một ngày”… Anh đã mang nặng những ân tình của mảnh đất Sa Pa này, anh cũng hết sức thấu hiểu sự hy sinh lặng thầm của những con người đang ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước.

Cũng như những tác phẩm khác của mình, Nguyễn Thành Long viết “Lặng lẽ Sa Pa” với một văn phong hết sức nhẹ nhàng, đầy chất thơ. Cốt truyện đơn giản, những chi tiết chân thực tinh tế, ngôn ngữ đối thoại sinh động tác giả đã kể lại một cuộc gặp gỡ tình cờ mà thú vị nơi Sa pa lặng lẽ. Cuộc gặp gỡ chỉ diễn ra trong chốc lát với anh thanh niên, khiến người hoạ sỹ già thêm suy ngẫm về vẻ đẹp cuộc đời mà mình không bao giờ thể hiện hết được và còn làm cô kỹ sư trẻ lòng bao cảm mến bâng khuâng …

Thông điệp lớn nhất mà Nguyễn Thành Long gửi gắm qua đứa con tinh thần này của mình chính là: cuộc sống của chúng ta được làm nên từ bao phấn đấu, hy sinh lớn lao và thầm lặng. Những con người cần mẫn, nhiệt thành như anh thanh niên ấy chính là tấm gương sáng cho mọi thế hệ. Cảm nghĩ về anh thanh niên và những con người đã, đang và sẽ đến với Sa Pa, cũng như bao miền đất xa xôi hẻo lánh khác của tổ quốc để sống và cống hiến, chúng ta càng phải sống tích cực hơn nữa, phải luôn trân trọng và tin yêu cuộc sống này.

Thanh Bình tổng hợp