Vi sao nói thuốc kháng sinh là con dao hai lưỡi

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit.Morbi adipiscing gravdio, sit amet suscipit risus ultrices eu.Fusce viverra neque at purus laoreet consequa.Vivamus vulputate posuere nisl quis consequat.

Create an account

Hàng nghìn năm trước công nguyên, loài người đã biết sử dụng thảo dược để chữa bệnh. Cho đến nay, ngành công nghiệp dược phẩm đã phát triển rất mạnh, đóng góp rất lớn cho nền y tế và cho sự sống còn của nhân loại. Trong đó phải kể đến sự ra đời của kháng sinh, vắc xin, insulin… Tuy nhiên, sử dụng thuốc không đúng cũng đã mang lại những hiểm họa khôn lường cho sức khỏe.

Vai trò của thuốc

Một cách tổng quát, “thuốc” được định nghĩa là bất kỳ chất nào sau khi được hít, tiêm, xông, thẩm thấu qua da hoặc tĩnh mạch vào cơ thể sẽ gây ra sự thay đổi về sinh lý. Trong khía cạnh dược học, thuốc hay dược phẩm được hiểu là hoạt chất dùng để điều trị, chữa bệnh, phòng bệnh, chẩn đoán bệnh hoặc cải thiện sức khỏe. Định nghĩa này của thuốc giúp phân biệt với thực phẩm chức năng là chế phẩm giúp cung cấp và bổ sung chất dinh dưỡng. Trước kia, các loại thuốc được điều chế thông qua quá trình chiết xuất từ cây thuốc, nhưng gần đây, khi công nghiệp phát triển, ngành dược sản xuất thuốc nhiều hơn thông qua tổng hợp hữu cơ.

Tác dụng chính

Tác dụng chính của thuốc là sự thay đổi về sinh lý chủ đạo sau khi bệnh nhân sử dụng thuốc. Tác dụng chính được quyết định dựa trên nghiên cứu dược lực học (tác dụng dược lý của thuốc trên cơ thể) và dược động học (quá trình hấp thu, phân bố, chuyển hóa, thải trừ của thuốc trong cơ thể). Tác dụng chính của thuốc cũng chính là cơ sở để quyết định chỉ định của thuốc đó trong điều trị.

Một thuốc có thể có nhiều tác dụng dược lý lên các bộ phận khác nhau của cơ thể, do đó, thuốc có thể có nhiều chỉ định tương ứng. Chẳng hạn, aspirin có tác dụng giảm đau, hạ sốt, chống viêm không steroid và ức chế kết tập tiểu cầu. Do đó, aspirin có thể được dùng trong điều trị sốt, giảm các cơn đau nhẹ và vừa, viêm khớp dạng thấp, dự phòng thứ phát nhồi máu cơ tim và đột quỵ hay hội chứng Kawasaki…

Với cùng một loại thuốc, nhưng đối với mỗi đối tượng bệnh nhân khác nhau, mỗi loại bệnh khác nhau, bác sĩ sẽ đưa ra những liều dùng khác nhau trên các dạng bào chế và hàm lượng khác nhau để hướng tới tác dụng chính khác nhau. Ví dụ, cùng là hoạt chất amoxicillin nhưng có tới hàng chục phác đồ điều trị cho mỗi đối tượng cụ thể.

Và tác dụng phụ

Tác dụng phụ được định nghĩa là “một hiệu ứng phụ không mong muốn xảy ra bên cạnh hiệu quả điều trị mong muốn của thuốc”. “Các tác dụng phụ có thể khác nhau đối với từng cá nhân, tùy thuộc vào tình trạng bệnh, tuổi tác, cân nặng, giới tính, kiểu gen và trạng thái sức khỏe”. Như vậy, tác dụng phụ thường phức tạp hơn và khó tiên đoán hơn so với tác dụng chính. Đây là lý do phần tác dụng phụ được in trong tờ hướng dẫn sử dụng thuốc luôn dài hơn, thậm chí nhiều lần so với phần công dụng/chỉ định.

Có một sự thật là tất cả các thuốc trên thị trường kể cả các thuốc có nguồn gốc 100% từ thiên nhiên đều có tác dụng phụ. Tuy nhiên, phần lớn người dùng không cảm nhận được chúng hoặc chúng không đủ mạnh để lưu lại ấn tượng trong quá trình sử dụng. Đối với từng bệnh nhân nhất định, không thể chắc chắn việc thuốc có gây ra tác dụng phụ hay không. Bởi sự biểu hiện không rõ ràng, khó tiên đoán, phức tạp và khác nhau đối với từng cá thể mà đôi khi chúng ta bỏ qua một số tác dụng phụ trong cân nhắc điều trị.

Số lượng người chịu tác động có hại đến từ các tác dụng phụ của thuốc cũng không hề nhỏ. Theo báo cáo, mỗi năm có khoảng 4,5 triệu người Mỹ bị cấp cứu hoặc tới các cơ sở y tế vì tác dụng phụ bất lợi của thuốc. Và có hơn 2 triệu bệnh nhân phải nhập viện vì vấn đề này. Các tác dụng phụ có thể xảy ra khi bắt đầu dùng, giảm/tăng liều lượng, hoặc kết thúc sử dụng thuốc. Tác dụng phụ cũng có thể đến từ các tương tác thuốc - thuốc hoặc tương tác thuốc - thức ăn. Ví dụ: Uống thuốc giảm đau có chất gây mê ngay sau khi uống rượu hoặc ngược lại gia tăng đáng báo động nguy cơ tử vong do quá liều. Hoặc nước ép bưởi có thể ảnh hưởng đến nồng độ trong máu của nhiều loại thuốc, bao gồm cả một số huyết áp và thuốc cholesterol. Tác dụng phụ cũng là nguy cơ hàng đầu dẫn đến không tuân thủ điều trị theo quy định.

Khi bị ngộ độc thuốc người bệnh cần được xử lý y tế kịp thời.

Làm gì để hạn chế tác dụng phụ?

Không thể biết xác suất bạn gặp phải tác dụng phụ khi sử dụng thuốc là bao nhiêu, nhưng có nhiều phương án giúp bạn hạn chế tối đa tác hại do tác dụng phụ của thuốc gây ra.

Đầu tiên, hãy chủ động tìm hiểu về tác dụng phụ có thể gặp phải khi sử dụng thuốc, trong tờ hướng dẫn sử dụng thuốc, đồng thời chủ động trao đổi với bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn về vấn đề này. Đừng ngần ngại chia sẻ về những tác dụng phụ đã từng gặp phải trước đây của bạn cũng như ai đó trong gia đình. Trao đổi rõ ràng và thực hiện đúng về liều lượng, đường dùng, thời gian sử dụng, cũng như những chống chỉ định khi sử dụng thuốc. Tốt nhất, không sử dụng rượu, bia và các chất kích thích khi đang dùng thuốc. Và khi có biểu hiện bất thường của cơ thể, hãy nghĩ đến tác dụng phụ của thuốc và nhanh chóng hỏi ý kiến bác sĩ, dược sĩ.

Khi gặp phải tác dụng phụ của thuốc, giảm liều, hoặc dừng thuốc dưới sự hướng dẫn của bác sĩ sẽ làm giảm các triệu chứng trong đa số các trường hợp. Ngoài ra, có thể sử dụng kèm các thuốc khác ngay từ ban đầu hoặc sau khi có biểu hiện của tác dụng phụ để giảm và ngăn ngừa các tác động bất lợi của thuốc. Chẳng hạn, kháng sinh dễ gây rối loạn tiêu hóa do làm mất cân bằng hệ khuẩn chí đường ruột, bởi vậy, dùng kèm men vi sinh là một cách để hạn chế tác dụng phụ bất lợi của kháng sinh trên đường ruột. Và người có thể đưa ra lời khuyên tốt nhất cho bệnh nhân là bác sĩ, dược sĩ có chuyên môn y tế.


Trên thị trường nước ta hiện có 17 nhóm thuốc kháng sinh với khoảng 500 tên thuốc gốc và hàng ngàn tên biệt dược khác nhau. Nếu dùng tên biệt dược mà hỏi, đôi khi đến cả dược sĩ, bác sĩ cũng không dám trả lời, bởi không những có nhiều tên thuốc khác nhau, mỗi loại thuốc lại còn được bào chế dưới nhiều dạng như: tiêm, uống, dùng ngoài; trong đó, thuốc uống và thuốc dùng ngoài cũng có nhiều dạng thuốc khác nhau. Chẳng hạn thuốc uống có: thuốc viên (viên nén, viên nén bao đường, viên bao tan trong ruột, viên nhộng...), thuốc nước (nhũ dịch, si rô, dung dịch), thuốc gói, thuốc cốm; thuốc dùng ngoài có: viên đặt âm đạo, thuốc nước nhỏ mắt, nhỏ tai, thuốc mỡ, tra mắt, bôi ngoài, thuốc phun sương xịt mũi...

5 loại thảo mộc tự nhiên có thể dùng thay thế thuốc kháng sinh
Vì vậy, quy chế sử dụng thuốc kháng sinh phải được bác sĩ khám bệnh kê đơn mới được mua và sử dụng.

Khi nào cần dùng kháng sinh ?

Theo các chuyên gia y tế, những bệnh do nhiễm vi khuẩn, nhiễm trùng thì phải sử dụng kháng sinh để điều trị. Mỗi loại kháng sinh sẽ có một liều điều trị nhất định. Tuy nhiên, có một số loại kháng sinh như Beta lactam, Carbapenem, Quinolon, Glycoside,... trong một số trường hợp người bệnh bị bệnh nặng hoặc nhiễm trùng huyết thì phải tăng liều lượng (có thể phải dùng gấp đôi) để đảm bảo gia tăng kết quả điều trị, có thể kháng được vi khuẩn đặc biệt là các vi khuẩn kháng thuốc trong những trường hợp nhiễm khuẩn nặng.

Mặc dù thuốc kháng sinh mang lại hiệu quả tích cực trong việc điều trị các bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm trùng, nhưng nó vẫn có những tác dụng phụ không mong muốn. Cụ thể là khi người bệnh dị ứng với loại kháng sinh đó, có thể sẽ bị nổi mề đay, ngứa,... Trong trường hợp nghiêm trọng, người bệnh có thể bị sốc phản vệ dẫn đến tử vong. Do đó, chống chỉ định khi sử dụng kháng sinh có thể là uống lúc đói, hoặc lúc no hoặc tiêm chích vào một thời điểm thích hợp.

Siêu vi khuẩn kháng mọi kháng sinh không chỉ có ở Mỹ

Sau trường hợp đầu tiên mắc siêu vi khuẩn kháng mọi loại kháng sinh ở Mỹ, các nhà khoa học đã cảnh báo về nguy cơ một đại dịch nhiễm trùng vô phương cứu chữa. Trước đó, siêu vi khuẩn đã từng xuất hiện ở Trung Quốc.


Ngoài ra, lạm dụng thuốc kháng sinh trong việc kê toa và điều trị là cũng hết sức nguy hiểm. Kháng sinh chỉ được sử dụng trong những trường hợp người bệnh bị nhiễm vi khuẩn. Những trường hợp còn lại, không phải nhiễm khuẩn mà sử dụng kháng sinh thì đó gọi là lạm dụng kháng sinh không cần thiết. Ví dụ: Những trường hợp viêm mà không phải nhiễm (vi khuẩn), hoặc là những trường hợp nhiễm vi rút, nhiễm ký sinh trùng thì không cần sử dụng đến kháng sinh.

Lạm dụng kháng sinh nguy hiểm ra sao ?

Việc lạm dụng thuốc kháng sinh trong việc kê toa điều trị không chỉ tốn kém chi phí (không cần sử dụng mà lại phải mua, có những loại kháng sinh rất đắt tiền), mà còn gây ra tác dụng phụ như loạn khuẩn đường ruột, gây tiêu chảy hoặc rối loạn tiêu hóa, nhờn thuốc, sốc thuốc, nguy hiểm hơn là tăng số loại vi khuẩn kháng thuốc. Gần đây, giới chuyên môn ghi nhận việc sử dụng kháng sinh không đúng cách đã dẫn đến các vi khuẩn đột biến kháng thuốc, càng ngày càng khó điều trị.

Trao đổi về thông tin hiện nay tại Mỹ xuất hiện một chủng vi khuẩn siêu kháng thuốc, kháng với tất cả những loại kháng sinh gây tâm lý hoang mang cho người dân, các bác sĩ tại Bệnh viện Đại học Y Dược, TP.HCM cho biết: có thể từ trước đến giờ, nước Mỹ chưa từng phát hiện ra loại chủng siêu vi khuẩn kháng thuốc này nhưng trên thế giới đã từng xuất hiện rải rác các loại vi khuẩn kháng mọi loại kháng sinh. Ví dụ: tại châu Á Thái Binh Dương, tỷ lệ mắc siêu vi khuẩn kháng thuốc Acinetobacter baumannii là 0,8%, Đài Loan là 5,4%,

Trung Quốc là 3,8%, ở châu Âu tỷ lệ thấp hơn. Cơ chế của siêu vi khuẩn kháng thuốc là tiết ra một loại men chống lại các loại kháng sinh mạnh nhất hiện nay.

Những cách tự bảo vệ mình khỏi siêu vi khuẩn kháng thuốc

Dùng thuốc kháng sinh thế nào cho an toàn ?

Theo khuyến cáo của các chuyên gia y tế, chỉ sử dụng kháng sinh đối với những bệnh nhiễm khuẩn cần phải điều trị kháng sinh. Người bệnh muốn sử dụng kháng sinh cần phải được bác sĩ khám, chẩn đoán và cho chỉ định sử dụng kháng sinh. Không nên tự ý đi mua thuốc, tự đi mua kháng sinh để điều trị vì người bệnh sẽ không biết việc sử dụng kháng sinh đó có cần thiết hay không, liều lượng và thời gian sử dụng như thế nào cho đúng và đủ. Một trong những bất cập hiện nay là người dân tiếp cận với kháng sinh quá dễ. Quyết định sử dụng kháng sinh để điều trị bệnh cần có chỉ định của bác sĩ, giúp cho việc sử dụng đúng và đủ liều lượng.

Ngoài ra, cũng cần phải biết một số nguyên tắc cơ bản khi dùng thuốc kháng sinh như:

- Uống thuốc đúng liều, đúng khoảng cách giờ để đảm bảo cơ thể lúc nào cũng đủ lượng thuốc để chống chọi với vi khuẩn. Ví dụ: bác sĩ kê đơn: uống 2 lần/ngày thì khoảng cách mỗi lần uống thuốc là 12 giờ. Uống 3 lần/ngày, khoảng cách giờ là 8. Uống thuốc đủ số ngày bác sĩ ghi trong đơn (một liệu trình) thường là 7 hoặc 10 ngày.

Cha đẻ thuốc kháng sinh đã cảnh báo siêu vi khuẩn từ 70 năm trước

Thế giới đang đứng trước tương lai không mấy sáng sủa khi những loại kháng sinh chữa bệnh trở nên vô dụng với một số chủng siêu vi khuẩn. Kịch bản này từ lâu đã được ông Alexander Fleming, cha đẻ của thuốc kháng sinh, cảnh báo.


- Uống thuốc tốt nhất là nước trà xanh (chè tươi hoặc chè búp khô) do nước trà xanh giúp kháng sinh đẩy nhanh tốc độ diệt vi khuẩn. Nếu không uống được nước trà xanh thì dùng nước sôi nguội.

Tình trạng gia tăng kháng thuốc hiện nay ngoài việc tự ý mua thuốc của người dân, không nghe theo chỉ định của bác sĩ thì còn có nguyên nhân do bác sĩ cho chỉ định không đúng (không cần kháng sinh mà lại cho sử dụng kháng sinh, cho không đúng loại kháng sinh với bệnh lý đó). Bên cạnh đó là việc sử dụng kháng sinh cho các vật nuôi (súc vật, cá,...). Việc lạm dụng thuốc kháng sinh làm dư lượng kháng sinh trong vật nuôi. Khi sử dụng những thức ăn này, vô tình người dân đã tiếp xúc và nạp vào cơ thể lượng kháng sinh dễ gây đột biến vi khuẩn kháng thuốc.

Tin liên quan

Video liên quan

Chủ đề