Xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐIỆN BIÊN
--------------------------------------------------------------------------------------
Chịu trách nhiệm nội dung: Ông Nguyễn Văn Đoạt- Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo
Địa chỉ: 
Số 867, đường Võ Nguyên Giáp, phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên
Điện thoại: 02153 824 980 - 02153 831 439
Email: 

Cuốn sách được các phương tiện truyền thông giới thiệu rộng rãi đã thu hút sự quan tâm của không chỉ đọc giả là những nhà nghiên cứu lý luận, giới học thuật, cán bộ, đảng viên mà còn được đông đảo quần chúng Nhân dân tìm hiểu.

Xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh

Cuốn sách dẫn dắt người đọc hiểu rằng, Nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân, đế quốc để giành lại nền độc lập dân tộc và bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của đất nước; bắt đầu từ ý chí, khát vọng cháy bỏng giải phóng dân tộc đến hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh vào năm 1911. Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Từ đó, Người đã dần dần xây dựng được một hệ thống lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc phù hợp với thực tiễn Việt Nam, lập ra chính đảng cách mạng chân chính: Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã có những quyết định lịch sử: Ấn định nước Việt Nam theo chính thể Dân chủ Cộng hòa; lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tiến hành cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, xây dựng bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam độc lậpđánh dấu bước phát triển nhảy vọt về thể chế dân chủ, mở ra một thời kỳ phát triển mới của dân tộc sau hàng ngàn năm chìm đắm dưới ách thống trị bởi chế độ phong kiến và gần 100 năm xiềng xích thực dân.

Tiếp đó là các cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân, đế quốc và bọn diệt chủng, bành trướng bá quyền giành thắng lợi, giữ vững nền độc lập, xóa thế bao vây cấm vận, tiến hành công cuộc đổi mới, hội nhập, phát triển, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nước nghèo thu nhập thấp, vững bước trên con đường phát triển. Đó là con đường “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do Nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.

Các bài viết trong cuốn sách nêu thực tiễn sinh động trong nhiều thập kỷ qua ở trong nước và quốc tế về phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội, cải thiện chất lượng đời sống Nhân dân để khẳng định: “Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế”.

Kế thừa sáng tạo, phù hợp với giá trị Việt Nam

Sự quan tâm của dân chúng đến cuốn sách do người đứng đầu Đảng ta viết đáng mừng vì trình độ dân trí, ý thức tham gia vào đời sống chính trị đất nước của Nhân dân ngày càng cao. Với cách nhìn đa chiều, đa diện, cũng có ý kiến nghi ngờ về mô hình chưa có tiền lệ: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” trong đường lối, chính sách của Đảng ta. Trước dư luận đó, nhiều người dân bày tỏ quan điểm chất phác của mình rằng: Thế giới có hàng tỷ gia đình thì mỗi gia đình đều có cách quản gia không giống nhau; thế giới cũng có hàng trăm quốc gia thì đều có sự khác biệt, không rập khuôn về thể chế phát triển và quản trị quốc gia...

Việt Nam cũng vậy, chúng ta kế thừa sáng tạo các giá trị văn minh của nhân loại phù hợp với giá trị văn hóa con người Việt Nam; đảng chính trị nào, thể chế nào đã hy sinh, cống hiến, đem lại hòa bình, độc lập, dân chủ và giàu mạnh cho đất nước, tạo lập được thể chế chính trị ổn định, quyền con người được bảo đảm, chất lượng cuộc sống nâng lên như ngày nay thì người dân sẽ ủng hộ và bảo vệ đến cùng. Họ cho rằng, không gì có thể làm lung lay lòng tin của Nhân dân với xã hội ngày càng tốt đẹp mà mình đang sống. Ai đó muốn vẽ ra xã hội đẹp trong mơ thì cứ việc, người dân chỉ tin vào việc thực, thành quả thực, giá trị đích thực (!). Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đúc kết thực tiễn và lý giải được vì sao lòng dân đi theo con đường mà Bác Hồ và Đảng ta lựa chọn.

Với các bài viết trong những hoàn cảnh khác nhau, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu bật vai trò của Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan trong hệ thống chính trị trong 76 năm qua từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, trở thành một quốc gia độc lậpxây dựng và phát triển để có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đồng thời khẳng định, những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.

Nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công

Để giữ vững và phát huy thành quả trong giai đoạn cách mạng mới, các bài viết của Tổng Bí thư làm sâu sắc thêm lý luận và thực tiễn về những vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quảxây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với Nhân dân; về phòng chống tham nhũng, tiêu cực; về chấn hưng và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; về học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; về xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa; xây dựng lực lượng Công an thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là lực lượng trung thành của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Coi đó là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Cuốn sách của Tổng Bí thư đã truyền đi thông điệp về niềm tin con đường xây dựng xã hội XHCN với các giá trị cốt lõi, bền vững và tốt đẹp. Đó là một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người; sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn; sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai; một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, do Nhân dân và phục vụ lợi ích của Nhân dân. Đây cũng chính là mục tiêu, là con đường đi lên của dân tộc, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn và phấn đấu thực hiện.

                                                        Theo Báo Điện tử Đại biểu Nhân Dân

LTS: Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành đất nước đang phát triển có thu nhập trung bình, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa - xã hội có bước phát triển; đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Báo Hànộimới trân trọng giới thiệu đến bạn đọc loạt bài: "30 năm đổi mới - những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử".

Bài 1: Những đổi mới căn bản

Qua 30 năm đổi mới, nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã có những đổi mới căn bản so với quan niệm truyền thống về chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô viết trước đây, phù hợp với thực tiễn lịch sử đã biến đổi.

Xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh

Thủ đô Hà Nội ngày càng phát triển văn minh, hiện đại, xứng đáng là trung tâm chính trị, trái tim của cả nước. Ảnh: Vũ Long


Về hệ mục tiêu của đổi mới - đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam Đại hội VI (tháng 12-1986) khi xác định hệ mục tiêu của đổi mới, Đảng ta mới xác định ba mục tiêu: Đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh. Những mục tiêu Đại hội VI nêu ra có giá trị định hướng rất quan trọng đối với sự nghiệp phát triển đất nước, mà sâu xa là phát triển tiềm lực sáng tạo của nhân dân, hướng mục đích của đổi mới vào phục vụ nhân dân. Đến Đại hội VII (1991), qua thực tiễn những năm đầu chuyển sang cơ chế thị trường với cạnh tranh và phân hóa, nhất là phân hóa giàu - nghèo, Đảng ta đã bổ sung vào hệ mục tiêu một mục tiêu quan trọng, đó là công bằng thành: "Dâu giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh". Công bằng là thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta hướng tới. Đó cũng chính là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Đến Đại hội IX (2001), sau 15 năm đổi mới, Đảng ta bổ sung một mục tiêu đặc biệt quan trọng là dân chủ: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Vấn đề dân chủ đặt trong hệ mục tiêu của đổi mới là một phát triển quan trọng về nhận thức lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội. Dân chủ là bản chất của chế độ ta, là mục tiêu, động lực của đổi mới, của phát triển, của chủ nghĩa xã hội. Đại hội X (2006), tổng kết 20 năm đổi mới, Đảng ta đã xác định hệ mục tiêu của đổi mới là đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh...". Đại hội XI (2011), tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 (1991-2011) và thông qua Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, hệ mục tiêu đổi mới vẫn được coi là đặc trưng tổng quát, là đặc trưng đầu tiên trong số các đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Song, Đảng ta đã đặt dân chủ trước công bằng. "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Những phát triển nhận thức lý luận về các đặc trưng của xã hội XHCN Việt Nam

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Đại hội VII năm 1991 thông qua đã xác định sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Những nhận thức mới của Đảng về đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng được thể hiện từng bước trong các văn kiện Đại hội VIII, Đại hội IX; đặc biệt rõ nhất trong văn kiện Đại hội X. Đại hội XI trên cơ sở tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 bổ sung, phát triển năm 2011, với tám đặc trưng sau đây: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới". So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 có những điểm bổ sung và phát triển quan trọng sau đây: Thứ nhất, bổ sung đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa có "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo". Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành và khẳng định từ sau Đại hội VII, nhất là từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (tháng 1-1994). Đặc trưng về xây dựng Nhà nước pháp quyền đã làm rõ hơn nội dung chính trị, tức là phương diện chính trị, thể chế chính trị của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và đẩy mạnh dân chủ hóa. Nhà nước pháp quyền do Đảng Cộng sản lãnh đạo là rường cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là tác nhân chính trị trực tiếp để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thể hiện sức mạnh của quyền lực nhân dân. Thứ hai, từ Đại hội X (2006) và Đại hội XI (2011), Đảng ta xác định tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đặc trưng được bổ sung mới chính là hệ mục tiêu của đổi mới, được xem là đặc trưng tổng quát về chủ nghĩa xã hội. Nó có ý nghĩa là nhận thức chung về chủ nghĩa xã hội, là câu trả lời trực tiếp cho câu hỏi: Chủ nghĩa xã hội là gì? Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là một xã hội như thế nào? Đại hội X nêu: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh…". Đại hội XI nhấn mạnh dân chủ, đặt dân chủ lên trước công bằng, văn minh; dân chủ không chỉ là một thuộc tính, một giá trị xã hội có vai trò mục tiêu và động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội mà còn là điều kiện để thực hiện công bằng, văn minh trong chủ nghĩa xã hội. "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…". Thứ ba, trước đây, chúng ta quan niệm và khẳng định, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ. Từ Đại hội X và XI, Cương lĩnh Đảng nêu "nhân dân làm chủ". Đây là một sự cân nhắc thực tế, khi đất nước đã đi vào đổi mới 20, 25 năm, đã phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ ở nước ta, khi Đảng đã có đường lối chủ trương đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác và chủ động hội nhập quốc tế. Nói "nhân dân làm chủ", điều đó không hề xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa hay từ bỏ quan điểm giai cấp như một số ý kiến nêu ra. Thứ tư, đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa về kinh tế, Đảng ta đã xác định, "…có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất". Thứ năm, đặc trưng về quan hệ dân tộc, trong các văn kiện Đảng trước đây, kể cả Văn kiện Đại hội X xác định: "…các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ". Đến Đại hội XI, đã có một bổ sung quan trọng, nhấn mạnh rằng các quan hệ dân tộc "tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển". Đây là một điểm nhấn bảo đảm giải quyết đúng đắn quan hệ dân tộc, chính sách dân tộc trong một nước có kết cấu đa dân tộc - tộc người như nước ta.

Đó là những điều bổ sung, điều chỉnh, phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội, từ Đại hội VII đến Đại hội XI, từ Cương lĩnh 1991 đến Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011.