Xử lý tình huống trẻ đánh nhau

Gợi ý cách xử lý tình huống

Cơ giáo khơng nên cố gắng chứng minh việc bé Đạt đánh bạn như thế nào

(đúng hay sai). Thay vào đó, cơ giáo tìm những hành vi tốt của bé để khích lệ,

củng cố hành vi tích cực của bé Đạt nhiều hơn (sẽ giúp làm mất đi hành vi tiêu

cực).

Cô không nên quát tháo, đánh mắng trẻ mà nên thể hiện hiện thái độ

khơng vui vì bé Đạt đánh bạn. Nếu có thể, cô yêu cầu để bé Đạt bắt tay và xin

lỗi bạn, rồi bảo bé bị đánh bắt tay và nói đồng ý bỏ qua cho bạn. Việc làm này sẽ

tạo ra một khơng khí đồn kết, u thương trong lớp của trẻ. Đồng thời làm mất

đi những hành vi tiêu cực của tất cả trẻ trong lớp.

Cơ giáo nên nói chuyện với phụ huynh về tình hình của trẻ, về việc đánh

bạn trên lớp, chia sẻ để gia đình cũng có cách ứng xử tương tự như cơ giáo ở

trên lớp để trẻ cảm thấy mình có giá trị, được quan tâm nhiều hơn khi có những

hành vi tích cực, những việc làm tốt.

Tình huống 2: Trẻ khơng trả lời được câu hỏi nhưng vẫn giơ tay.

Bé Lan năm nay 5 tuổi, nhanh nhẹn và hoạt bát. Bé thích đến lớp và giao

tiếp với các bạn, nghe lời cô giáo và tập trung vào các hoạt động của lớp học.

Tuy nhiên, bé Lan gặp phải vấn đề là: mỗi lần cô giáo đặt câu hỏi trong giờ

học…bé giơ tay ngay và rất hăng hái, nhưng khi được gọi thì bé đứng lên chỉ

mỉm cười, không trả lời. Đây như là một phản xạ tự nhiên trở thành thói quen

của bé. Trong trường hợp này, cô giáo phải xử lý như thế nào?

Phân tích tình huống

Trẻ em sống và ứng xử dựa vào cảm xúc của chính trẻ. Trẻ yêu, buồn,

giận hờn… là bộc lộ ra ngay bằng thái độ hành vi.

Trẻ được cơ giáo u mến và ít bị nhận xét, đánh giá nên trẻ khơng sợ là

có trả lời câu hỏi được hay khơng, hoặc thậm chí trả lời chưa phù hợp. Vì vậy

tình huống này, trẻ có biểu hiện như vậy là chuyện bình thường, có thể coi là

điểm tích cực vì trẻ đã có một cảm xúc tích cực trên lớp học.

Nhiều trẻ chưa tự tin hay chưa có thói quen đứng trước đám đơng. Vì vậy

khi trẻ ngồi dưới thì rất hăng hái, tự tin nhưng khi được gọi lên trả lời thì trẻ xấu

hổ và khơng trả lời được.

Nhiều trẻ có phản xạ tự nhiên trở thành một thói quen khi làm một việc gì

đó nên việc dừng lại ngay phản xạ tự nhiên của trẻ sẽ gặp khó khăn. Nhiều khi

bé Lan giơ tay như vậy là do thói quen – vì vậy cần có thời gian để giúp bé Lan

dần dần điều chỉnh được thói quen đó.

Gợi ý cách xử lý tình huống

Mỗi lần bé Lan giơ tay trả lời câu hỏi của cơ giáo thì cơ vẫn nên cổ cũ, động

viên bé bởi sự cố gắng, tự giác và chăm chú học bài. Nếu bé Lan giơ tay nhưng

chưa trả lời được câu hỏi của cơ giáo thì cơ có thể dừng lại một chút và dành

thời gian gợi ý cho bé Lan. Cơ có thể gợi ý từ dễ đến khó cho bé Lan trả lời và

5

cho bé thời gian suy nghĩ. Cần làm việc này kiên trì và thường xuyên giúp bé tập

trung vào suy nghĩ và trả lời câu hỏi tốt hơn.

Tình huống 3: Trẻ nhút nhát trước đám đông.

Bé Dũng năm nay 4 tuổi, bé thường xuyên làm theo được các yêu cầu của

cô giáo trên lớp, tham gia các hoạt động tích cực. Tuy nhiên, Dũng rất nhút nhát,

xấu hổ, thường không dám đứng lên trước lớp trả lời các câu hỏi của cơ hay nói

về sản phẩm hoạt động của mình. Khi yêu cầu bé Dũng đứng lên trả lời hay nói

về sản phẩm học tập, Dũng hay thể hiện sự hồi hộp, lo lắng, căng thẳng, nói lí

nhí và ngồi xuống ngay. Trong tình huống này, cơ giáo cần làm gì để giúp trẻ?

Phân tích tình huống

Một số trẻ nhỏ nhút nhát do các em khơng có cơ hội để giao tiếp, trao đổi

với các bạn xung quanh từ nhỏ. Trẻ chưa chủ động trong công việc cá nhân do

người lớn làm thay trẻ mọi việc… vì vậy trẻ chưa có kỹ năng xã hội sớm, dẫn

đến sự mất tự tin ở trẻ.

Một số trẻ do khí chất yếu nên các em cũng thể hiện sự nhút nhát, ít giao

tiếp, thường sống thu mình, khép mình hơn.

Một số cha mẹ hay thầy cơ giáo mong muốn rèn được tính tự tin của trẻ

nhanh nên đã nóng vội bắt trẻ rèn luyện, đối mặt với các tình huống căng thẳng

để trẻ tự tin hơn. Đối với một số trẻ có thể áp dụng được việc đối diện với các

tình huống căng thẳng nhưng cũng có nhiều trẻ khơng thể áp dụng được, thậm

chí gây ra hậu quả tiêu cực đến đời sống tâm lý của trẻ.

Gợi ý cách xử lý tình huống:

Cơ giáo nên dần dần từng bước cho trẻ đứng trước đám đơng để nói một

điều gì đó. Đầu tiên là đứng trước 1-2 bạn, sau đó đứng lên nhóm đơng hơn, khi

trẻ tự tin hơn thì mới cho đứng ở đám đơng, trước cả lớp. Cơ giáo nên khuyến

khích, khen ngợi ngay những điểm tích cực ở trẻ để giúp trẻ tự tin hơn ở mình.

Làm được điều này cần sự kiên trì, nhẫn nại của giáo viên trong một thời gian

dài.

Cô giáo hay cha mẹ nên giao cho trẻ những công việc như dọn đồ chơi,

cùng bạn cắt dán bức tranh, giúp cô lau bàn… những công việc nhỏ phù hợp với

trẻ. Trong q trình làm việc, cơ giáo ln để ý và tìm ra những thế mạnh ở trẻ

để khuyến khích. Trẻ sẽ tự tin hơn và sẽ cố gắng hơn theo hướng tích cực để

thành cơng. Cơ giáo khuyến khích trẻ bằng cách mỉm cười, gật đầu tán thưởng,

ra hiệu cố gắng… và nếu có thể, cơ giáo nói cả lớp cùng động viên để bé Dũng

tự tin hơn.

Cô tư vấn cho cha mẹ, giúp cha mẹ hiểu về sự tự tin của con, và gia đình

cũng cần khuyến khích trẻ từng bước, không nên đặt áp lực quá căng thẳng với

trẻ dẫn đến sự lo lắng, sợ hãi. Giúp trẻ tập giao tiếp với bạn bè, hàng xóm xung

quanh nhiều hơn, đặc biệt là tạo cho trẻ cơ hội đứng trước các thành viên trong

gia đình trình bày điều gì đó tự tin.

6

Tình huống 4: Bé sợ ăn khi đến trường.

Theo gia đình cho biết, khoảng 6 tháng trước, bé Thúy (36 tháng tuổi)

được gửi đến một trường mầm non khác. Thời gian đầu bé ăn chậm, hơi khó ăn,

nên mỗi khi đi học về là bé thường kể với ba mẹ bị cơ giáo mắng, thậm chí là

đánh trẻ. Bé nói là bị cơ giáo lấy tay đánh vào má và bắt ăn nhanh. Bé Thúy đi

học ở trườn cũ ln ln lo sợ, thậm chí khi chở bé đi ngang qua trường cũ bé

cũng sợ. Hiện tại, bé Thúy được đến một trường học mới, lúc đầu đi học thì bé

có sợ nhưng sau một tuần học, bé rất vui vẻ và nói thích cơ vì cơ giáo yêu bé.

Tuy nhiên, bé Thúy khó khăn trong việc ăn, không chịu ăn, ngậm thức ăn, đôi

khi bảo bé nhai thì bé lại ói ra hết (ở nhà bé ăn tốt). Trong trường hợp này, cơ

gáo nên làm gì để giúp trẻ?

Phân tích tình huống

Đơi khi trẻ bị ám ảnh đối với việc ăn uống, đặc biệt là gắn với những ảnh

hưởng tiêu cực (bị trừng phạt, dọa nạt…) nên mỗi lần ăn là trẻ sợ hãi khơng ăn,

thậm chí là bị nơn ọe khi ăn. Vì vậy việc loại bỏ được cảm giác sợ hãi ở trẻ là

điều cần phải làm nếu muốn trẻ thoải mái hơn trong ăn uống.

Việc trẻ ăn ở nhà rất tốt – thì có nghĩa trẻ khơng gặp vấn đề gì về ăn uống mà có

thể chỉ là do tâm lý sợ hãi của trẻ ở trường, dẫn đến việc sợ ăn của trẻ. Trẻ sẽ ăn

thoải mái nếu loại bỏ cảm xúc tiêu cực của trẻ ở nhà trường.

Gợi ý cách xử lý tình huống:

Nhà trường và cơ giáo cần tạo niềm vui khi bé Thúy đến trường. Niềm vui sẽ là

cơ sở giúp bé Thúy thoải mái và quên đi những tác động tiêu cực từ trường học

trước đây đối với trẻ. Đặc biệt là khi cho trẻ ăn, cô giáo cần loại bỏ cảm xúc tiêu

cực, áp đặt trẻ phải ăn hoặc dùng hình phạt đối với trẻ. Để làm được việc này, cơ

giáo cần bình tĩnh, từ từ, từng bước một và cần có thời gian. Trẻ chỉ ăn ngon khi

không bị căng thẳng về tâm lý đối với việc ăn uống mà thôi.

Việc cho trẻ ăn theo bữa là rất tốt – giúp trẻ có nề nếp tốt. Tuy nhiên nhà trường

cũng nên quan tâm đến bữa ăn vật chất của trẻ như: trẻ ăn có đủ chất khơng, có

đổi món ăn cho trẻ khơng, món ăn có hợp khẩu vị với trẻ khơng.

Tình huống 5: Trẻ đòi đồ chơi một cách tự do.

Bé Quyên được 38 tháng tuổi đang học lớp mẫu giáo bé. Bé Quyên có

thói quen đòi bằng được những thứ mà bé thích. Nếu cha mẹ hay cô giáo không

đáp ứng được nhu cầu của Quyên là cháu rất hay ăn vạ, khóc to, thậm chí la hét

ầm ĩ. Những lúc như thế, bé thường ném cả đồ chơi, không cần nữa. Cách đây

vài tháng, khi bé Quyên nghịch là bị người lớn, cha mẹ la mắng và trẻ còn biết

sợ, xin lỗi. Còn bây giờ, cháu nhất định khơng chịu nghe mà còn khóc và ăn vạ

nhiều hơn. Trong tình huống này, giáo viên cần làm gì để giúp trẻ?

Phân tích tình huống

Việc trẻ đòi hỏi bằng được những thứ mà trẻ thích, khơng sợ người lớn và

nếu khơng được thì khóc, mè nheo… do nhiều nguyên nhân khác nhau. Chẳng

7

hạn trẻ được cưng chiều q mức – đòi cái gì là được cái đó. Trẻ là trung tâm

của gia đình và ln được thỏa mãn mọi thứ. Trẻ luôn được nhận nhiều hơn là

phải cho đi, chia sẻ và điều này dần dẫn đến tính ích kỉ ở trẻ, đặc biệt khi sự đòi

hỏi này trở thành một thói quen. Điều này thường xuất hiện ở một số gia đình ít

con và đáp ứng nhu cầu của con vô điều kiện.

Người lớn vô tình hình thành hành vi đòi hỏi của trẻ khi đáp ứng mọi nhu

cầu của trẻ nếu trẻ khóc, mè nheo, bỏ ăn, tức giận… Đây là cách thức mà trẻ làm

nếu muốn được thỏa mãn một nhu cầu nào đó.

Có những trường hợp trẻ thiếu thốn và thích đồ chơi đó q mức vì thế trẻ

mong muốn có đồ chơi đó bằng mọi cách, trẻ khơng thể kiềm chế cảm xúc của

mình với đồ chơi đó.

Gợi ý cách xử lý tình huống:

Trong trường hợp này, cha mẹ hay cơ giáo nên chú ý đến các việc sau để

điều chỉnh được đồ chơi đòi hỏi quá mức của trẻ:

Khi trẻ đòi hỏi một đồ chơi hoặc nhu cầu nào đó, người lớn khơng nên

thỏa mãn nhu cầu đó của trẻ ngay. Người lớn nên dừng lại đặt câu hỏi: Vì sao

con lại thích đồ chơi này? (trẻ phải giải thích). Đây là thời gian tạm lắng để trẻ

suy nghĩ và nghe được những cảm xúc, mong muốn cuả trẻ. Việc làm này đòi

hỏi sự bình tĩnh và kiên trì thực hiện mục đích.

Khi trẻ đòi hỏi đáp ứng nhu cầu nào đó (đồ chơi), người lớn nên thỏa hiệp

với trẻ - trẻ phải làm những việc gì thì mới có được đồ chơi đó. Cho trẻ đưa ra

các việc làm và cha mẹ định hướng, từ đó trẻ sẽ phải cố gắng hồn thành các

cơng việc đó để được đồ chơi và cũng là thời gian để trẻ tạm lắng nhu cầu của

bản thân. Các công việc như: tự ăn, tự đi giày đến lớp, đến lớp không được quậy

phá…

Khi trẻ đòi hỏi đồ chơi q mức – và khơng được đồ chơi sẽ thể hiện

những hành vi tiêu cực như khóc, hét, giận dỗi… lúc đó cha mẹ càng quan tâm,

càng giải thích thì càng củng cố hành vi tiêu cực nhiều hơn. Vì vậy, một kinh

nghiệm quan trọng để tránh đi những hành vi tiêu cực ở trẻ em là “kỹ thuật phớt

lờ”, tức là không quan tâm, không để ý đến các hành vi tiêu cực của trẻ. Sau

nhiều lần như vậy, trẻ sẽ hiểu được hành vi tiêu cực mà trẻ thể hiện sẽ không

đem lại kết quả gì, từ đó trẻ sẽ dần dần bỏ đi những hành vi tiêu cực đó và biết

dừng lại những đòi hỏi q mức của bản thân.

Tình huống 6: Trẻ 3 tuổi hay “chống đối”.

Bé Hoàng 36 tháng tuổi, gia đình đưa bé đến trường học được 3 tháng rồi.

Tuy nhiên, cơ giáo và gia đình gặp khó khăn trong việc giáo dục trẻ. Trước đây

cháu rất ngoan, nhưng thời gian gần đây bé Hồng ít nghe lời cha mẹ, không

vâng lời cô giáo trên lớp học mặc dù cháu hiểu được các yêu cầu của người lớn.

Cháu thích làm theo ý mình, đặc biệt là hay làm ngược lại với những yêu cầu

của người lớn. Mỗi khi la bé Hồng, bé càng cố tình làm ngược lại bé muốn thể

8

hiện sự bướng bỉnh, luôn muốn chống đối với người lớn. Vậy trong tình huống

này, cơ giáo và cha mẹ nên làm gì?

Phân tích tình huống

Q trình phát triển tâm lý của trẻ không phải là một sự liên tục, êm ả mà còn có

cả những lúc khủng hoảng. Đối với trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo thường xảy ra sự

khủng hoảng ở giai đoạn lên ba, hay gọi là “khủng hoảng tuổi lên ba”. Vào độ

tuổi này trẻ bắt đầu nhận thức về cái tơi của mình nên muốn làm mọi việc khẳng

định cái tơi. Trẻ hay nói: cái này là của con, cái kia là của chị… Vì vậy khi

người lớn buộc trẻ làm một việc gì đó dù trẻ biết là đúng nhưng trẻ vẫn khơng

nghe, hoặc làm ngược lại chỉ để chứng minh cái tôi của trẻ. Trẻ mong muốn

người lớn hiểu và chấp nhận cái tơi của mình. Sự khủng hoảng này sẽ dần mất đi

khi trẻ lớn dần lên.

Việc trẻ chống đối người lớn cũng phụ thuộc vào cách người lớn giao tiếp với

trẻ như thế nào. Đôi khi người lớn chưa lắng nghe suy nghĩ của trẻ mà đã buộc

trẻ làm theo ý mình. Người lớn vơ tình hay áp đặt những suy nghĩ mà mình cho

là đúng đắn đối với trẻ. Trong khi đó trẻ em là một thế giới tâm hồn phong phú

và riêng biệt. Vì vậy trẻ đơi khi có hành vi chống đối vì người lớn chưa hiểu trẻ,

chỉ áp đặt – nhưng trẻ nhỏ không biết làm thế nào – nên thể hiện hành vi chống

đối, hoặc làm ngược lại.

Gợi ý cách xử lý tình huống:

Những đặc điểm tâm lý tiêu cực này của trẻ sẽ tự mất đi với sự phát triển của độ

tuổi. Tuy nhiên, nếu người lớn biết cách giao tiếp phù hợp với tâm lý trẻ sẽ giảm

bớt sự mâu thuẫn giữa cha mẹ, người lớn với trẻ. Người lớn nên chú ý:

- Tránh việc la mắng, trách phạt trẻ vì điều này sẽ làm cho trẻ cảm nhận bị áp

đặt, không được công nhận cái tôi nên dẫn đến sự chống đối nhiều hơn.

- Khuyến khích, động viên, cơng nhận những hành vi tích cực ở trẻ - giúp trẻ

cảm nhận được giá trị của cái tơi ở trẻ.

- Cho trẻ có cơ hội lựa chọn với những yêu cầu mà chúng ta đưa ra: Hơm nay

trời lạnh, con thích mặc gì cho ấm? Con thích ăn gì sáng nay?... Tất nhiên, phụ

huynh và cô giáo nên khéo léo để giúp trẻ lựa chọn cho phù hợp.

Tình huống 7: Trẻ khơng muốn đi học sau kỳ nghỉ hè.

Bé Mai bắt đầu đi học lúc 3 tuổi. Lúc đầu bé đến lớp rất rụt rè nhưng sau

1 năm học, bé Mai rất tích cực đến trường, vui vẻ và tự giác đi học. Tuy nhiên,

cuối năm học, đến kỳ nghỉ hè, bé Mai được nghỉ học, ở nhà và về chơi với ông

bà. Sau mùa hè, khi cho bé đi học trở lại, bé có biểu hiện khơng hứng thú, khơng

thích đến trường, nhất định khơng chịu đi học và thường khóc lóc đòi mẹ. Trong

tình huống này, cha mẹ và cơ giáo cần làm gì để giúp bé vui vẻ, hạnh phúc trở

lại trường mầm non học?

Phân tích tình huống

Bé Mai cũng giống như bao đứa trẻ khác thích nghỉ ngơi, thích chơi tự nhiên mà

khơng bị gò ép. Trong một năm học ngày nào trẻ cũng đến lớp đều và học tập sẽ

hình thành cho trẻ một thói quen đi học nên việc học hành trở nên nhẹ nhàng,

9

thoải mái. Vì vậy sau một thời gian khá dài nghỉ học, được chơi thoải mái, tự do

nên lại hình thành ở trẻ một thói quen khác. Quen với việc nghỉ ngơi, khơng

phải học,không phải dậy sớm để đi học… nên trẻ chán, khơng thích đi học sau

ba tháng hè. Đây là chuyện bình thường và xuất hiện ở nhiều trẻ.

Gợi ý cách xử lý tình huống:

Trong trường hợp này, cha mẹ và cô giáo không nên đánh mắng hay quy kết cho

trẻ là lười biếng. Cô giáo và cha mẹ nên từng bước giúp trẻ thích nghi với điều

kiện, hồn cảnh học tập sau ba tháng hè. Việc này sẽ gặp khó khăn lúc đầu giống

như lần đầu tiên trẻ đi học, tuy nhiên thời gian khó khăn này sẽ qua nhanh vì trẻ

đã hình thành được nếp đi học trước đây. Bên cạnh đó, nên tạo niềm vui, sự

hạnh phúc cho trẻ khi đi học – tránh la, mắng, bực dọc, quát trẻ… để buộc trẻ đi

học ngay mà bỏ qua sự động viên.

Tình huống 8: Trẻ 6 tuổi khơng hứng thú với việc học chữ.

Bé Sơn đang học lớp mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) nhưng rất lười, ngại ngồi

tập tô hay “viết” chữ. Mỗi khi cô giáo hay cha mẹ nhắc nhở Sơn luyện tập tô,

“viết” chữ là bé lẩn tránh hay tỏ thái độ chán nản, không tập trung. Các cơng

việc khác thì bé làm rất tốt (làm tốn; chơi ghép hình…). Vậy làm thế nào để bé

Sơn tập trung, hứng thú vào việc tập luyện tô chữ, “viết” chữ?

Phân tích tình huống

Trẻ em học tập, giao tiếp hoặc làm một việc gì đó thường dựa vào cảm xúc rất

nhiều. Trẻ rất tích cực và say mê khi có cảm xúc tích cực, còn ngược lại thì trẻ

thường né tránh, chán, mệt mỏi. Vì vậy bé Sơn thích học tốn, xếp hình và ngại

ngồi tơ chữ, “viết” chữ là do phụ thuộc vào cảm xúc, hứng thú của trẻ.

Cách dạy của cơ giáo và người lớn có thể cũng ảnh hưởng đến việc luyện viết

chữ của bé Sơn. Đó là khi buộc trẻ tập trung quá lâu vào việc luyện viết chữ thì

trẻ sẽ có cảm giác chán, mệt mỏi và sau nhiều lần như vậy thì trẻ sẽ có cảm giác

sợ hãi, bị ám ảnh với việc học chữ.

Tính chất học tập của trẻ mẫu giáo không giống như của học sinh, trẻ mẫu

giáo thường học qua hoạt động vui chơi. Khi hoạt động dạy học được tổ chức

dưới hình thức vui chơi thì trẻ sẽ tiếp thu nhanh và hiệu quả hơn.

Gợi ý cách xử lý tình huống:

Trước khi trẻ bắt đầu luyện viết chữ, cô giáo hay phụ huynh nên tạo cho

trẻ một cảm xúc tích cực, sự hưng phấn, vui vẻ để trẻ có thể thực hiện việc học

tập một cách nhẹ nhàng nhất. Cần chú ý đến thời gian luyện tập viết của trẻ và

ln khích lệ những điểm tích cực, những thành cơng của trẻ khi luyện viết;

tránh việc mắng, nói trẻ là lười biếng, dốt nát…

Việc luyện chữ viết của bé Sơn hay việc học tập của trẻ nói chung nên

được tổ chức dưới hình thức các trò chơi. Thơng qua các hoạt động chơi trẻ sẽ

học rất nhanh và có thể sử dụng phần thưởng đối với trẻ để khích lệ.

10

Tình huống 9: Bé Mơ rất thích ra lệnh.

Năm nay bé Mơ đã 5 tuổi, từ khi đi học đến nay, ngay khi ở nhà, bé cũng

thường hay ra lệnh cho người khác, bạn khác làm. Bé Mơ luôn muốn chứng tỏ

với mọi người là bé biết làm mọi thứ và khôn ngoan hơn người khác. Ở lớp học,

bé thường hay ra lệnh cho bạn và ép bạn mình phải làm cho dù những yêu cầu

của bé nhiều khi khơng đúng. Bé còn hay lớn tiếng và buộc bạn phải làm theo.

Hành vi đó đã trở thành tói quen của bé Mơ. Liệu thói quen này của bé Mơ có

tốt khơng và người lớn cần phải làm gì để bé Mơ điều chỉnh hành vi của mình?

Phân tích tình huống

Bé Mơ có hành vi như trên do nhiều nguyên nhân như:

- Bé Mơ muốn được người khác quan tâm, chú ý. Khi người lớn không

chú ý nhiều đến bé thì bé sẽ làm mọi việc để người khác quan tâm và hành động

gây chú ý có thể là hành động tích cực hoặc tiêu cực. Trường hợp bé Mơ này thể

hiện sự hống hách – để người khác thấy mình giỏi và quan tâm nhiều hơn.

- Đây cũng có thể là một phẩm chất bẩm sinh của trẻ. Trẻ sinh ra đã có ý

chí mạnh mẽ, tính quyết đốn và nếu trẻ biết ra lệnh và thuyết phục bạn khác

nghe theo một cách có lý và tích cực thì là một điểm rất tốt. Tuy nhiên bé Mơ ra

lệnh cho bạn dù biết là vô lý và không thuyết phục bạn mà lớn tiếng, quát buộc

bạn làm theo là chưa tốt, điều này có thể ảnh hưởng đến nhân cách sau này của

trẻ. Vì vậy nếu cơ giáo, cha mẹ biết cách uốn nắn, chỉ bảo thì một đứa trẻ thích

ra lệnh, ít chịu nhượng bộ sẽ thành cơng hơn trong cuộc sống sau này.

- Nếu trẻ biết ra lệnh và dứt khoát buộc trẻ khác làm những việc tích cực

thì là rất tốt, ngược lại, trong những trường hợp vơ lý, trẻ ra lệnh cho bạn chỉ vì

muốn để người khác quan tâm, chú ý thì lại khơng tốt, cần điều chỉnh để trẻ hiểu

và có hành vi đúng mực hơn.

Gợi ý cách xử lý tình huống:

Nếu trong những tình huống bé ra lệnh là “vơ lý” – vì cái tơi của trẻ - thì

trẻ khơng ngần ngại với chuyến sai bảo này và cứ nằng nặc đòi người khác phải

làm. Cô giáo, cha mẹ nên lờ đi, không đáp ứng yêu cầu của trẻ ngay hoặc yêu

cầu trẻ giải thích vì sao lại đòi như vậy. Nếu trẻ giải thích có lí thì mới làm giúp

trẻ. Qua đó trẻ học được bài học: khơng phải u cầu nào của mình cũng được

đáp ứng và muốn bảo được người khác thì phải có lí lẽ đúng đắn, thuyết phục.

Ở một số trẻ, khi đòi hỏi – các mệnh lệnh khơng được đáp ứng thì trẻ tỏ ra

ngoan cố, hoặc đòi hỏi cao hơn, đe dọa, quấy rầy, khóc, tỏ thái độ bất mãn, giận

dỗi – lúc này người lớn cần trấn tĩnh trẻ, không nên đáp ứng các nhu cầu đó

ngay mà đợi đến khi trẻ bình tĩnh lại rồi mới phân tích cho bé thấy sự vơ lý của

bé và cho bé thấy rằng mình khơng muốn tình trạng này lặp lại một lần nữa.

Tình huống 10: Khi trẻ “lấy trộm” đồ chơi của trẻ nhà hàng xóm.

Tuấn năm nay hơn 4 tuổi, bé là một đứa trẻ ngoan, biết nghe lời cha mẹ,

đến trường thích chơi với các bạn và biết vâng lời cô giáo. Sức khỏe của Tuấn

11

rất tốt. Bé cũng biết nhường nhịn bạn bè xung quanh và tích cực thực hiện các

cơng việc người lớn giao cho. Tuy nhiên, Tuấn thỉnh thoảng gặp phải vấn đề

khiến bố mẹ lo lắng và xấu hổ. Hơm đó, Tuấn sang nhà hàng xóm chơi, khi ra về

cầm 1 chiếc ơ tơ của bạn. hàng xóm kết tội là Tuấn “ăn trộm” đồ chơi. Cha mẹ

Tuấn đã đánh và bắt bé đem trả đồ chơi ngay. Tuy nhiên, nhiều lần sau, bé vẫn

lặp lại hành vi này. Trong trường hợp này, người lớn nên ứng xử như thế nào để

giúp bé Tuấn nhận thức và điều chỉnh hành vi phù hợp?

Phân tích tình huống

Việc trẻ lấy đồ chơi của bạn về nhà là do sở thích, cảm xúc của trẻ với đồ

chơi đó. Mục đích của trẻ là lấy để chơi và khơng thích sẽ trẻ, thậm chí mang đồ

chơi khác đẹp hơn sang để đổi lấy đồ chơi mà trẻ thích. Như vậy, đối với trẻ 4

tuổi, không nên vội quy kết việc “ăn trộm” đồ chơi của trẻ là một hành vi tiêu

cực, mà đó chỉ là cảm xúc của trẻ mà thôi. Tuy vậy, nó có thể đem đến sự hiểu

lầm, phiền tối cho cha mẹ, thầy cô giáo trong việc giải quyết việc này.

Việc cha mẹ đánh, bắt trẻ phải mang đồ chơi sang trả và còn mắng trẻ sẽ

làm cho trẻ hậm hực, khó chịu, khơng thoải mái. Đơi khi trẻ chống đối lại hành

vi của người lớn. Mặt khác, trẻ sẽ phải dập tắt cảm xúc của mình với đồ chơi mà

trẻ thích, đánh mất đi tính hứng thú của trẻ với thế giới bên ngồi.

Nếu cha mẹ, cơ giáo biết cách giúp trẻ hiểu việc lấy đồ chơi của bạn là

chưa tốt, nhưng việc thích đồ chơi đó cũng khơng xấu. Vì vậy, nếu biết cách nào

đó để thương lượng có đồ chơi đó phù hợp là rất tốt. Vì vậy, cha mẹ, thầy cô nên

dạy trẻ kỹ năng giao tiếp để có đồ chơi đó. Ni dưỡng hứng thú của trẻ về đồ

chơi đó nói riêng và hứng thú với thế giới xung quanh nói chung sẽ rất tốt cho

sự phát triển trí tuệ sau này của trẻ.

Gợi ý cách xử lý tình huống

Trong tình huống này, cơ giáo và cha mẹ nên chú ý:

- Cha mẹ không nên vội đánh, mắng trẻ ngay vì hành vi lấy trộm đồ mà nên bình

tĩnh hơn và tìm hiểu kĩ. Cha mẹ có thể hỏi trẻ: tại sao con lấy đồ chơi? Đồ chơi

này con thích ở chỗ nào, con đã hỏi ý kiến bạn chưa, con có biết là đồ chơi đó là

bạn rất thích hay khơng?... những câu hỏi này sẽ giúp trẻ định hướng lại những

hành vi của mình là phù hợp hay chưa phù hợp.

- Có thể cha mẹ nên khuyến khích về sở thích về đồ chơi đó của trẻ. Hành vi này

của cha mẹ sẽ giúp trẻ hứng thú với những lựa chọn của trẻ mà không dập tắt đi

những hứng thú của trẻ. Cha mẹ, cơ giáo trao đổi để giúp trẻ tìm ra nhiều cách

khác nhau để có thể có được đồ chơi đó, đồng thời uốn nắn những cách khơng

phù hợp và khuyến khích những cách sáng tạo, phù hợp như: con sẽ thuyết phục

bạn cho con mượn chơi một lúc, con sẽ mang đồ chơi khác của mình và thuyết

phục bạn đổi cho, con sẽ cố gắng ngoan hơn để cuối tuần mẹ mua cho đồ chơi…

- Trong trường hợp có thể, cha mẹ, cô giáo tạo điều kiện giúp trẻ thực hành các

kĩ năng đã trao đổi ở trên với trẻ, dạy cho trẻ kĩ năng thương thuyết và kĩ năng

sáng tạo để có thể đạt được mục đích của trẻ.

12

Tình huống 11: Trẻ thường hay hỏi “Vì sao”

Trong nhiều lần đi học về, bé Lan (5 tuổi) đã hỏi mẹ rất nhiều câu hỏi “vì

sao?”. Lúc đầu mẹ bé Lan còn trả lời được nhưng về sau thì thật khó, vì cứ suy

nghĩ đến đâu là bé hỏi đến đó. Ví dụ bé hỏi:

Bé Lan: Mẹ ơi, cơm màu gì?

Mẹ: Cơm màu trắng.

Bé Lan: Vì sao nó màu trắng?

Mẹ: Ưm…..ưm….mẹ “bí” rồi…

Bé Lan: Tại sao “bí”?

Mẹ: ……!!!!

Cứ như vậy trẻ hỏi tới , hỏi tới…và mẹ không biết trả lời như thế nào?

Còn rất nhiều câu hỏi khác nữa mà bé hỏi: Tại sao khi mình đi mà cái cây

nó cứ chạy lùi? …

Mỗi câu hỏi như vậy khiến mẹ bé rất băn khoăn làm thế nào để trả lời con

cho hợp lý. Trong trường hợp này, người lớn nên làm gì để giúp trẻ hiểu biết

được thế giới bên ngồi, kích thích hứng thú nhận thức của trẻ?

Phân tích tình huống:

Việc trẻ đặt các câu hỏi “Vì sao” là rất tốt đối với sự phát triển tâm lý của

trẻ. Điều này chứng tỏ trẻ rất hứng thú với thế giới bên ngồi, trẻ muốn khám

phá, tìm hiểu nó. Điều quan trọng hơn là trẻ phát triển nhận thức và phát triển trí

tuệ tốt khi biết đặt những câu hỏi cho người lớn. Do đó, người lớn khơng nên

dập tắt việc đặt câu hỏi “Vì sao” của trẻ?, hoặc cho đó là vớ vẩn. Chúng ta cần

khuyến khích trẻ đặt câu hỏi “Vì sao” giúp trẻ phát triển trí tuệ và sự hiểu biết về

thế giới xung quanh.

Nhận thức của trẻ phù hợp với độ tuổi của trẻ. Người lớn cần giải thích

sao cho phù hợp với mức độ phát triển của trẻ thì trẻ mới hứng thú và hiểu được

lời giải thích.

Tuy nhiên, nếu trẻ đặt câu hỏi “Vì sao” nhiều lần còn người lớn chỉ tập

trung vào giải thích để trẻ hiểu (có khi khơng thể giải thích được) thì trẻ sẽ thụ

động tiếp nhận kiến thức có sẵn mà ít động não, tự suy nghĩ trả lời câu hỏi. Điều

này cưa phải là tối ưu về phương diện nhận thức. Con người thường khi đặt câu

hỏi, trước tiên phải tự đi tìm câu trả lời cho chính mình. Điều này rất cần thiết

cho hoạt động dạy học.

Gợi ý cách xử lý tình huống:

Trong trường hợp này, người lớn nên chú ý: Khi trẻ đặt câu hỏi “Vì sao”,

người lớn nên khuyến khích trẻ, thậm chí đánh giá tích cực câu hỏi của trẻ. Tuy

13

nhiên, người lớn khơng nên giải thích ngay lập tức mà nên dừng lại chút thời

gian để đặt câu hỏi cho trẻ (Theo ý con, nên trả lời như thế nào?...). Bên cạnh

đó, chúng ta sẽ khẳng định với trẻ là chúng ta cũng đi tìm câu trả lời. Như vậy,

trẻ sẽ hứng thú hơn khi tự tìm câu trả lời cho mình, trong khi đó, người lớn là

người đồng hành cùng trẻ.

Ví dụ:

Trẻ A: Tại sao khi mình đi mà cái cây nó cứ chạy lùi? …

Cơ: Con quan sát hay đấy. thế theo con, vì sao cây lại chạy xa mình?

Trẻ A: Vì nó sợ mình đánh, mình chặt cây.

Cơ: Đúng rồi, khi cây bị chặt, bị đánh nó sẽ làm sao?

Trẻ A: Thì nó sẽ rất đau…

Cơ: Đúng rồi, làm thế nào để cây nó khơng sợ mình?...Chúng ta cứ hỏi

như vậy để giúp trẻ phát triển tốt trí tuệ của mình.

Người lớn đơi khi cũng nên chủ động đặt câu hỏi “Vì sao” cho trẻ, kích

thích tư duy của trẻ và cùng giải quyết vấn đề với trẻ.

14

Chủ đề