Án tử hình bao lâu thi thi hành

Ngày 19/11, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật Thi hành án Hình sự (sửa đổi). Một số ý kiến cho rằng, do một số bất cập nên đã dẫn đến việc thi hành án tử kéo dài, có tử tù muốn thi hành án ngay nhưng lại không được xem xét, giải quyết.

Cán bộ trại giam áp lực

ĐB Bế Minh Đức, Phó trưởng đoàn chuyên trách đoàn ĐBQH tỉnh Cao Bằng đề cập những quy định liên quan đến thi hành án tử hình và cho biết đã nhận được các ý kiến của cử tri là cán bộ quản giáo, cán bộ trại tạm giam bày tỏ những khó khăn trong công tác quản lý người bị kết án tử hình. Ông Đức phân tích, thời gian giam giữ người bị kết án tử hình kéo dài gây áp lực cho đơn vị quản lý, trại tạm giam. Đặc biệt, số cán bộ quản giáo hàng ngày vào buồng giam tiếp xúc bị án, không ít bị án có hành động chống đối, bất hợp tác. Có bị án đã viết đơn xin tha tội chết gửi Chủ tịch nước, xin ân xá, tuy nhiên thời gian kéo dài từ một đến vài năm vẫn không được trả lời. Có bị án viết đơn xin thi hành án ngay nhưng không được xem xét, giải quyết, gây tư tưởng hoang mang, bi quan, chán nản, chống phá.

Một bất cập khác được ông Đức chỉ ra là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa quy định thời hạn ra quyết định ân giảm cũng như thời hạn Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng VKSND Tối cao phải gửi ý kiến của mình về việc xin ân giảm án tử hình của người bị kết án lên Chủ tịch nước, khiến các bản án tử hình chậm được thi hành, có nhiều trường hợp kéo dài. Vì vậy, ông Đức đề nghị phải quy định cụ thể thời gian từ khi nhận đơn và trả lời đơn xin ân giảm là bao nhiêu ngày.

Nữ ĐBQH tỉnh Nghệ An Hoàng Thị Thu Trang cũng nêu lên bất cập này và cho biết thực tế, nhiều người bị kết án tử hình có đơn xin ân giảm nhưng chưa nhận được quyết định bác hay không bác của người có thẩm quyền nên cơ quan thi hành án hình sự không dám thi hành, mà người bị kết án cũng trong tình trạng “chờ chết”. Vì vậy, theo bà Trang, cần có giải pháp để tháo gỡ vướng mắc nêu trên theo hướng quy định trong vòng khoảng thời gian nhất định, ví dụ từ 3-5 tháng, nếu không nhận được quyết định ân giảm thì sẽ tổ chức thi hành án tử hình.

ĐB Sùng A Hồng (Điện Biên) chia sẻ thực tế, công tác giam giữ các bị án tử hình rất khó khăn, quá tải vì giam các bị án này phải trong điều kiện, môi trường khác so với các bị can, bị cáo bị án khác. Nhiều bị án xin được chết mà không được chết... dẫn đến giam kéo dài nhiều năm, thậm chí có trường hợp cả chục năm mà không có lý do. Vì thế, ông cũng đề nghị nên quy định thời gian vào luật để không có những vấn đề bất cập như trên. Đồng thời cũng đảm bảo tính pháp lý chứ không tùy nghi như hiện nay về thi hành án tử hình.

Đưa phạm nhân ra ngoài lao động, nên không?

Liên quan đến quy định về tổ chức khu sản xuất, điểm lao động và tổ chức dạy nghề ngoài trại giam, ĐB Mai Thị Phương Hoa (Nam Định) cho rằng, việc này là cần thiết bởi khi phạm nhân có điều kiện làm quen công việc lao động sản xuất gần môi trường ngoài xã hội thì sau khi họ ra tù, họ sẽ tiếp cận tốt hơn với việc làm, sớm tái hòa nhập cộng đồng, giảm bớt sự mặc cảm và tự ti. Đồng thời, việc này còn giúp cải thiện cho chính cuộc sống của phạm nhân.

Nhưng bà Hoa cũng lưu ý không nên áp dụng đại trà mà chỉ nên áp dụng với phạm nhân sắp mãn hạn tù và có ý thức cải tạo tốt, còn trong độ tuổi lao động và có sức khỏe. Bên cạnh đó, không áp dụng với phạm nhân phạm tội nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng và thuộc tội như buôn bán ma túy, giết người, cướp tài sản và phạm nhân cải tạo kém. Cùng với đó, phạm nhân phải được trả thù lao, được ký hợp đồng lao động và bảo đảm an toàn, có sự quản lý giám sát chặt của cán bộ quản giáo.

ĐB Nguyễn Thị Lệ Thủy (Bến Tre) lại băn khoăn vì cho rằng, mục đích của hình phạt là nhằm trừng trị để răn đe, đảm bảo công bằng xã hội. Hành vi và những diễn biến tâm lý phức tạp của phạm nhân sẽ tạo tâm lý lo âu, bất ổn, phải đề phòng của người dân sinh sống và lao động ở khu vực gần trại giam. Hơn nữa, điều này cũng chưa có tiền lệ, chưa được đánh giá tác động xã hội một cách chi tiết.

ĐB Bùi Quốc Phòng (Thái Bình), ĐB Nguyễn Tạo (Lâm Đồng) thì đánh giá việc này không phù hợp với mục đích, quy trình tiềm ẩn rủi ro, nguy cơ phạm nhân trốn trại rất cao, không bảo đảm an ninh, an toàn trong việc quản lý phạm nhân, có thể phát sinh ra nhiều vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự trong khu vực. Do đó, đề nghị cần đánh giá đầy đủ về tác động và làm rõ những tiêu chí, điều kiện cụ thể, tính khả thi của việc này.

Xin ý kiến ĐBQH về thời gian thông qua Luật

Tại phiên thảo luận, nhiều ĐBQH đề nghị thông qua dự án Luật này trong 3 kỳ họp.

Giải trình làm rõ ý kiến của các ĐBQH, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm cho rằng, dự án Luật này nhằm cụ thể hóa các quy định liên quan đến quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013. Đồng thời, khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và đặc biệt đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với các đạo luật tư pháp đã được ban hành. Bộ trưởng Bộ Công an đề nghị Quốc hội sớm thông qua luật này trong 2 kỳ họp.

Kết luận phiên thảo luận, Phó chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu cho biết, đa số ý kiến ĐBQH phát biểu trong phiên thảo luận muốn Quốc hội thông qua tại ba kỳ họp để tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng của dự án luật này. Tuy nhiên, Bộ trưởng Tô Lâm cũng đã báo cáo, giải trình rất rõ về những căn cứ, lý do để đề nghị Quốc hội thông qua tại hai kỳ họp. Vì còn ý kiến khác nhau nên theo Phó chủ tịch Uông Chu Lưu, Quốc hội sẽ gửi phiếu thăm dò ý kiến của các ĐBQH theo hai phương án.

Quốc hội thông qua 5 dự án Luật

Chiều cùng ngày, với 92,99% tổng số ĐBQH biểu quyết tán thành, Quốc hội chính thức thông qua dự án Luật Đặc xá (sửa đổi). Luật gồm 6 chương, 39 điều và có hiệu lực từ 1/7/2019.

Trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga cho biết, có ý kiến nêu thời gian qua có phạm nhân chấp hành án nghiêm túc, có ý thức chấp hành tốt nội quy của trại giam nhưng do vẫn viết đơn kêu oan nên không được xác nhận là có ý thức cải tạo tốt để được xét đặc xá. Dù luật không quy định nội dung này, nhưng Thông tư 06 của Bộ Công an hướng dẫn một trong những tiêu chuẩn để được xếp loại cải tạo khá hoặc tốt là “phải nhận rõ tội lỗi, ăn năn hối cải…”. Theo bà Nga, để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án phạt tù, thực hiện đúng chính sách của Nhà nước về đặc xá, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Bộ Công an sớm rà soát, xem xét lại quy định này.

Cũng trong chiều 19/11, với đại đa số ĐBQH biểu quyết tán thành, Quốc hội thông qua các Luật gồm: Luật Trồng trọt, Luật Chăn nuôi, Luật Cảnh sát biển và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học.

Với việc thông qua Luật Cảnh sát biển, Quốc hội chính thức công nhận Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân, lực lượng chuyên trách của Nhà nước, làm nòng cốt thực thi pháp luật và bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển.

Thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi thi hành được quy định tại Điều 367 BLTTHS. Theo đó, sau khi bản án tử hình có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án phải được gửi ngay cho Chánh án TANDTC; bản án phải gửi ngay cho Viện trưởng VKSNDTC. Hai chủ thể này sẽ tiến hành xem xét, quyết định kháng nghị hoặc không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm trong thời hạn 2 tháng. Đồng thời, trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước.

Về thủ tục gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước, chúng tôi nhận thấy có một số vướng mắc, bất cập như sau:

Thứ nhất, luật không quy định thời hạn xét đơn ân giảm của Chủ tịch nước trong trường hợp người bị kết án có đơn xin ân giảm. Theo đó, luật chỉ quy định thời hạn người bị kết án gửi đơn xin ân giảm cho Chủ tịch nước và Chủ tịch nước xem xét quyết định ân giảm hay bác đơn xin ân giảm. Đồng thời, thủ tục thi hành án còn có thời hạn tiến hành, nhưng luật không quy định thời hạn xem xét đơn xin ân giảm. Nếu hết thời hạn xem xét kháng nghị mà Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC không kháng nghị mà Chủ tịch nước chưa có quyết định về việc xem xét đơn xin ân giảm thì thủ tục thi hành án tử hình cũng không được thi hành.

Thứ hai, trường hợp bản án tử hình bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm mà Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án tử hình thì TANDTC phải thông báo ngay cho người bị kết án để làm đơn xin ân giảm. Vậy, thông báo ngay được hiểu như thế nào? Một ngày, hai ngày hay ngay trong ngày có quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm? Như vậy, luật còn bỏ ngỏ quy định này dẫn đến khó khăn trong khi thi hành trên thực tế.

Đồng thời, quy định giữa điểm d và đ khoản 1 Điều 367 có sự mâu thuẫn với nhau. Điểm d quy định: “Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước”. Điều này có nghĩa, ngoài thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực, người bị kết án không còn quyền này. Nhưng điểm đ lại quy định: “Trường hợp… phải thông báo ngay cho người bị kết án biết để họ làm đơn xin ân giảm”. Trường hợp này, thông thường đã quá thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực nhưng người bị kết án vẫn có quyền gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước.

Theo chúng tôi, cần phải thống nhất quy định về việc một số điều luật quy định thời hạn dùng từ “ngay”. Điều 147, 148 BLDS 2015 quy định:

“1. Khi thời hạn được xác định bằng phút, giờ thì thời hạn được bắt đầu từ thời điểm đã xác định.

2. Khi thời hạn được xác định bằng ngày, tuần, tháng, năm thì ngày đầu tiên của thời hạn không được tính mà tính từ ngày tiếp theo liền kề ngày được xác định.” Và “Khi ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó.”

Như vậy, từ “ngay” ở đây có thể được hiểu là chậm nhất là ngày tiếp theo của thời điểm có quyết định không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án tử hình nếu ngày tiếp theo là ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó.

Thứ ba, kết cấu của điều luật, nội dung các khoản trong điều luật còn chưa hợp lý, chưa chặt chẽ. Ngoài trường hợp mâu thuẫn giữa điểm d và điểm đ như đã phân tích ở trên; nội dung về điều kiện bản án tử hình được thi hành tại điểm đ và điểm e cũng chưa có sự phù hợp. Điểm đ quy định rằng: “Bản án tử hình được thi hành nếu Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm và người bị kết án không có đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước”. Như vậy, theo quy định này thì bản án tử hình được thi hành nếu đồng thời thỏa mãn điều kiện, một là không bị kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm; hai là không có đơn xin ân giảm. Tiếp theo điểm e điều này cũng quy định về trường hợp thi hành bản án tử hình: “Trường hợp người bị kết án có đơn xin ân giảm … thì bản án tử hình được thi hành sau khi Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm”. Về bản chất, hai quy định trên đã hợp lý, tuy nhiên, việc quy định hai trường hợp trong cùng một nội dung ở hai khoản khác nhau dễ khiến người đọc hiểu đây là hai trường hợp riêng và trường hợp thứ 2 dễ bị hiểu rằng chỉ cần Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm là có thể thi hành ngay bản án tử hình.

Thứ tư, điểm c khoản 1 Điều 367 BLTTHS 2015 quy định: “Trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị hoặc quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm”. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 400 BLTTHS 2015 thì Chánh án TANDTC không phải là chủ thể có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Nên khi xác định có căn cứ để kháng nghị tái thẩm thì Chánh án TANDTC phải đề nghị Viện trưởng VKSNDTC kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Do đó, cần phải sửa đổi điểm c khoản 1 Điều 367 theo hướng thống nhất với Điều 400.

Thứ năm, thời hạn để Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC xem xét quyết định kháng nghị hay không kháng nghị là 2 tháng. Trong thời gian đó, nếu đã ra quyết định kháng nghị hoặc quyết định không kháng nghị thì các chủ thể này có quyền thay đổi hay không? Hiện nay, luật chưa có quy định về vấn đề này nhưng trên thực tế đã có trường hợp rút quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm? Do đó, để tạo tính pháp lý cho hoạt động này, cần bổ sung quy định có liên quan.

Do đó, đề xuất sửa đổi quy định tại Điều 367 BLTTHS như sau:

Điều 367. Thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi thi hành

1. Thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi thi hành được thực hiện:

a) Sau khi bản án tử hình có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án phải được gửi ngay cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và bản án phải được gửi ngay cho Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

b) Sau khi đã xem xét hồ sơ vụ án để quyết định kháng nghị hoặc quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, Tòa án nhân dân tối cao phải chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải trả lại hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tối cao;

c) Trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị hoặc không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Nếu có căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm thì Chánh án TANDTC phải có văn bản đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị hoặc quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

d) Quyết định kháng nghị, quyết định không kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có thể thay đổi bằng cách quyết định rút lại quyết định đã ban hành và ban hành quyết định thay thế.

e) Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc ngày nhận được thông báo về việc không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án tử hình, người bị kết án được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước. Trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày nhận được đơn xin ân giảm, Chủ tịch nước phải ra quyết định ân giảm hoặc quyết định bác đơn xin ân giảm án tử hình.

2. Bản án tử hình được thi hành trong các trường hợp sau đây:

a) Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm và người bị kết án không có đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước hoặc Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm án tử hình.

b) Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm Tòa án nhân dân tối cao không chấp nhận kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, giữ nguyên bản án tử hình và người bị kết án không có đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước hoặc Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm án tử hình.

3. Khi có căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 40 của Bộ luật Hình sự thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm không ra quyết định thi hành án tử hình và báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để xem xét chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân cho người bị kết án”./.

Hội đồng thi hành án tỉnh Bình Phước tổ chức thi hành án tử hình bằng biện pháp tiêm thuốc đối với một tử tù - Ảnh Công an cung cấp

Video liên quan

Chủ đề