Ảnh hưởng đến trạng thái ngoại hối của ngân hàng

Ngân hàng Nhà nước đang tổ chức lấy ý kiến về chính sách giảm trạng thái ngoại hối của mọi tổ chức tín dụng xuống mức 20% vốn tự có. Thay đổi này cần được đưa ra do sẽ mang lại nhiều lợi ích như: giúp kiểm soát tình trạng đầu cơ ngoại tệ; hỗ trợ phát hành trái phiếu Chính phủ; khuyến khích tập đoàn, tổng công ty bán lại ngoại tệ cho ngân hàng…

Ngân hàng Nhà nước vừa công bố dự thảo Thông tư quy định về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Theo đó, tổng trạng thái ngoại tệ dương cuối ngày của các tổ chức tín dụng không được vượt quá 20% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Tổng trạng thái ngoại tệ âm cuối ngày của các tổ chức tín dụng không được vượt quá 20% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam có vốn tự có từ 25 triệu USD trở xuống được phép áp dụng mức giới hạn tổng trạng thái ngoại tệ dương cuối ngày quy ra USD không được vượt quá 5 triệu USD; tổng trạng thái ngoại tệ âm cuối ngày quy ra USD không được vượt quá 5 triệu USD. Thay đổi này được đưa ra để buộc tổ chức tín dụng phải bán ngoại tệ nhiều hơn cho Ngân hàng Nhà nước. Đồng thời, góp phần kiểm soát tình trạng đầu cơ ngoại tệ của ngân hàng khi thị trường có biến động.

Nhiều ý kiến cho rằng, việc giảm trạng thái ngoại hối của tổ chức tín dụng cần sớm thực hiện. Bởi quy định về trạng thái ngoại hối chỉ phù hợp với quy mô vốn tự có của ngân hàng dưới 1.000 tỷ đồng. Khi đó lượng ngoại tệ ở lại ngân hàng thương mại không quá lớn để có thể tác động đến thị trường, cũng như hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp. Nhưng hiện nay vốn tự có của ngân hàng đã cao hơn nhiều lần so với thời điểm ban hành chính sách này. Vì thế, một số ngân hàng thương mại đã lợi dụng chính sách để găm giữ ngoại tệ trong tình huống căng thẳng cung – cầu, và sẵn sàng bán ra mạnh trên thị trường khiến ngoại hối âm để thu lợi khi giá ngoại tệ ở mức cao. Bởi ngân hàng thương mại có thể kiến nghị Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ bổ sung ngoại tệ cho mình. 

Đồng thời, giảm trạng thái ngoại hối cũng là bước hỗ trợ cho việc kết hối của các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước từ ngày 1.7. Mức ngoại hối được dự trữ thấp thì ngân hàng không thể găm giữ lượng ngoại tệ được doanh nghiệp bán lại như trước đây. Do đó, tập đoàn, tổng công ty có thể yên tâm thực hiện theo Thông tư số 13 của Ngân hàng Nhà nước. Doanh nghiệp sẽ không cần áp dụng thỏa thuận ngầm với ngân hàng thương mại để được đáp ứng đủ nhu cầu ngoại tệ trong giai đoạn cuối năm. 

Việc giảm trạng thái ngoại hối cũng giúp Ngân hàng Nhà nước tăng mua ngoại tệ để nâng quy mô quỹ dự trữ ngoại hối. Khi nền tảng ngoại tệ ổn định, giá trị tiền đồng được khôi phục sẽ giúp tăng niềm tin đối với các nhà đầu tư nước ngoài, và hỗ trợ cho quá trình phát hành trái phiếu Chính phủ ra bên ngoài. Hiện nay, do ảnh hưởng của bất ổn kinh tế vĩ mô trong thời gian qua, các nhà đầu tư nước ngoài đòi hỏi mức tỷ suất lợi nhuận cao với trái phiếu của Việt Nam. Mức phí rủi ro với một số khoản vay của nước ta cũng được nâng lên. Điều này gây khó khăn cho quá trình phát hành trái phiếu Chính phủ ra bên ngoài, để bổ sung nguồn vốn thực hiện các dự án, chương trình quan trọng của nước ta.

Nếu quy định giảm tình trạng ngoại hối của tổ chức tín dụng được ban hành sẽ góp phần củng cố thêm niềm tin ổn định tỷ giá trong xã hội. Chính sách và biện pháp điều hành tỷ giá sẽ không chạy theo tình thế, mà tác động toàn diện và phối hợp nhuần nhuyễn với nhau. Và ổn định tỷ giá đã tác động tích cực tới phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong thời gian qua. Trước hết là giúp tăng sức thu hút với nguồn vốn đầu tư gián tiếp. Bởi từ năm 2007 đến nay, việc liên tục điều chỉnh tỷ giá theo hướng đồng nội tệ mất giá với USD đã khiến giá trị tài sản của các quỹ đầu tư giảm theo, không thu hút nhà đầu tư nước ngoài. Tỷ giá ổn định đã giúp các quỹ đầu tư bước đầu phục hồi. Khi nguồn vốn gián tiếp tăng cũng có nghĩa là thị trường chứng khoán đã nhận được một lực đỡ trong dài hạn. Hiện nay, các chỉ số Vn – Index và HN- Index tăng điểm chủ yếu do trong phiên giao dịch khối ngoại tham gia chuyển nhượng cổ phiếu nhiều. Còn nhà đầu tư trong nước không đủ tiềm lực tài chính nên thường nhìn theo khối ngoại để tiến hành giao dịch.

Lê Bình

Trong bối cảnh tín dụng tăng trưởng chậm do ảnh hưởng của dịch Covid-19, ngành ngân hàng phải đa dạng hóa nguồn thu và kinh doanh ngoại hối đang trở thành điểm sáng với mức tăng trưởng có thể được tính bằng lần.

LÃI LỚN TRONG 9 THÁNG ĐẦU NĂM

Mảng kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng thường được gắn với hoạt động mua bán ngoại tệ giao ngay, tức nguồn thu nhập đến từ chênh lệch giữa giá mua vào và giá bán ra. Vào những năm tỷ giá biến động càng mạnh, càng nhiều đợt thì năm đó các ngân hàng thường có lợi nhuận lớn ở mảng kinh doanh này, và ngược lại.

Tuy nhiên năm nay lại có sự khác biệt lớn. Tỷ giá trong quãng thời gian dài khá ổn định, duy trì giao dịch quanh mức 23.090 – 23.270 VND/USD (mua vào – bán ra) nhưng hầu hết mảng kinh doanh ngoại hối tại các ngân hàng đều tăng trưởng mạnh.

Trong đó, TPBank là một trong những ngân hàng tăng mạnh nhất, từ 25 tỷ đồng (9 tháng năm 2019) lên 142 tỷ đồng (9 tháng năm 2020), tương đương tăng hơn 5,6 lần.

Tương tự, SeABank cũng ghi nhận lợi nhuận kinh doanh ngoại hối tăng đột biến từ 15 tỷ lên 49 tỷ đồng, tương đương tăng trưởng hơn 3,2 lần. Tại NamABank, lợi nhuận từ mảng này cũng tăng vọt lên 51 tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm so với mức chỉ 19 tỷ đồng cùng kỳ.

Thu nhập hoạt động ngoại hối 9 tháng của các ngân hàng. Đơn vị: tỷ đồng/%. Nguồn: NDH.

Các ngân hàng khác như MSB, SHB cũng ghi nhận lợi nhuận mảng kinh doanh ngoại hối tăng trưởng trên 100% trong kỳ qua, ở mức lần lượt 134% và 131,6%. ACB và VPB tăng 36-56%...

Nếu xét về giá trị tuyệt đối, Vietcombank vẫn là ngân hàng dẫn đầu với lợi nhuận 2.963 tỷ đồng, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 8,6% tổng thu nhập hoạt động.

Xếp tiếp sau là VietinBank với 1.514 tỷ đồng, tăng trưởng 27,3%, đóng góp 4,7% tổng thu nhập; BIDV với 1.254 tỷ đồng, tăng trưởng 28%, đóng góp 4,7% tổng thu nhập.

Ngược lại, vẫn có một số ngân hàng trước kia có sự tăng trưởng lợi nhuận đứng trong nhóm dẫn đầu thì nay đã "rớt" xuống nhóm cuối, thậm chí còn nhận về kết quả tăng trưởng âm.

Có thể kế đến như VPBank trong 9 tháng đầu năm ghi nhận hoạt động kinh doanh ngoại hối bị lỗ 220 tỷ đồng; VIB  lỗ 6,8 tỷ đồng và BacABank lỗ 6,2 tỷ đồng.

Dù vậy, VIB và BacABank đã có lãi tăng mạnh trong quý 3/2020 lần lượt ghi nhận lãi 21 tỷ đồng (so với cùng kỳ lỗ 28,6 tỷ đồng) và 7,4 tỷ đồng (so với cùng kỳ lỗ 4,2 tỷ đồng).

Theo giới chuyên môn phân tích, chênh lệch giá mua bán trong 9 tháng đầu năm 2020 rộng hơn cùng kỳ năm trước đã giúp các ngân hàng đạt được biên lợi nhuận cao hơn trong mỗi giao dịch.

Trong 9 tháng đầu năm, chênh giá mua - bán được doãng rộng lên tới khoảng 200 VND, thay vì chỉ chênh 90 - 120 VND cùng kỳ năm trước; hoặc lùi về nhiều năm trước chênh lệch này chỉ khoảng 70 - 80 VND, do đó biên lợi nhuận ngân hàng cũng tăng cao.

TRANH THỦ KIẾM LỜI QUÝ CUỐI NĂM

Sang đến quý 4/2020, diễn biến tỷ giá vẫn ổn định ở vùng thấp trong bối cảnh đồng USD liên tục suy yếu và nguồn cung ngoại tệ dồi dào.

Cụ thể, tổng số ca nhiễm Covid-19 toàn cầu đã lên gần 59 triệu ca trong đó chỉ một số nước Châu Âu (Pháp, Đức) có tín hiệu giảm tốc còn hầu hết các nước vẫn đang tăng rất mạnh, trầm trọng nhất là Mỹ, Ấn Độ. Tâm lý thị trường chỉ được hỗ trợ tương đối bởi các thông tin tích cực về vắc xin, những liều vắc xin đầu tiên của Mỹ có thể bắt đầu từ giữa tháng 12/2020. USD giảm giá so với các đồng tiền khác.

Đồng thời, Tổng cục Hải quan công bố thặng dư thương mại tháng 10 ở mức 2.94 tỷ USD, cao hơn so với mức ước tính 2.2 tỷ USD của Tổng cục Thống kê đưa ra trước đó, tổng thặng dư thương mại 10 tháng được đưa lên mức kỷ lục mới là gần 20 tỷ USD.

Theo đó, tỷ giá niêm yết của các ngân hàng thương mại tuần qua giữ ở mức 23.055 VND (mua vào) và 23.265 VND (bán ra). Mức chênh lệch mua vào và bán ra duy trì 210 VND vẫn giúp các ngân hàng kiếm lời.

Diễn biến các tỷ giá điều hành của Ngân hàng Nhà nước.

Ở khía cạnh khác, thông thường, trạng thái ngoại tệ của các ngân hàng thương mại luôn được giữ ở mức cân bằng, khoảng 5% vốn tự có. Trong trường hợp vượt mức sẽ được bán sang Ngân hàng Nhà nước để tiếp tục giữ trạng thái cân bằng.

Đáng chú ý, tỷ giá mua vào của Ngân hàng Nhà nước đã giữ nguyên ở mức 23.175 VND/USD từ đầu năm đến nay, duy trì mức cao hơn tỷ giá mua vào của ngân hàng thương mại 100-120 VND/USD trong 5 tháng gần đây. Vì vậy, hầu hết các ngân hàng đang dư thừa ngoại tệ đều sẽ bán cho Ngân hàng Nhà nước để kiếm chênh lệch.

Thực tế cũng cho thấy, riêng trong tuần từ 9/11 đến 13/11, Ngân hàng Nhà nước đã mua vào một lượng lớn ngoại tệ từ ngân hàng thương mại, tương đương khoảng 30.000 tỷ đồng. Thậm chí, tuần liền sau đó hoạt động mua vào của nhà điều hành vẫn tiếp diễn. Dự trữ ngoại hối theo tính toán hiện tại đã tăng lên quanh mức 95-96 tỷ USD, tương đương 4,2 tháng nhập khẩu.

Tuy nhiên, trong bối cảnh nguồn cung ngoại tệ khá thuận lợi và mục tiêu đạt 100 tỷ USD dự trữ ngoại hối sắp hoàn thành nhiều khả năng Ngân hàng Nhà nước sẽ xem xét hạ tỷ giá mua vào.

“Đây có thể là một phần lý do khiến các ngân hàng thương mại đẩy mạnh bán ngoại tệ về Ngân hàng Nhà nước trong thời gian gần đây”, nhóm nghiên cứu tại Công ty chứng khoán SSI đánh giá.

Theo chuyên gia tài chính Nguyễn Trí Hiếu, hoạt động mua-bán ngoại tệ được áp dụng theo cơ chế thị trường, các ngân hàng phải thận trọng theo dõi sát diễn biến điều hành tỷ giá của cơ quan quản lý để có những điều chỉnh hợp lý.

Video liên quan

Chủ đề