Các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước

Mục lục bài viết

  • 1. Khái niệm quyền lực Nhà nước
  • 2. Khái niệm kiểm soát quyền lực nhà nước
  • 3. Quan điểm của V.I.Lênin về kiểm soát quyền lực nhà nước
  • 4. Các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trên thế giới
  • 5. Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay

1. Khái niệm quyền lực Nhà nước

Quyền lực nhà nước là quyền lực gắn liền với sự ra đời của nhà nước, theo đó nhà nước được áp dặt ý chí và buộc những chủ thể khác trong xã hội phải phục tùng mệnh lệnh của mình nhằm đảm bảo an ninh, duy trì trật tự xã hội.

Quyền lực Nhà nước lớn mạnh đến đâu còn phụ thuộc vào sức mạnh vũ trang, kinh tế, uy tín,… của chính nhà nước đó trong xã hội.

Tại Việt Nam, nhà nước được hiểu là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội. Bao gồm một lớp người được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi quyền lực, nhằm tổ chức và quản lý xã hội, phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền trong xã hội.

Đây cũng là một trong những đặc trưng của nhà nước.

Quyền lực nhà nước tồn tại trong mối quan hệ giữa nhà nước với chủ thể còn lại trong xã hội. Trong đó, nhà nước là chủ thể quyền lực, các cá nhân, tổ chức còn lại là đối tượng của quyền lực ấy, và họ phải phục tùng ý chí của nhà nước. Quyền lực nhà nước cũng hiện diện trong mối quan hệ giữa các thành viên cũng như các cơ quan của nó. Các thành viên phải phục tùng tổ chức, cấp dưới phục tùng cấp trên.

2. Khái niệm kiểm soát quyền lực nhà nước

Kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ hoạt động xem xét, theo dõi, đánh giá để ngăn chặn, loại bỏ những nguy cơ, những hành vi, những việc làm sai trái của các chủ thể (gồm cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước) trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước bảo đảm cho quyền lực nhà nước được sử dụng và thực hiện theo Hiến pháp và pháp luật.

3. Quan điểm của V.I.Lênin về kiểm soát quyền lực nhà nước

Quan điểm của V.I.Lênin về kiểm soát quyền lực nhà nước được thể hiện khá toàn diện cả về sự cần thiết của việc kiểm soát quyền lực nhà nước và những phương thức, điều kiện cụ thể để đảm bảo kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả.

Thứ nhất, quan điểm của V.I.Lênin về sự cần thiết phải thực hiện kiểm soát quyền lực của bộ máy nhà nước.

Qua thực tiễn lãnh đạo trong nhà nước Xô viết, V.I.Lênin đã thấy được nguy cơ tha hóa quyền lực nhà nước ngay cả trong thời kỳ xây dựng nhà nước XHCN. Quyền lực nhà nước là do nhân dân ủy quyền nhưng những người được ủy quyền vẫn có nguy cơ chiếm quyền, lạm quyền, lộng quyền, không thực hiện đúng nhiệm vụ được giao, bộ máy nhà nước trở thành thiết chế đứng ngoài và đứng trên nhân dân. Nguyên nhân của sự tha hóa quyền lực do hoàn cảnh tư bản chủ nghĩa vẫn còn tồn tại, sở hữu tư nhân và những nhu cầu tư lợi cá nhân vẫn tồn tại, trình độ dân trí thấp chưa đủ sức kiểm soát quyền lực nhà nước... Ông nói rằng “Trong các tổ chức chính trị và công đoàn của chúng ta, viên chức bị hủ hóa (hay nói đúng hơn là có xu hướng bị hủ hóa) bởi hoàn cảnh tư bản chủ nghĩa; họ có xu hướng biến thành những người quan liêu, nghĩa là thành những nhân vật có đặc quyền, thoát ly quần chúng và đứng trên quần chúng”. Vì vậy, để hạn chế sự tha hóa quyền lực của viên chức nhà nước, đảm bảo cho quyền lực nhà nước được thực hiện có hiệu quả, V.I.Lênin chỉ ra yêu cầu phải thiết lập được cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.

Thứ hai, quan điểm của V.I.Lênin về thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài và bên trong bộ máy nhà nước.

Trong cơ chế kiểm soát quyền lực từ bên ngoài bộ máy nhà nước, V.I.Lênin nhấn mạnh đến việc nhân dân tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước. Người dân sau khi đã ủy quyền cho cơ quan nhà nước thì vẫn phải có quyền kiểm soát bộ máy nhà nước đó để không bị mất quyền, lạm quyền. Các cơ quan nhà nước phải luôn giữ mối liên hệ với nhân dân, chịu sự kiểm soát của nhân dân để không trở thành quan liêu, thành bộ máy đứng trên nhân dân. Nhân dân có quyền kiểm soát quyền lực nhà nước trước hết phải có quyền lựa chọn người đại diện thực sự xứng đáng để họ tin cậy ủy quyền cho mình. Thể hiện ở việc quần chúng phải có quyền được đề bạt trong nội bộ của họ bất kỳ một công nhân nào lên phụ trách chức vụ lãnh đạo. Tuy nhiên, quyền bầu cử lựa chọn những người đại diện cho mình chỉ thực sự có ý nghĩa khi gắn quyền đó với quyền bãi miễn những đại biểu mà họ thấy không còn xứng đáng, không còn là đại diện thực sự cho lợi ích và nguyện vọng của họ nữa. Ông cho rằng: “Mọi cơ quan được bầu ra hay hội nghị đại biểu đều có thể coi là có tính chất dân chủ chân chính và đại biểu thực sự cho ý chí của nhân dân khi nào quyền bãi miễn của cử tri đối với những người trúng cử được thừa nhận và áp dụng”. Để đảm bảo cho những thủ tục đó dễ dàng thực hiện thì nhân dân phải là người trực tiếp quyết định các thể thức, quy trình thực hiện quyền bầu cử và bãi miễn. Để nhân dân có thể thực hiện quyền bầu cử và bãi miễn những đại biểu của mình thì vấn đề quan trọng là nhân dân phải kiểm soát được hoạt động của những người đại diện cho mình. Không kiểm soát được hoạt động của các cán bộ, nhân viên nhà nước, không biết họ có hoạt động thực sự đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân hay không thì không thực hiện đúng đắn quyền bầu cử và bãi miễn.

Để kiểm soát được hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước, theo V.I.Lênin phải thành lập những cơ quan thanh tra chuyên theo dõi, giám sát hoạt động của đội ngũ này. Những cơ quan thanh tra này có thể là tổ chức thanh tra của quần chúng. Như vậy, nhân dân có quyền kiểm soát mọi hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước - những người đại diện cho ý chí và quyền lực của họ để đảm bảo cho hoạt động đó là đúng với chức năng, nhiệm vụ mà họ đã ủy quyền, tránh lạm quyền, lộng quyền là một nội dung quan trọng trong cơ chế nhân dân tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước.

Hoạt động cơ bản của nhà nước là quản lý xã hội bằng pháp luật, ban hành khung khổ pháp luật, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện pháp luật đó đảm bảo mọi hoạt động của xã hội đều trong khuôn khổ đó. Vì vậy, theo V.I.Lênin, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là kiểm soát mọi hoạt động của nhà nước, kiểm soát không chỉ những cơ quan dân cử do nhân dân bầu ra mà kiểm soát tất cả các cơ quan nhà nước. Trong đó có, nguyên tắc dân chủ về tổ chức - dưới hình thức cao nhất của nó, tức là việc các Xô viết thực hiện những đề nghị và những yêu cầu để cho quần chúng tích cực tham gia không những vào việc thảo luận những quy tắc, những quyết định và các đạo luật chung, không những tham gia vào việc kiểm tra việc chấp hành các quy tắc, quyết định và đạo luật đó mà còn trực tiếp tham gia thi hành chúng nữa.

V.I.Lênin không chỉ nói đến cơ chế kiểm soát quyền lực ở bên ngoài mà còn bàn về vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước trong nội bộ, giữa các nhánh quyền lực nhà nước với nhau. Ở đây, V.I.Lênin nói về việc các cơ quan tư pháp được quyền kiểm soát hoạt động ban hành các đạo luật, nghị quyết, quyết định hành chính của các cơ quan dân cử (Quốc hội, hội đồng nhân dân ở địa phương) và cơ quan hành pháp. Ủy viên công tố chịu trách nhiệm làm sao cho bất cứ quyết định nào của bất cứ cơ quan hành chính địa phương nào cũng không được đi ngược lại pháp luật, Thông qua cơ chế này, cơ quan công tố có thẩm quyền kiểm tra, giám sát hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các quyết định hành chính của các cơ quan nhà nước khác, bao gồm cả cơ quan thuộc nhánh lập pháp và hành pháp. Đây chính là cơ chế kiểm soát quyền lực của nhánh tư pháp đối với lập pháp và hành pháp. Như vậy, V.I.Lênin đã đưa ra định hướng là giữa các cơ quan nhà nước cần có sự kiểm soát quyền lực lẫn nhau, nhưng ở đây mới chỉ nói đến cơ quan tư pháp kiểm soát hoạt động của cơ quan hành pháp, lập pháp; còn cơ chế kiểm soát của cơ quan lập pháp và hành pháp đối với cơ quan tư pháp thì chưa được chỉ ra cụ thể.

Thứ ba, quan điểm của V.I.Lênin về điều kiện đề đảm bảo tính hiệu lực trong kiểm soát quyền lực nhà nước.

V.I.Lênin không chỉ đề cập đến các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bao gồm cơ chế kiểm soát bên trong và bên ngoài mà còn đưa ra những yêu cầu, điều kiện đề đảm bảo tính hiệu lực trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Đó là đảm bảo tính độc lập, đủ quyền lực của các chủ thể kiểm soát đối với các đối tượng kiểm soát. Để đảm bảo tính độc lập đó theo V.I.Lênin trước hết phải có sự phân công quyền lực, giao nhiệm vụ một cách độc lập, rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước. Nếu cơ quan tư pháp lại thực hiện những nhiệm vụ hành chính thì không thể kiểm soát các cơ quan hành chính được.

4. Các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trên thế giới

Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là một tập hợp các quy định, luật lệ do các chủ thể quyền lực đưa ra nhằm bảo đảm quyền lực được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Có thể kể đến ba cơ chế chính trong kiểm soát quyền lực nhà nước hiện nay là: Sự tự kiểm soát của người cầm quyền; sự kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước; sự kiểm soát của xã hội.

Sự tự kiểm soát của người cầm quyềnlà cơ chế tự kiểm soát của chính những người nắm giữ quyền lực nhà nước. Hiệu quả của cơ chế này phụ thuộc vào một số yếu tố, như nền tảng văn hóa của người cầm quyền (khả năng thẩm thấu, nội tâm hóa các chuẩn mực, giá trị đạo đức của xã hội ở mỗi cá nhân); mức độ nhận thức của người cầm quyền về lương tâm, trách nhiệm... Tuy nhiên, sự tự kiểm soát này luôn chứa đựng những rủi ro và bị đánh giá thấp, mặc dù trên thực tế, có thể vẫn có cá nhân vượt qua được sự cám dỗ khi nắm giữ quyền lực nhà nước. T. Hobbes, nhà triết học người Pháp ở thế kỷ XVIII cho rằng, điều này khó có tính khả thi, cả về mặt lý thuyết lẫn thực tế, bởi vì “nếu như bạn bị giới hạn bởi chính bản thân mình, thì có nghĩa là bạn không bị giới hạn”. Thực tế cho thấy, khi có quá nhiều quyền lực trong tay, ngay cả người tốt cũng có thể lạm quyền.

Sự kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nướclà cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hệ thống thể chế nhằm ngăn chặn các hành động tùy tiện, ngẫu hứng, hoặc mang tính chủ quan của người cầm quyền, buộc họ phải đưa ra các quyết định phù hợp với hệ thống thể chế đã được thiết lập.

Để bảo đảm quyền lực nhà nước không thể bị lạm dụng, sử dụng sai mục đích, các quốc gia phương Tây đã áp dụng lý thuyết “tam quyền phân lập”, theo đó, các cơ quan nhà nước khác nhau sẽ được trao những thẩm quyền khác nhau nhằm tạo ra cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, trên thực tế, có sự khác biệt trong việc ứng dụng lý thuyết này cũng như sự khác nhau về tính hiệu quả của nó ở mỗi quốc gia. Điều đó tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, văn hóa chính trị và đặc biệt là sự thức tỉnh của “giới tinh hoa” ở mỗi quốc gia đó. Chẳng hạn, thể chế đại nghị kiểu Anh áp dụng mô hình phân quyền “mềm dẻo”; thể chế cộng hòa tổng thống kiểu Mỹ áp dụng mô hình phân quyền “cứng rắn”; thể chế cộng hòa bán tổng thống kiểu Pháp áp dụng mô hình phân quyền “hỗn hợp”. Dù được thiết kế theo mô hình nào, ý tưởng chủ đạo của các thể chế đó đều dựa trên nguyên lý: Dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực, dùng quyền cưỡng chế này để kiểm soát quyền cưỡng chế khác, khiến cho những người nắm giữ quyền lực công, dù vị kỷ hay tư lợi, cũng không thể lạm quyền.

Sự kiểm soát của xã hộilà cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía xã hội. Các chủ thể tham gia vào quá trình này có thể gồm các đảng chính trị, các tổ chức xã hội, các cơ quan báo chí và người dân…

5. Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Ở Việt Nam, xét về bản chất, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Việc thiết lập cơ chế kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan quyền lực nhà nước là cần thiết, nhằm ngăn chặn khả năng lạm quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích. Trong Hiến pháp năm 2013, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước đã được ghi nhận. Sự phân công và kiểm soát quyền lực được thể hiện ngay trong việc phân định phạm vi quyền lực đối với từng cơ quan nhà nước. Cụ thể, Quốc hội được trao quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và Tòa án nhân dân tối cao thực hiện quyền tư pháp.

Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, do nhân dân bầu ra, Quốc hội được trao thẩm quyền kiểm soát quyền lực của Chính phủ và Tòa án nhân dân tối cao, cụ thể như sau:

Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh quyền lực thuộc Chính phủ và Tòa án nhân dân tối cao: Theo quy định, sau cuộc bầu cử Quốc hội, Quốc hội sẽ họp và tiến hành bầu Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm các chức danh quyền lực thuộc Chính phủ và các thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao. Quốc hội còn có thể tước quyền đối với các chức danh quyền lực do mình bầu ra. Chẳng hạn, thông qua thủ tục bỏ phiếu bất tín nhiệm, Quốc hội có thể bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức danh quyền lực như Chủ tịch nước và Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng và các Phó Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ, nếu các chức danh quyền lực này không thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Quốc hội cũng có thể bãi nhiệm, miễn nhiệm Chánh án và các thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao.

Giám sát hoạt động của Chính phủ và Tòa án nhân dân tối cao: Quốc hội thực hiện sự giám sát đối với Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao thông qua các hình thức như xem xét báo cáo của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, đồng thời yêu cầu các chức danh này phải giải trình về các vấn đề mà Quốc hội quan tâm. Với tư cách là đại biểu dân cử, các đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng và các thành viên khác trong Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến các hoạt động của Chính phủ. Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội cũng giám sát việc thực thi quyền lực đối với cơ quan hành pháp trong phạm vi lĩnh vực mà mình phụ trách.

Bãi bỏ các quyết định của Chính phủ và Tòa án nhân dân tối cao: Để bảo đảm tính hợp hiến và hợp pháp của các văn bản pháp luật, Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao nếu các văn bản này trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội được trao thẩm quyền đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao nếu các văn bản này trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định bãi bỏ các văn bản này tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao nếu các văn bản này trái với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Nhìn chung, trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam, trung tâm của sự kiểm soát được đặt vào Chính phủ, cụ thể là sự kiểm soát của Quốc hội đối với Chính phủ. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 2013 vẫn tiếp tục duy trì một chế định vốn đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992, đó là trao cho Chủ tịch nước quyền "phủ quyết hạn chế" đối với cơ quan lập pháp. Theo đó, khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội đệ trình một pháp lệnh nào đó lên Chủ tịch nước công bố, nếu không đồng ý, Chủ tịch nước có quyền đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh đó trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Trong trường hợp pháp lệnh đó tiếp tục được Ủy ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết thông qua mà Chủ tịch nước vẫn không đồng ý, Chủ tịch nước sẽ trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất (khoản 1, Điều 88 Hiến pháp năm 2013). Tuy nhiên, quyền này của Chủ tịch nước không được áp dụng đối với các luật của Quốc hội. Do đó, đây có thể coi là quyền “phủ quyết hạn chế” của Chủ tịch nước đối với quyền lập pháp. Chủ tịch nước chỉ có thể trì hoãn một pháp lệnh, chứ không thể hủy bỏ văn bản này.

Đối với cơ quan tư pháp, Hiến pháp không trao cho Chính phủ bất kỳ quyền kiểm soát nào đối với hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao. Quy định này có sự tính toán, nhằm bảo đảm cho Tòa án có được vị thế độc lập, khách quan trong hoạt động xét xử.Tuy nhiên, Tòa án nhân dân tối cao cũng không có quyền kiểm soát đối với Quốc hội và Chính phủ.

Trên thực tế, Tòa án nhân dân tối cao không thực hiện chức năng bảo hiến (quyền phủ quyết đối với các văn bản quy phạm pháp luật, quyết định của Quốc hội và Chính phủ nếu chúng trái với Hiến pháp) cũng như giám sát hoạt động của hai cơ quan quyền lực này. Hệ thống tòa án chỉ thực hiện nhiệm vụ xét xử theo luật định. Qua hoạt động xét xử, tòa án có quyền đề nghị hay yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền khắc phục, sửa đổi, hoặc bãi bỏ các quy định không còn phù hợp. Trên cơ sở đó, Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn, xét xử, nhằm bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động xét xử.