- Truyện là thể loại văn học có phương thức trình bày một chuỗi sự việc, từ sự việc này đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa. Tự sự giúp người đọc và người nghe có thể hiểu rõ sự việc, con người, hiểu rõ vấn đề, từ đó bày tỏ thái độ khen chê. Tự sự rất cần thiết trong cuộc sống, trong giao tiếp, trong văn chương. - Đặc điểm:
II. CÁC THỂ LOẠI 1. Truyện ngắn: Truyện ngắn là một thể loại văn học. Nó thường là các câu chuyện kể bằng văn xuôi và có xu hướng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa hơn các câu truyện dài như tiểu thuyết. Thông thường truyện ngắn có độ dài chỉ từ vài dòng đến vài chục trang, trong khi đó tiểu thuyết rất khó dừng lại ở con số đó. Vì thế, tình huống truyện luôn là vấn đề quan trọng bậc nhất của nghệ thuật truyện ngắn. Truyện ngắn thường chỉ tập trung vào một tình huống, một chủ đề nhất định. Trong khi đó, tiểu thuyết chứa được nhiều vấn đề, phủ sóng được một diện rộng lớn của đời sống. Do đó, truyện ngắn thường hết sức hạn chế về nhân vật, thời gian và không gian trong truyện ngắn cũng không trải dài như tiểu thuyết. Đôi khi truyện ngắn chỉ là một khoảng khắc của cuộc sống. 2. Tiểu thuyết: Tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi có hư cấu, thông qua nhân vật, hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn và những vấn đề của cuộc sống con người, biểu hiện tính chất tường thuật, tính chất kể chuyện bằng ngôn ngữ văn xuôi theo những chủ đề xác định. + Tiểu thuyết có nhiều dạng thức kết cấu tùy theo yêu cầu của đề tài, chủ đề hoặc theo sở trường của người viết. Thậm chí người ta còn cho rằng, về nguyên tắc, tiểu thuyết không có một hình thức thể loại hoàn kết, bởi vì nó là “sử thi của thời đại chúng ta”, tức là sử thi của cái hiện tại, cái đang hàng ngày hàng giờ đổi thay. + Tuy thường gặp những kết cấu chương hồi, kết cấu tâm lý, kết cấu luận đề, kết cấu đơn tuyến, kết cấu đa tuyến v.v. tiểu thuyết vẫn không chịu được những chế định chặt chẽ, nó không có quy phạm cố định và người viết thậm chí có thể phá vỡ những khuôn mẫu sẵn có để vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo các hình thức kết cấu khác nhau. Kết cấu cho phép tạo nên một diện mạo chung nhất về tiểu loại: tiểu thuyết chương hồi, tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết đa thanh v.v.
+ Theo N. Friednam, trong sách Điểm nhìn trần thuật (1967), có thể phân loại người kể chuyện thành những loại như: người kể chuyện biết hết, người kể chuyện không biết hết, là nhân chứng (thường là ngôi), là vai chính (nhân vật kể), người kể toàn năng (dựa vào điểm nhìn nhiều nhân vật), người kể chuyện đơn lẻ (điểm nhìn một nhân vật), người kể camera (không tỏ thái độ chủ quan), người kể quan sát kịch (chỉ thấy hành động). + Dựa vào ngôi kể có thể xác định gồm có 2 kiểu người kể chuyện: Thứ nhất, người kể chuyện ngôi thứ nhất xưng tôi, thường là người tham gia trong câu truyện, là nhân vật trong truyện. Thứ hai là người kể chuyện theo ngôi thứ ba, không tham gia vào câu chuyện, chỉ đứng bên ngoài để kể. Trong truyện truyền thống, người kể chuyện thường là người đứng ngoài câu chuyện, hoặc là chính tác giả, thường ít xưng danh. Nhưng trong truyện hiện đại, nhân vật người kể chuyện có thể ở ngôi thứ nhất, xưng tôi, nhân vật này có thể là một nhân vật trong câu chuyện (ông giáo trong truyện Lão Hạc - Nam Cao) hoặc ngôi thứ ba (người kể chuyện đứng bên ngoài câu chuyện). Loại nhân vật này có một giọng điệu thể hiện qua cách nhìn, cách cảm thụ, phương thức tư duy, năng lực trí tuệ, tình cảm, bộc lộ qua ngôn ngữ. Như vậy là nhân vật người kể chuyện cũng được cá tính hóa. Chính giọng điệu này đã xác định được phần nào phong cách của tác giả. Ví dụ, lời người kể chuyện trong tác phẩm của Nguyễn Khải luôn có xu hướng phân tích lí giải cặn kẽ cách ứng xử của nhân vật trong các mối quan hệ, còn lời kể chuyện của Thạch Lam luôn chứa đầy những miêu tả cảm giác, mang thiên hướng trữ tình. 4. Điểm nhìn kể chuyện 4.1. Khái niệm - Tầm quan trọng của điểm nhìn nghệ thuật: Tác phẩm văn học nào dù là thơ hay truyện cũng xuất phát từ điểm nhìn cụ thể. Không thể không có tác phẩm văn học nếu không có điểm nhìn và điểm nhìn góp phần quan trọng tạo nên giá trị tác phẩm. Tác giả Nguyễn Thái Hòa trong Điểm nhìn trong lời nói giao tiếp và và điểm nhìn trong nghệ thuật trong truyện đã khẳng định điểm nhìn điểm bắt đầu và chi phối sâu sắc đến tác phẩm. Đồng thời ông cũng nhận thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa điểm nhìn với người kể, tác phẩm và người đọc: “Điểm nhìn nghệ thuật là điểm xuất phát của một cấu trúc nghệ thuật, hơn thế nữa là một cấu trúc tiềm ẩn được người đọc tiếp nhận bằng thao tác suy ý từ các mối quan hệ phức hợp giữa người kể và văn bản, giữa văn bản và người đọc văn bản, giữa người kể và người đọc hàm ẩn" - Khái niệm: Nguyễn Thị Thu Thủy trong cuốn sách Điểm nhìn và ngôn ngữ trong truyện kể đã khẳng định điểm nhìn trong truyện kể chi phối tới quá trình quan sát và kể lại: "Điểm nhìn là vị trí, xuất phát điểm mà từ đó hiện thực được quan sát và kể lại". Tác giả Nguyễn Thị Hoài An trong luận án tiến sĩ của mình khẳng định “Điểm nhìn nghệ thuật trong tự sự là vị trí, chỗ đứng nhất định để nhìn nhận, xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng ...và sau đó kể, miêu tả, thể hiện chúng bằng hình thức của một tác phẩm nghệ thuật ngôn từ”. Cần lưu ý rằng vị trí, chỗ đứng không chỉ là vị trí trong không gian, thời gian mà còn là tầm nhận thức, trình độ, văn hóa, lứa tuổi, giới tính, trải nghiệm… của người kể chuyện. Từ điểm nhìn nghệ thuật người kể chuyện xác định thông tin trọng tâm (tiêu điểm) để kể, miêu tả và thể hiện thái độ, bình luận. Mối quan hệ giữa chủ thể của điểm nhìn với truyện và tiêu điểm sẽ quyết định ngôi kể trong truyện”. - Mối quan hệ của điểm nhìn với đối tượng được nói đến trong tác phẩm: Điểm nhìn của chủ thể có điểm rơi vào khách thể. Từ điểm nhìn nghệ thuật, chủ thể của điểm nhìn quan sát, kể lại, miêu tả và bình luận khiến đối tượng được nói đến hiện lên sống động. Nhìn chung, khi phân tích tác phẩm theo điểm nhìn nghệ thuật chúng ta phải trả lời cho các câu hỏi: Người trần thuật là ai? Anh ta miêu tả cái gì? Và dưới cái nhìn của anh ta thì cái được miêu tả hiện ra như thế nào? Từ đó, điểm nhìn nghệ thuật trong tác phẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp người đọc thâm nhập sâu vào tác phẩm trên bình diện nghệ thuật, khám phá một cách sâu sắc giá trị nội dung, tư tưởng mà nhà văn muốn gửi gắm ở đứa con tinh thần của mình. - Về bản chất điểm nhìn nghệ thuật luôn xuất phát từ điểm nhìn của tác giả và mỗi tác phẩm truyện đều ẩn chứa trong đó hình tượng tác giả. Từ việc phân tích điểm nhìn nghệ thuật của tác phẩm, người đọc còn có thể tìm ra được nét riêng độc đáo trong phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn. 4.2. Phân loại điểm nhìn - Theo vị trí quan sát của người kể, có thể phân theo điểm nhìn kể chuyện như: điểm nhìn bên ngoài, bên trong; điểm nhìn không gian (xa, gần), điểm nhìn di động (từ đối tượng này sang đối tượng khác), điểm nhìn thời gian (quá khứ, hiện tại, tương lai), điểm nhìn luân phiên (trong, ngoài). Sự luân phiên điểm nhìn này cho thấy sự linh hoạt của các kiểu tổ chức miêu tả và bình luận trong cốt truyện. - Tuy nhiên, điểm nhìn người kể chuyện thường được phân chia thành ba loại chính: điểm nhìn toàn tri (vô điểm nhìn), điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn bên trong. Ngoài ra, còn có thể kể đến kiểu điểm nhìn di động. Dựa trên tầm nhìn, vai trò của người kể chuyện và mối quan hệ giữa điểm nhìn với tiêu điểm, ngôi nhân xưng, hình thức ngôn ngữ người ta xác định các tiêu chí nhận diện điểm nhìn trong tự sự như sau:
- Về tầm nhìn và vai trò của người kể chuyện: Người kể chuyện có khả năng biết hết về câu chuyện, biết nhiều hơn nhân vật và là chủ thể của điểm nhìn. Người kể chuyện không chỉ có vai trò kể lại câu chuyện mà còn có thể bình luận, điều khiển nhân vật. - Về ngôi, nhân xưng: + Người kể chuyện thường không xuất hiện (hàm ẩn) hoặc hiếm khi là người kể chuyện tường minh xưng "tôi". + Nhân vật thường ở ngôi thứ ba. - Về tiêu điểm kể chuyện: Người kể chuyện có cái nhìn biết hết nên nhân vật có thể được kể từ bên ngoài (ngoại hình, lời nói, hành động) vào bên trong (nội tâm) một cách rõ nét. - Về ngôn ngữ kể chuyện: chủ yếu là lời người kể chuyện, là lời kể gián tiếp.
- Về tầm nhìn và vai trò của người kể chuyện: Người kể chuyện mặc dù vẫn là chủ thể của điểm nhìn nhưng biết ít hơn nhân vật, chỉ có khả năng nhìn nhận từ bên ngoài mà không biết gì về nội tâm bên trong của nhân vật. Người kể chuyện ít có khả năng đánh giá, phán đoán và không có khả năng điều khiển nhân vật. - Về ngôi, nhân xưng: + Người kể chuyện không xuất hiện trong tác phẩm, hoàn toàn giấu mình. + Nhân vật thường ở ngôi thứ ba. - Về tiêu điểm kể chuyện: Nhân vật chỉ có thể được kể từ bên ngoài bằng ngoại hình, lời nói, hành động. - Về ngôn ngữ kể chuyện: Ngôn ngữ gián tiếp, chủ yếu là ngôn ngữ người kể chuyện. Trong một số tác phẩm ngôn ngữ đối thoại của nhân vật được coi trọng và chiếm một tỉ lệ cao.
- Về tầm nhìn và vai trò của người kể chuyện: Chủ thể của điểm nhìn là nhân vật. Người kể chuyện có thể là nhân vật kể chuyện mình hoặc nhập thân vào nhân vật để kể chuyện nên chỉ có thể nhìn nhận, kể chuyện, bình luận, lí giải, phán đoán bằng tầm nhìn của một nhân vật. - Về ngôi, nhân xưng: Người kể chuyện đồng thời là nhân vật, có thể xuất hiện trong tác phẩm ở ngôi thứ nhất (với trường hợp người kể chuyện là nhân vật kể chuyện mình) hoặc ngôi thứ ba (với trường hợp người kể chuyện nhập thân vào nhân vật để kể chuyện). - Về tiêu điểm kể chuyện: Tiêu điểm kể chuyện là nội tâm của nhân vật nên truyện kể thường ít sự kiện, ít nhân vật, ít hành động, lời nói. - Về ngôn ngữ kể chuyện: Ngôn ngữ kể chuyện là lời kể trực tiếp với trường hợp người kể chuyện là nhân vật kể chuyện mình hoặc nửa trực tiếp với trường hợp người kể chuyện nhập thân vào nhân vật để kể chuyện.
5. Phương thức kể chuyện Trong nghệ thuật kể chuyện hiện đại, căn cứ vào điểm nhìn nghệ thuật có thể chia thành ba phương thức trần thuật. 5.1. Phương thức kể chuyện thứ nhất: Người kể chuyện giấu mình, không xuất hiện nhưng lại biết tất cả và kể về các nhân vật, sự kiện … Nhân vật là đối tượng được kể nên thuộc ngôi thứ ba (hắn, y, thị, nó, anh, cụ…). 5.2. Phương thức kể chuyện thứ hai: Nhân vật tự kể chuyện mình xưng tôi, thuộc ngôi thứ nhất kể chuyện về chính mình, về những gì mình biết. Vai trò của anh ta trong tác phẩm vừa là nhân vật vừa là người kể chuyện. 5.3. Phương thức kể chuyện thứ ba: Người kể chuyện giấu mình nhưng chuyển điểm nhìn trần thuật cho nhân vật, điểm nhìn là điểm nhìn nhân vật, lời kể theo giọng điệu của nhân vật thuộc ngôi thứ ba còn gọi là lời nửa trực tiếp. Về bản chất điểm nhìn nghệ thuật luôn xuất phát từ điểm nhìn của tác giả và mỗi tác phẩm truyện đều ẩn chứa trong đó hình tượng tác giả. Tuy nhiên, đặc điểm nghệ thuật của mỗi tác phẩm khi đến với người đọc lại có những hiệu quả khác nhau. Hai phương thức trần thuật thứ nhất và thứ hai chịu chi phối sâu sắc hơn từ điểm nhìn tác giả, còn phương thức trần thuật thứ ba lại cho ấn tượng chủ yếu từ điểm nhìn nhân vật. |