Để xã hội học chính thức trở thành một ngành khoa học độc lập thì cần hội tụ đủ những yếu tố nào?

Hôm nọ, trong buổi trò chuyện với phóng viên một đài truyền thanh, phóng viên hỏi rằng: Trong khoa học, tố chất nào định hình một nhà khoa học thành công? Đây là một câu hỏi hay, và hình như cũng đã tốn công sức suy nghĩ của nhiều người. Cá nhân tôi cũng từng quan sát đồng nghiệp và nghĩ đến những tố chất như sau…

Nhà khoa học thành công” ở đây là “successful scientist”. Nói đến successful / thành công thì chắc chắn sẽ có người đặt ngay câu hỏi: dựa vào tiêu chí gì. Đó là câu hỏi chính đáng. Điều thú vị là nhà khoa học có vẻ muốn giải quyết nhiều vấn đề cho thế giới, nhưng khi đụng đến vấn đề của chính họ, thì họ lúng túng. Lúng túng đầu tiên là lấy chỉ số gì để đánh giá tầm ảnh hưởng của một công trình nghiên cứu. Phải gần 20 năm sau, khởi đầu từ một người không làm khoa học (Eugene Garfield), giới khoa học mới đi đến một số thước đo có thể chấp nhận được. Nhưng đến câu hỏi liên quan đến cá nhân hơn, như lấy tiêu chí gì để đánh giá một nhà khoa học là thành công, thì vấn đề càng khó khăn hơn. Ít ai, nhất là những người đã bỏ cả đời để theo đuổi một vấn đề cụ thể nào đó, chịu nói hay dám thú nhận mình thất bại.

Nhưng vấn đề trở thành một đề tài nghiên cứu cho giới xã hội học. Năm 1998, hai nhà xã hội học Feist và Gorman có làm một tổng quan các nghiên cứu về tố chất có liên quan đến tính sáng tạo của nhà khoa học. Những nghiên cứu này thường dựa vào phương pháp định tính (qualitative methods) trên những đối tượng có “tên tuổi” như từng đoạt giải thưởng lớn, có chân trong các ban biên tập tập san khoa học, v.v. So sánh những tố chất của nhà khoa học và ngoài khoa học, họ đi đến kết luận chính như sau:

  • Nhà khoa học là những người tỉnh táo và tập trung, ít bị chi phối bởi những yếu tố “nhiễu” chung quanh;
  • Nhà khoa học thường có cá tính vượt trội và có thái độ lấn áp, quyết tâm làm việc nhắm đến thành quả;
  • Nhà khoa học có suy nghĩ độc lập, sống nội tâm, và khả năng giao tiếp xã hội kém;
  • Nhà khoa học thường rất lạnh lùng, không chịu sự chi phối của cảm tính.

Ngoài ra, họ còn so sánh các nhà khoa học nổi tiếng / sáng tạo với những người ít danh tiếng và ít sáng tạo hơn. Họ kết luận rằng những nhà khoa học thành công thường là những người có cá tính như sau:

  • Áp đặt, ngạo mạn, tự tin;
  • Độc lập, tự chủ, sống nội tâm;
  • Tham vọng, làm việc vì mục tiêu cụ thể; và Cởi mở trong ý tưởng và hành động.

Ở mức độ thực tế (tức không có nghiên cứu), những yếu tố làm nên một nhà khoa học thành công theo quan sát của tôi thì hơi khác những cá tính trên. Đúng là những người thành công thường rất “phách”, ngạo mạn, tham vọng, nhưng họ có lí do vì họ là những người có thực tài. Ai từng tiếp xúc James Watson sẽ thấy ông ấy nhìn mọi người khác như … rác rưởi! Tập san Nature có làm điều tra về yếu tố dẫn đến thành công của một nhà khoa học, và theo nhận xét cá nhân, tôi thấy những yếu tố họ đưa ra rất phù hợp với thực tế. Một nhà khoa học muốn thành công cần phải có những tố chất như sau:

Một là sáng tạo ra ý tưởng mới hay phương pháp mới. Khi nhà khoa học có sáng kiến, phát kiến mới, hay tạo ra phương pháp mới, thì theo qui luật, sẽ có nhiều người theo đuổi, và do đó, nhà khoa học trở thành người đi tiên phong. Nói theo tiếng Anh là làm leader chứ không làm follower. Nếu chỉ lặp lại những người khác làm, hay lẽo đẽo theo dấu chân người khác thì rất khó thành công.

Hai là mở rộng kiến thức và địa hạt nghiên cứu. Trong khi tập trung vào một vấn đề, nhà khoa học cũng cần nghĩ đến mở rộng địa hạt nghiên cứu (suy nghĩ đến khả năng ứng dụng của chuyên ngành mình đang theo đuổi); đọc nhiều để có thêm thông tin; tham gia nhiều dự án cùng một lúc; sử dụng nhiều phương pháp; tìm những cơ chế mới. Làm về tim mạch, nhưng cũng nên mở rộng “biên cương” sang lĩnh vực khác, kể cả … nghệ thuật!

Ba là kiên trì theo đuổi ý tưởng. Tập trung vào một vấn đề chính; không đầu hàng trước khó khăn; lúc nào cũng tìm cách đối phó với khó khăn.

Bốn là chọn đề tài mà xã hội quan tâm và có tác động đến thực tiễn. Điều này thì có vẻ hiển nhiên, vì không ai muốn theo đuổi những đề tài vô bổ, chẳng liên quan gì đến xã hội. Do đó, những đề tài được xã hội quan tâm là những đề tài có tác động thực tiễn, và là yếu tố rất quan trọng để tạo dấu ấn và thành công.

Năm là độc lập và lãnh đạo chuyên ngành. Khi nhà khoa học chưa độc lập và tự chủ thì chưa thể xem là thành công được. Độc lập ở đây phải hiểu theo nghĩa tự tạo cho mình một “trường phái” và đóng vai trò chủ trì dự án nghiên cứu.

Sáu là thu hút thế hệ nghiên cứu sinh mới. Một yếu tố quan trọng là đào tạo thế hệ tiếp nối. Một nhà khoa học không để lại thế hệ tiếp nối thì không thể xem là thành công được.

Bảy là hợp tác. Khoa học ngày nay là hợp tác quốc tế. Do đó, để tăng khả năng thành công, nhà khoa học cần phải hợp tác với các đồng nghiệp trong và ngoài chuyên ngành. Hợp tác cũng là một cách thức tuyệt vời để có ý tưởng mới.

Tám là công bố quốc tế. Trong khoa học có một công thức nổi tiếng là

Research = Experiments + Publication (Nghiên cứu = Thí nghiệm + Công bố). Công bố nghiên cứu trên những tập san tốt, hàng đầu trong chuyên ngành. Trong thực tế, không ai công nhận là “nhà khoa học” hay “nhà nghiên cứu” nếu không có công trình công bố trên những tập san chuyên ngành.

Chín là có giải thưởng. Trong chuyên ngành và hội nghị, những giải thưởng là một tín hiệu của thành công. Dĩ nhiên, có giải Nobel thì rất hay, nhưng trong thực tế, ít ai được trao giải đó, ngay cả những người xứng đáng, nên những giải thưởng của các hội đoàn chuyên môn cũng là một thước đo về thành công.

Mười là thu hút tài trợ. Ở vài nước như Úc và Mĩ, thành công trong khoa học cũng có thể đo qua số tiền nhà khoa học thu hút từ các cơ quan cấp tài trợ khoa học. Nhìn qua lí lịch nhà khoa học, nếu không có thu hút tài trợ thì đó là tín hiệu cho thấy người đó chưa độc lập, và còn đang phấn đấu để thành công. Nhưng điều này thì bị phản đối, vì nhiều người cho rằng thu hút tài trợ cho nghiên cứu không thể là thước đo của thành công.

Đó là những tiêu chí và tố chất để định hình một nhà khoa học thành công. Tôi nghĩ chắc còn có nhiều tố chất khác nữa, nhưng vì chưa nghĩ kĩ nên chưa đầy đủ. Các bạn có thể thêm để danh sách đầy đủ hơn.

Nguồn: //tuanvannguyen.blogspot.com/2012/11/to-chat-cua-mot-nha-khoa-hoc-thanh-cong.html

NEEC là đơn vị tư vấn du học Mỹ uy tín, hỗ trợ và tư vấn cho các bạn học sinh lộ trình chi tiết để đăng ký vào các trường đại học hàng đầu nước Mỹ. Hãy chat với chúng tôi, hoặc để lại thông tin để được tư vấn chi tiết.

Xã hội học là một trong những lĩnh vực nghiên cứu được nhiều người quan tâm. Vậy xã hội học là gì? đối tượng nghiên cứu của xã hội học ra sao là vấn đề được nhiều độc giả quan tâm.

Xã hội học là gì?

Thuật ngữ xã hội học được một nhà xã hội học người Pháp – Auguste Comte (1798 – 1857) sử dụng vào năm 1838. Thuật ngữ xã hội học được ghép từ hai chữ, có hai nguồn gốc khác nhau: “Socius”, từ gốc Latinh và “Logos”, từ gốc Hi Lạp có nghĩa là học thuyết, nghiên cứu.

Như vậy xã hội học được hiểu là học thuyết về xã hội, nghiên cứu về xã hội. Về mặt lịch sử, thuật ngữ này xuất hiện lần đầu tiên năm 1938 trong cuốn “Thực chứng luận” của nhà xã hội học Aguste Comte. Từ đó, năm 1938 được lấy làm mốc ra đời của môn xã hội học. A.Comte được coi là cha để của xã hội học.

Xã hội học là môn khoa học xã hội còn rất non trẻ. Mặc dù vậy xã hội học đã và đang trở thành một ngành khoa học có vị trí quan trọng đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề xã hội học là gì? Theo nhà nghiên cứu Arce Alberto (Hà Lan) cho rằng xã hội học là khoa học nghiên cứu về con người và xã hội.

Theo định nghĩa của G.V. Osipov thì xã hội học là khoa học về các quy luật và tính quy luật xã hội chung và đặc thù của sự phát triển và vận hành của các hệ thống xã hội xác định về mặt lịch sử, là khoa học về các cơ chế tác động và các hình thức biểu hiện của các quy luật đó trong hoạt động của các cá nhân, các nhóm xã hội, các giai cấp và các dân tộc.

Hay theo cách hiểu mà tiến sĩ Nguyễn Minh Hoà kết luận rằng xã hội học là khoa học nghiên cứu về các quan hệ xã hội thông qua các sự kiện, hiện tượng và quá trình xã hội.

Trong một kết luận khác từ Bruce J Cohen và cộng sự thì xã hội học là khoa học nghiên cứu có hệ thống về đời sống của các nhóm người.

Tựu chung lại, có thể hiểu xã hội học như sau: “Xã hội học là khoa học về các quy luật phát triển của các hệ thống xã hội có tính chất tổng thể (toàn xã hội) cũng như bộ phận. Xã hội học nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa các hiện tượng xã hội khác nhau và nghiên cứu những quy luật phổ biến trong hành động xã hội của con người”.

Nói một cách khác, xã hội học là một môn khoa học về các quy luật phổ biến và đặc thù của sự hoạt động và phát triển của các hình thức biểu hiện các quy luật; trong đó, các hoạt động của các cá nhân, các tập đoàn xã hội, các giai cấp, các dân tộc được thể hiện.

Đối tượng nghiên cứu của xã hội học

Cũng như những ngành khoa học khác, xã hội học cũng có nhiều trường phái khác nhau, nên cũng có nhiều quan niệm khác nhau. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của xã hội học cũng được nhìn nhận khác nhau.

Theo quan điểm của Durkheim thì đối tượng nghiên cứu của xã hội là “sự kiện xã hội” hay theo quan điểm của M. Weber, xã hội học là khoa học nghiên cứu về “ hành động xã hội”. Đối với Auguste Comte, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các quy luật tổ chức xã hội.v.v.

Tuy nhiên, xem xét toàn bộ lịch sử phát triển của xã hội học thế giới, có ba khuynh hướng chính trong cách tiếp cận xã hội học như sau:

Khuynh hướng tiếp cận vi mô: Các nhà xã hội học theo khuynh hướng này cho rằng hành vi hay hành động xã hội của con người là đối tượng nghiên cứu của xã hội học. 

Khuynh hướng tiếp cận vĩ mô: Hệ thống xã hội, cấu trúc xã hội là đối tượng nghiên cứu của xã hội học. Trong đó hành động xã hội của cá nhân chịu sự chi phối của các cơ chế xã hội mà biểu hiện là các thiết chế xã hội, các giá trị, chuẩn mực xã hội.

Các cơ chế này tạo thành những khuôn mẫu, qui tắc xã hội bắt buộc mọi cá nhân trong xã hội phải chấp nhận và tuân theo.

Khuynh hướng tiếp cận tổng hợp: Xã hội loài người và hành vi xã hội của con người là đối tượng nghiên cứu của xã hội học.

Chức năng của xã hội học

Sau khi nghiên cứu xã hội học là gì? đối tượng nghiên cứu của xã hội học có thể thấy chức năng quan trọng của xã hội học.

Xã hội học cũng giống như các môn khoa học khác là trang bị cho người nghiên cứu môn học những tri thức khoa học mới.

Xã hội học giúp chúng ta nhận thức đầy đủ sức mạnh và vị trí của con người trong hệ thống xã hội, góp phần nâng cao tính tích cực xã hội của cá nhân và hình thành nên tư duy khoa học trong khi xem xét, phân tích, nhận định, dự báo về các sự kiện, hiện tượng và quá trình xã hội.

Trên cơ sở nhận diện được hiện trạng xã hội thực tại và sử dụng các lý thuyết dự báo, các nhà xã hội học sẽ mô tả được triển vọng vận động của xã hội trong tương lai gần cũng như tương lai xa hơn. Dự báo xã hội là một thế mạnh của xã hội học.

Các phương pháp, các kỹ thuật thao tác, các cách thức tiếp cận xã hội của xã hội học được các ngành khoa học khác nhau cũng như các lĩnh vực khác nhau của kinh tế, chính trị, văn hóa… sử dụng như một công cụ hữu ích và hết sức cần thiết trong quá trình hoạt động.

Xã hội học không phải nghiên cứu xã hội để biết cho vui mà thực sự nó góp một phần hết sức quan trọng vào việc cải biến hiện thực

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề xã hội học là gì? đối tượng nghiên cứu của xã hội học hiện nay.

Video liên quan

Chủ đề