Duy ma cật là ai

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP, tập 6, TG. 2011, tr.358-368; trích ĐVXP, tập 5, TG. 2011, tr.339-345)
Link sách: ĐVXP, tập 5 ; ĐVXP, tập 6

Hỏi:1) Kính thưa Thầy! Kinh Duy Ma Cật ca ngợi pháp môn Bất Tư Nghì giải thoát.

Chẳng hay pháp môn đó cao thâm như thế nào mà người trí nghe thì phát tâm vô thượng Bồ Ðề, Bồ Tát nghe thì hân hoan tiếp nhận, còn hàng Thanh Văn nghe thì không hiểu rõ khóc rống lên “khóc cho vang động cả 3000 cõi đại thiên thế giới”? (trích ý mục 4 kinh Duy Ma Cật trang 153).

2) Trong lời tựa Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, pháp sư Từ Thông viết: “Kinh Duy Ma Cật là bộ kinh thuộc hệ tư tưởng Ðại Thừa viên đốn, là thứ giáo lý mãn tự. Giáo lí kinh Duy Ma Cật dạy cho mọi người về pháp môn giải thoát bất tư nghì. Hành giả thực hiện được là thành Phật nhưđức Phật Thích Ca và thập phương chư Phật đã thành”.

Ðiều mà con muốn hỏi Thầy: “Thật ra kinh Duy Ma Cật có phải là kinh Phật thuyết hay không? Nhờ Thầy chỉ dạy cho con pháp môn giải thoát khó nghĩ bàn này”.

Ðáp:

1) Pháp môn Bất Tư Nghì là một pháp môn tưởng của Ðại Thừa, do các Tổ tu tập thiền sai pháp, lạc vào thiền tưởng, nên tuệ tưởng phát triển, từ đó các Tổ triển khai tưởng tuệ. Vì thế, các pháp tưởng được thành lập trong kinh sách Ðại Thừa. Trong những pháp tưởng đó có pháp môn Bất Tư Nghì.

Khi đạt được tưởng giải này các Tổ thấy sự hiểu biết của mình hơn cả Phật, nên dùng các pháp tưởng ấy bài bác chánh pháp của đức Phật bằng cách lý luận siêu tưởng để diệt Phật giáo. Cho nên, Kinh Duy Ma Cật là một tác phẩm trong những tác phẩm của Ðại Thừa, ra đời là nhằm mục đích thực hiện ý đồ thâm độc để diệt giáo lý của của Phật giáo. Ðây các bạn lắng nghe ông Duy Ma Cật giới thiệu pháp môn Bất Tư Nghì:

1- Kinh Duy Ma Cật dạy: “Thiền giả không dính mắc Tam Giới và thân tâm vẫn sinh hoạt mới là ngồi thiền”.

Lời dạy này đúng là lời dạy không nghĩ bàn được, vì đó là tưởng giải ra bất tư nghì nên vô nghĩa khiến cho ý thức không suy nghĩ được (vô phân biệt). Có thể nói lời dạy này vô lý.

Vậy Tam giới các bạn có hiểu biết nghĩa của nó là gì không? Theo các nhà Ðại Thừa hiểu Tam giới là ba cõi giới (cảnh giới). Sự hiểu như vậy là hiểu theo tưởng giải. Hiểu ba cõi giới là hiểu ba cõi ảo tưởng các bạn ạ! Cho nên, kinh sách Nguyên Thủy Phật dạy Tam giới nghĩa lý như thật không mơ hồ ảo tưởng: “Tam giới tức là ba trạng thái trong thân tâm của con người”. Ba trạng thái trong thân tâm của con người gồm có:

1- Dục giới

2- Sắc giới

3- Vô sắc giới

- Dục giới chỉ cho trạng thái ham muốn của con người.

- Sắc giới chỉ trạng thái của cơ thể con người.

- Vô sắc giới chỉ cho trạng thái tưởng của con người.

- Ba cõi tức là ba trạng thái của một con người. Ba trạng thái trong một con người, nên con người thường luân chuyển sống trong ba trạng thái này, không lìa rời nhau, không xa nhau nửa bước, lúc thì ở trạng thái này, lúc thì ở trạng thái kia, cho nên kinh dạy: “Luân hồi trong ba cõi”.

Bởi kinh Duy Ma Cật dạy câu trên đây không bao giờ thực hành được. Không bao giờ thực hànhđược là vì một con người mà không ở trong Tam Giới thì ở đâu? Sinh ra làm người thì lúc nào cũng ở trong Tam Giới. Ở trong Tam Giới thường sinh hoạt mà nói rằng không dính mắc là không đúng. Chữ dính mắc của Duy Ma Cật dùng ở đây không đúng nghĩa. Tại sao vậy? Chữ dính mắc phải được thay thế bằng chữ: “Ác pháp không tác động”.Vì thế, câu này phải được viết lại: “Thiền giả sống trong Tam Giới thân tâm vẫn sinh hoạt bình thường mà dục và ác pháp không tác động”. Cho nên, ba trạng thái này bảo rằng con người không dính mắc là không đúng nghĩa. Vì ba trạng thái này là ba trạng thái của một con người, chứ không phải ba trạng thái là ba cõi như các nhà Ðại Thừa hiểu. Ðức Phật đã xác định: “Không có cõi giới siêu hình thật mà các cõi giới siêu hình chỉ là cõi tưởng (tưởng tri chứ không phải liễu tri)”.

Lời dạy trong kinh Duy Ma Cật nghĩa lý không rõ ràng, chứng tỏ ông Duy Ma Cật tưởng giải theo nghĩa lý của kinh sách Ðại Thừa, chứ chẳng có gì mới mẻ cả. Ðó là một loại thiền tưởng của ngoại đạo. Phật giáo Nguyên Thủy không có những loại thiền này. Cho nên, lời nói của ông Duy Ma Cật không có giá trị tu hành làm chủ sanh, già, bệnh, chết, chỉ là lời nói suông mà thôi, dạy mà không có pháp hành: “Thiền giả không dính mắc Tam Giới và thân tâm vẫn sinh hoạt mới là ngồi thiền”.

2- Duy Ma Cật dạy: “Sinh hoạt trong bốn oai nghi như bình nhật mà không rời Diệt Tận Ðịnh”.

Kính thưa các bạn! Duy Ma Cật hiểu Diệt Tận Ðịnh như thế nào mà dám bảo: “Sinh hoạt trong bốn oai nghi như bình nhật mà không rời Diệt Tận Ðịnh”. Cư sĩ Duy Ma Cật dám nói câu này chính là cư sĩ đã lộ sự vô minh của mình cho người khác biết, giống như người vạch lưng cho xem thẹo. Vậy Diệt Tận Ðịnh nghĩa là gì? Diệt Tận Ðịnh là một loại thiền định bất động cả thân lẫn tâm. Vì thiền này diệt các cảm thọ và các tưởng như vậy thân ngồi bất động. Thân ngồi bất động thì làm sao sinh hoạt trong bốn oai nghi được. Phải không các bạn? Có lẽ ông Duy Ma Cật không hiểu thiền Diệt Thọ Tưởng Tận Ðịnh là gì? Nên đã nói theo kiểu tưởng giải của mình để gọi là pháp môn Bất Tư Nghì. Như vậy pháp môn Bất Tư Nghì chỉ là lời nói “xạo”, nói dối, nói như mình hay nhưng kỳ thực là lời nói xảo ngôn, nói lừa đảo lường gạt người.

Như vậy ở đời ai nói một việc gì vô lý là pháp môn Bất Tư Nghì hết sao!? Chỉ có những người vô minh mới ca ngợi những lý luận ảo tưởng đó. Người có minh thì không bao giờ chấp nhận. Cho nên, 62 luận thuyết của ngoại đạo Bà La Môn thời bấy giờ đức Phật không chấp nhận và đã bác sạch những lý luận đó.

Những lý luận của Bà La Môn là những lý luận tưởng.

Những gì ông Duy Ma Cật đã dạy trong kinh Duy Ma chỉ là nhai lại bã mía của kinh sách Ðại Thừa và Thiền Tông chẳng có gì mới mẻ cả.

3- Duy Ma Cật dạy: “Làm mọi việc như kẻ phàm phu mà không sao lãng đạo pháp”. Lời dạy như vậy có đúng không thưa các bạn? Lời dạy như vậy chỉ là những lời dạy cho những người bị bệnh tưởng, những kẻ đồng bóng, chứ những người bình thường thì không ai tin lời dạy này, vì làm mọi việc như kẻ phàm phu mà không sao lãng đạo pháp thì chẳng có ai làm được. Lời dạy này không thể sống và tu tập được. Lời dạy này không thể sống và tu tập được là pháp môn Bất Tư Nghì ư! Vậy thì pháp môn Bất Tư Nghì của ông Duy Ma Cật để làm gì? Có ích lợi gì cho đời? Nói để tranh hơn thua cao thấp với những người khác ư!?

“Ðây là pháp môn không thể nghì bàn không có pháp nào cao hơn được”. Pháp môn như vậy chỉ là lời nói lừa đảo người khác mà thôi. Ai cũng ca ngợi kinh Duy Ma Cật nhưng có ai tu tập được như kinh Duy Ma Cật dạy chưa? Kinh Duy Ma Cật là kinh vọng ngữ, kinh nói không đúng sư thật. Trong khi kinh sách Phật giáo dạy những gì đều đúng như thật nên giáo pháp của Phật được gọi là Chân lý. Cho nên, bài pháp đầu tiên của Ðức Phật gọi là Tứ Diệu Ðế. Tứ Diệu Ðế tức là bốn sự thật của loài người. Phật không lừa đảo con người, từ bỏ sự giàu sang danh lợi, còn Tổ chuyên lừa đảo người khác để cất chùa to Phật lớn làm giàu trên mồ hôi nước mắt của người Phật tử.

Như các bạn đã biết Phật pháp là phải lìa tâm dâm dục, thế mà sống trong tâm dâm dục lại không lìa Phật pháp. Lời dạy như vậy các bạn cứ suy ngẫm có đúng không? Hay ông Duy Ma Cật là một người trí óc bất ổn. Phải không các bạn?

4- Duy Ma Cật dạy: “Tâm không cột vào trong cũng không tản mạn ra ngoài mới là ngồi thiền”. Câu này ông Duy Ma cật dạy đúng nghĩa theo Phật giáo Nguyên Thủy. Khi tâm không phóng dật thì tâm không cột vào trong và cũng không tản mạn ra ngoài như vậy câu này đâu phải là pháp môn Bất Tư Nghì. Vì lời dạy này còn nghĩ bàn được, phải không các bạn? Còn nghĩ bàn được thì đâu được gọi là pháp môn Bất Tư Nghì. Như vậy rõ ràng lời dạy của ông Duy Ma Cật không nhất quán, tự nó mâu thuẩn với nhau. Có đúng không các bạn?

Như vậy, bộ kinh Duy Ma Cật chỉ là một bộ kinh góp nhặt cát sạn của Ðại Thừa mà bài bác vàng bạc châu báu của Phật giáo Nguyên Thủy thì làm sao bài bác được, chỉ có những người lọt vào tưởng tuệ nên mới chấp nhận những pháp môn ảo tưởng đó, chứ người có trí hiểu biết một chút thì không bao giờ chấp nhận. Xem bộ kinh Duy Ma Cật như một bộ môn tiểu luận lừa đảo.

Các bạn nên đọc lại lời dạy này: “Tâm không cột vào trong cũng không tản mạn ra ngoài mới là ngồi thiền”. Câu này mang đầy đủ ý nghĩa giải thoát của đức Phật, khi Ngài thành Chánh giác đã tuyên bố như sau: “Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”.

5- Duy Ma Cật dạy: “Trước bao nhiêu tà kiến, bao nhiêu dị thuyết, bao nhiêu chuyện mê tín hoang đường mà tâm không lay động, không bị mê hoặc cám dỗ xiêu lòng vững tâm trong 37 phẩm trợ đạo…” Câu này dạy đúng có ý nghĩa suy tư đầy đủ của tâm bất động thiền định như vậy câu này đâu phải là pháp môn bất tư nghì. Phải không các bạn. Câu này có ý nghĩa tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ.

6- Duy Ma Cật dạy: “Không khởi tâm đoạn trừ phiền não mà vẫn có Niết Bàn mới là ngồi thiền”. Bản chất con người là phiền não, đó là chân lý thứ nhất (Khổ đế) mà đức Phật đã xác định. Ðoạn trừ phiền não là chân lý thứ tư (Ðạo đế), nếu không đoạn trừ phiền não thì làm sao có Niết Bàn. Còn Niết Bàn là chân lý thứ ba (Diệt đế).

Cho nên câu: “Không khởi tâm đoạn trừ phiền não mà vẫn có Niết Bàn mới là ngồi thiền”. Nếu ai đã học về bốn chân lý của Phật giáo thì đọc câu này các bạn sẽ có cảm nhận về ông Duy Ma Cật là người kiến giải chứ chưa có thực hành tu tập. Vì thế, ông chưa hiểu Niết Bàn của Phật giáo, ông chỉ hiểu Niết Bàn của ngoại đạo. Niết Bàn của ngoại đạo là một cảnh giới siêu hình.

Niết Bàn có nghĩa là không có phiền não, không phiền não tức là Niết Bàn. Cho nên, câu nói của ông Duy Ma Cật dường như Niết Bàn và phiền não là hai. Ý của Ông nói cứ để phiền não bình thường, không cần đoạn trừ phiền não mà vẫn có Niết Bàn. Xin lập lại câu nói của Ông: “Không khởi tâm đoạn trừ phiền não mà vẫn có Niết Bàn”. Vì thế, ông Duy Ma Cật cho Niết Bàn là một cảnh giới siêu hình ở đâu chứ không phải chỗ tâm không phiền não.

Hiểu như ông Duy Ma Cật Niết Bàn là một cảnh giới của chư Phật, chứ không phải là một trạng thái của tâm con người.

Các bạn lắng nghe chân lí thứ ba của Phật giáo là một trạng thái tâm con người không còn tham, sân, si. Không còn tham, sân, si mới gọi là diệt đế. Diệt tức là diệt hết sự đau khổ phiền não.

Hiểu Phật giáo như ông Duy Ma Cật là hiểu Phật giáo theo nghĩa của Bà La Môn, hiểu theo nghĩa của thế giới siêu hình.

2) Kinh Duy Ma Cật là kinh Ðại Thừa ca ngợi một cư sĩ Duy Ma Cật là một vị Bồ Tát đã thành Phật, có trí tuệ bất tư nghì không thể nghĩ bàn. Vì thế, không có ai lý luận hơn Ngài được.

Kinh so sánh trí tuệ Duy Ma Cật như trí tuệ Phật (Trí tuệ không nghĩ bàn). Vì thế, không có một vị đại đệ tử nào của Phật dám đến thăm ông, dù là đại trí tuệ đệ nhất như ông Xá Lợi Phất cũng còn sợ hãi, khiếp đãm khi nghe nói đến đi thăm bệnh ông. Do trí tuệ ông cao siêu như vậy nên đức Phật mới sai ông Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đến thăm. Chỉ có ngài Văn Thù Sư Lợi có đủ trí tuệ mới dám đến thăm bệnh và đối đáp với ông mới cân xứng.

Kinh Duy Ma Cật ra đời nhằm có ý đồ diệt Phật giáo để dựng lên một giáo pháp mới. Ðó là giáo pháp bất nhị, còn gọi là giáo pháp bất tư nghì.

Kinh Duy Ma Cật dựng lên một người cư sĩ vĩ đại khiến cho tất cả đệ tử của đức Phật chỉ cần nghe đến tên Duy Ma Cật là đã rét run, cúi đầu, rụt cổ như rùa, đó là những đệ tử lớn của đức Phật như: ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên, ông Phú Lâu Na, ông Ca Chiên Diên, v.v… còn như vậy huống các đệ tử khác. Biết hàng đệ tử Thanh Văn của mình trí tuệ còn kém xa nên đức Phật của kinh Duy Ma Cật phải nhờ đến một vị Bồ Tát ảo tưởng của nhà văn Khưu Trường Xuân. Một nhà Văn Trung Hoa giàu trí tưởng tượng, tưởng ra những nhân vật tu theo Tiên đạo. Ðó là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi trong truyện “Phong Thần Diễn Nghĩa”. Trong bộ truyện Phong Thần Diễn Nghĩa có hai vị tiên ông, đệ tử của vị tiên trưởng Nguơn Thủy Thiên Tôn. Ðó là ngài Phổ Hiền và ngài Văn Thù. Trong truyện có ghi chú: hai vị tiên ông này sau tu theo Phật giáo được đắc quả thành Phật.

Ðọc kinh Duy Ma Cật chúng ta rất buồn cười cho những ai không sáng suốt vội tin theo mà không cân nhắc. Người viết kinh Duy Ma Cật đã không khéo léo, nên kinh được dấu đầu, mà lại ló đuôi khiến cho người có trí một chút là đã tìm cái giả mạo của kinh.

Kinh Duy Ma Cật là một tập tiểu thuyết lý luận triết lý bất nhị, khéo mượn những nhân vật tiểu thuyết Trung Hoa lồng vào kinh để lôicuốn hấp dẫn người đọc.

Cho nên, đọc xong kinh Duy Ma Cật người có sự nhận xét tinh vi một chút thì biết ngay kinh này không phải Phật thuyết, kinh này chỉ do các Tổ viết ra để diệt Phật giáo, nếu các bạn lưu ý sẽ nhận ra điều giả mạo và có ý đồ thâm độc này.

Ðạo Phật ra đời đã làm đảo lộn tư tưởng của loài người bằng bốn sự thật: “Khổ, Tập, Diệt, Ðạo”. Bốn chân lí độc đáo này đã có sẵn của loài người. Ngài chỉ cần khơi dậy khiến cho tất cả giáo lý của các tôn giáo và các triết lý của những nhà triết học hiện hành trên hành tinh này đổ vỡ, trở thành những ảo tưởng. Thế mà lại có một pháp môn bất nhị, không hai này, lại bảo rằng Phật thuyết, thì e rằng rất oan cho đức Phật. Ðức Phật bao giờ nói chuyện giáo pháp không tưởng như vậy. Mới nghe mọi người tưởng là mới mẻ của kinh sách Ðại Thừa được diễn tả trong kinh Duy Ma Cật, nhưng nào ngờ giáo pháp ấy cũ rích của Bà La Môn xưa kia. Trong khi kinh sách Nguyên Thủy còn ghi lại lời đức Phật đã dạy, Ngài đập sạch và quét 62 lập luận tà giáo ảo tưởng của Bà La Môn không còn ngoi đầu dậy được nữa.

Thế mà, kinh Duy Ma Cật lại bảo kinh này Phật thuyết như trên đã nói thì có ai mà tin không? Chỉ có những người không đủ trí quán xét thì mới tin như vậy.

Kinh đã không phải Phật thuyết thì pháp môn giải thoát khó nghĩ bàn cùng không phải của Phật. Ðó là một pháp tưởng của ngoại đạo.

Thưa các bạn! Ðừng bao giờ đem pháp môn cao siêu mà gán cho Phật, vì pháp Phật không có cao siêu, chỉ là những pháp môn rất gần gũi với đời sống của con người, nên nó“...thiết thực, cụ thể không có thời gian đến để mà thấy...”.

Pháp môn không thể nghĩ bàn tức là pháp môn với ý thức không thể hiểu được là một pháp môn ảo tưởng; là một pháp môn nói vọng ngữ.

Pháp môn của Phật là pháp môn đem ra dạy cho người tu tập để mang lại lợi ích cho con người, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai, còn pháp môn không thể nghĩ bàn thì làm sao hiểu được, mà đã không hiểu được thì làm sao tu tập được; mà đã không tu tập được thì làm sao có giải thoát được. Như vậy, pháp môn bất tư nghì là pháp môn lừa đảo con người. Còn nếu bảo rằng pháp môn này để dạy chư Phật và các bậc A La Hán thì chư Phật và các bậc A La Hán đâu cần phải tu pháp môn này, vì các Ngài đã chứng đạt chân lí giải thoát hoàn toàn, làm chủ sanh tử chấm dứt luân hồi. Cho nên, các Ngài đối với pháp môn không nghĩ bàn này là một pháp môn hý luận cho vui chơi, chứ có lợi ích gì cho cuộc sống của loài người đâu. Vì các ngài biết đó là pháp môn vọng ngữ, lừa đảo con người chứ không thể lừa đảo các Ngài được. Phải không các bạn?

Nghe nói đến pháp môn khó nghĩ bàn là biết ngay pháp môn nói dối. Cho nên, khi nghe Bồ Tát Duy Ma Cật nói: “Bồ Tát bệnh vì chúng sanh bệnh” thì biết ngay Bồ Tát Duy Ma Cật không hiểu Phật giáo, nên mới nói câu ấy.

Người không hiểu Phật giáo mà lại nói kinh này của Phật thuyết là sai. Ðạo Phật là đạo tự cứu mình chứ không ai cứu mình được. Vì thế, lời tuyên bố của kinh Duy Ma Cật chứng tỏ là ông chẳng hiểu gì về đạo Phật chút nào cả.

Ðức Phật đã chẳng bảo: “Nếu ta nói một điều mà không ai hiểu là ta có nói láo”. Vì vậy mà ở đây nói pháp môn không nghĩ bàn là nói láo. Có đúng không các bạn?

Vậy pháp môn giải thoát khó nghĩ bàn là pháp môn nói láo, pháp môn này chỉ gạt người vô minh, chứ người nào chỉ cần có một chút hiểu biết cũng không thể lừa đảo họ được.

Pháp môn giải thoát khó nghĩ bàn là pháp môn lừa đảo như trên đã nói, chỉ có những người sống trong tưởng tri nên mới dễ tin pháp môn này.

Pháp môn này chỉ lý luận chơi cho vui chứ chưa có ai sống được, vì con người là có sự tư duy suy nghĩ, chứ con người không phải đất, đá, cỏ, cây, v.v...

Như trên đã nói kinh Duy Ma Cật là kinh tưởng, vì thế trưởng giả Duy Ma Cật là người tưởng, chứ không phải là người có thật. Căn cứ vào lịch sử loài người thì cư sĩ Duy Ma Cật không có. Cho nên, tác giả kinh Duy Ma Cật khéo tưởng tượng ra nhân vật và pháp môn bất tư nghì.

Kính thưa các bạn! Những pháp môn đức Phật dạy trong kinh Nguyên Thủy, như pháp môn Hơi Thở rõ ràng như vậy mà các bạn còn tu tập sai tới, sai lui, huống hồ là pháp môn khó nghĩ bàn của Duy Ma Cật thì biết đâu mà tu tập. Phải không các bạn?

Cho nên, kinh Duy Ma Cật là kinh vọng ngữ. Và tu tập pháp môn Bất Tư Nghì để làm gì? Ðể lý luận tranh đua hơn thiệt với thiên hạ ư! Ðạo Phật không có mục đích đó. Xin các bạn lưu ý.


Page 2

(Trưởng lão Thich Thông Lạc, trích NPTCB, tập 3, TG. 2011, tr.143-144)
link sách: NPTCB, tập 3

Hi: Một người hc Pht phi nhìn cuc đời như thế nào để không b đm chìm, lôi cun theo nhng lc thú tầm thường ca thế gian, nhưng cũng không bị người đi lên án là tiêu cc, vô cm, lãnh đm, v.v...

Đáp: Một người học Phật phải nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả - duyên sinh nên không tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm. Người học Phật phải có tri kiến nhân quả, tri kiến Thập Nhị Nhân Duyên, tri kiến kiết sử, tri kiến ngũ uẩn, tri kiến ngũ triền cái, tri kiến về các pháp bất tịnh, tri kiến các pháp vô thường khổ không vô ngã, tri kiến về lòng từ bi hỷ xả, v.v... Nếu có những tri kiến như vậy thì người này sẽ không bị đắm chìm, lôi cuốn theo những lạc thú tầm thường của thế gian. Muốn có những tri kiến này thì người học Phật nên nghiên cứu kinh sách Nguyên Thủy, vì trong đó dạy rất đầy đủ và dễ hiểu. Không nên nghiên cứu kinh sách Đại Thừa vì kinh sách này sẽ gieo vào đầu óc của các bạn một thế giới ảo tưởng, mơ hồ, trừu tượng. Một khi các bạn đã chịu ảnh hưởng của nó thì các bạn giống nhưngười nghiện thuốc phiện. Muốn bỏ mà rất khó bỏ.

Người cư sĩ hiểu sao về Phật giáo có tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm? Về Phật giáo là phải có một tinh thần tích cực, tự lực trong sự tu tập các pháp môn; phải tích cực, tự lực chiến đấu với nội tâm của mình khi có ác pháp xâm chiếm để đem lại sự thanh bình cho tâm hồn; phải tích cực chiến đấu với ngoại pháp để đem lại cho mọi người một sự an ổn, một xã hội có trật tự. Về Phật giáo có hai giới tu tập: 1/ Cư sĩ 2/ Tu sĩ

Cư sĩ thì phải tu theo pháp của người cư sĩ. Pháp của người cư sĩ tu tập là một nền đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình khổ người thì làm sao có sự tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm... được. Nếu tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm là làm khổ mình khổ người thì đâu có đúng chánh pháp. Có lẽ Cư sĩ đã hiểu sai pháp Phật, không hiểu về pháp tu tập của người Tu sĩ. Người Cư sĩ chỉ có sống những ngày Thọ Bát Quan Trai là như người Tu sĩ mà thôi. Một tháng chỉ sống có mấy ngày thì đâu thể nào gọi là tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm được. Phật dạy chúng ta biết ác pháp và thiện pháp, ác pháp thì nên tránh và diệt để đem lại cho mình cho người hạnh phúc an vui chứ đâu phải lãnh đạm, vô cảm. Ví dụ: Trong bữa tiệc mọi người ép chúng ta uống rượu, chúng ta từ chối không tùy thuận theo các ác pháp này thì bảo rằng chúng ta lãnh đạm thì không đúng. Chúng ta cương quyết làm được điều này là làm gương tốt đẹp cho người khác, để mọi người tránh thứ độc dược hại này. Cho nên Đạo Phật không phải là đạo yếm thế, tiêu cực, lãnh đạm, vô cảm, v.v... Người hiểu đạo Phật yếm thế, lãnh đạm, vô cảm... là người hiểu sai đạo Phật. Ví dụ: Tình nghĩa vợ chồng là phải chia xẻ nhau những nỗi buồn vui, thế mà xa lánh nhau, lạc lẽo, lãnh đạm thì Đức Phật đâu có dạy bao giờ, mà Đức Phật dạy không nên tà dâm, vì tà dâm là làm hại gia đình mất hạnh phúc, tà dâm, dâm dục không tiết độ sẽ đem đến thân bệnh tật, mà thân mang đau bệnh thì sự an vui hạnh phúc gia đình mất. Đạo Phật nói đời khổ là để vượt qua mọi sự đau khổ đó, chứ không có nghĩa là trốn tránh khổ, nói cách khác là để làm cho đời hết khổ. Làm cho đời hết khổ là phải tích cực hết mình. Vì thế mà đạo đức của đạo Phật là đạo đức không làm khổ mình khổ người.


Page 3

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NLGPD, tập 4, TG. 2010, tr. 259-266)
link sách: NLGPD, tập 4

LỜI PHẬT DẠY:

“Này Ananda, nếu chúng Tăng muốn sau khi ta diệt độ có thể hủy bỏ những học giới nhỏ nhặt chi tiết”.  (Trường Bộ Kinh, tập I, trang 663, kinh Ðại Bát Niết Bàn)

CHÚ GIẢI:

Nếu một người tu sĩ chạy theo dục lạc thế gian gặp đoạn kinh này như mèo gặp mỡ, như chuột sa hũ gạo, mặc sức tung hoành phá giới, bẻ vụn giới. Vì thế sau khi Phật nhập diệt một thời gian, ở bản xứ Ấn Ðộ cũng đã chia ra 2 lối tu tập, một bên phòng hộ tự lực để ly dục, một bên phóng dật tha cầu. Nên có quan điểm bất đồng rồi chia thành 2 bộ phái: Thượng Tọa Bộ gồm những bậc Trưởng Thượng y chỉ nguyên gốc Giới Kinh, Giới hạnh, Giới hành Phật dạy để tự lực tu tập và phát triển rất chậm về phương nam lan truyền qua hướng Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan, Lào, Cam-Bu-Chia và phía nam Việt Nam mà các học giả thường gọi là Phật Giáo Nguyên Thủy (hay phái Tiểu thừa Nam tông). Kinh sách lấy Ðại Tạng Nikaya làm gốc, trong chùa chỉ thờ duy nhất một đức Phật Thích Ca, có nơi thêm vài đệ tử của Phật Như Ngài Ca Diếp, Ngài Xá Lợi Phất.

Còn Ðại Chúng Bộ phần lớn gồm những bậc Tân Tăng học giả Tưởng giải Tha lực, họ theo khuynh hướng tư tưởng phục hưng Vệ Ðà (Bà La Môn) phát triển rộng về phương bắc, hơn 10 hệ phái qua các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam dưới nhiều dạng Phật giáo khác nhau được gọi là Phật giáo Ðại thừa (hay Phật Giáo Bắc Tông), bao gồm hơn 10 tông phái như: Thiền Tông, Mật tông, Tịnh Ðộ tông, Luật tông, Duy Thức tông, Pháp Hoa tông, Hoa Nghiêm tông, Liên Tông (ở Nhật), v.v... Riêng Thiền Tông Trung Hoa cũng đã phát triển thành nhiều Tông môn nữa.

Ðại thừa Bắc tông đi đến xứ nào thì thích nghi với phong tục tập quán của xứ đó, nên giáo lý thì như một chiếc áo bá nạp đủ thứ tín ngưỡng, họ đi đến xứ nào thì kinh sách phát triển để thích nghi với tín ngưỡng ở bản địa xứ đó, cứ đặt thêm một bộ kinh là tưởng thêm một vị Phật nữa ra đời hoặc một vị Bồ Tát nữa để đưa vào chùa thờ! Vì thế, nghi thức thờ phượng trong chùa thì cũng trăm thứ như: Tượng Di Dà, Dược Sư, Di Lặc, Quan Âm, Thế Chí, Ðịa Tạng, Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Thánh, Thập Ðiện Diêm Vương, Tề Thiên Ðại Thánh, Hộ Pháp Già Lam, Thần thiện, Thần ác, Lê Sơn Thánh Mâu, Cửu Thiên Huyền Nữ, Chúa Ba, Chúa Xứ, v.v… Có nơi đưa cả những con vật như Cọp, Ngựa vào chùa thờ nữa. Nói chung là họ thờ Ða Thần Giáo, họ đi đến địa phương nào là liền thích nghi lấy lòng vị Thần bổn xứ và người dân nơi đó tín ngưỡng liền đưa vào chùa để thờ. Họ biên soạn ra những Kinh sách tưởng giải nương vào tha lực (mang nặng tư tưởng đa thần của 62 trường phái Bà La Môn mà thời đức Phật đã dẹp bỏ, nay có cơ hội phục sinh)lồng vào kinh sách Phật để phá giới và diệt giới luật Phật. Cho nên, tu sĩ thời nay lợi dụng câu kinh họ lồng vào như thế này: “Nếu chúng Tăng muốn sau khi ta diệt độ có thể hủy bỏ những học giới nhỏ nhặt chi tiết”,do đó họ xem thường giới luật Phật. Toàn bộ các sư Thầy theo Phật giáo phát triển đều phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, xem thường giới luật như trong đời tu hành của họ chẳng bao giờ có giới luật. Họ chỉ dùng những lời nói mang đầy tính dục lạc thế gian “Ăn được, ngủđược là Tiên” hoặc dùng những câu nói củacác Thiền Sư đầy sự xảo trá, lừa đảo: “Tự tại vô ngại, đói ăn, khát uống, mệt đi ngủ”.

Ðối với Phật giáo Nguyên Thủy những hành động sống như vậy gọi là phi Phạm hạnh. Một người tu sĩ mà sống phi Phạm hạnh là không còn giá trị của người tu sĩ. Người tu sĩ như vậy không đủ đức hạnh làm thiện hữu tri thức cho người khác, không đủ khả năng làm Thầy Trời, Người.

Các bạn hãy đọc kinh Ước Nguyện trong kinh Trung Bộ tập I (Văn Hoá Phật Giáo Truyền Thống Tập 2, NXB Tôn Giáo ấn hành) có 17 điều lợi ích rất lớn của giới Luật. Vả lại giới luật là đức hạnh của con người, đức hạnh sao lại có đức hạnh lớn, đức hạnh nhỏ. Ðức hạnh là thiện pháp, đức hạnh sẽ mang lại cho con người một cuộc sống an vui và hạnh phúc. Vậy làm sao lại có đức hạnh lớn, đức hạnh nhỏ xin các bạn xét duyệt lại lời dạy trên đây có phải Phật thuyết hay không?

Khi một người nào muốn theo Phật xuấtgia tu hành đều phải sống biệt trú 4 tháng để thử thách đời sống giới luật, nếu thấy sốngđược thì Phật chấp nhận cho xuất gia, còn thấy sống không được thì trở về đời bình thường.

Giới luật tinh nghiêm như vậy, tại sao lại có chuyện bỏ các giới nhỏ nhặt? Ai chủ mưu bỏ những giới nhỏ nhặt này?

Vả lại trong kinh đức Phật từng nhắc nhở chúng ta: “Này các Tỳ kheo hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới”. (Kinh Trung Bộ, tập I, trang 79, kinh Ước Nguyện).

Kính thưa các bạn! Trong kinh Trung Bộ dạy: “Thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt”, còn kinh Trường Bộ dạy: “Có thể hủy bỏ những học giới nhỏ nhặt”. Hai câu kinh này chúng ta tin kinh nào? Xin các bạn chỉ cho.

Ðức Phật dạy: “GIỚI, ÐỊNH, TUỆ”, có nghĩa là tu tập từ giới đến định, từ định đến tuệ. Vậy thì giới luật chưa tu học mà đòi bỏ những giới nhỏ nhặt thì như vậy có đúng không?

Chúng ta xét lại hai câu kinh trên. Như vậy lời dạy của đức Phật có mâu thuẫn nhau. Phải không các bạn?

Theo chúng tôi biết chắc đức Phật khôngnói hai lưỡi, không bao giờ dạy mâu thuẫn như vậy, mà chính những vị học giả tưởng giải phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới mới soạn viết ra câu này khi kết tập xen vào gán cho Phậtthuyết để lừa đảo người sau. Chúng ta hãy giữ gìn giới bổn Ba La Mộc Xa Ðề và giới kinh như: Kinh Phạm Võng, kinh Sa Môn Quả và những kinh Giáo Giới La Hầu La, Giáo Giới Ananda, Giáo Giới Ca Chiên Diên, v.v... Nói chung tất cả kinh Phật đều là giới Luật, ba mươi bảy phẩm trợ đạo cũng đều là giới luật cả.

Giới luật là thiện pháp, cho nên khi chúng ta mới bước chân vào Phật giáo thì chúng ta được tu tập Tứ Chánh Cần. Ðó là pháp ngăn ác, diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. Thưa các bạn! Pháp dạy tu tập như vậy không phải là giới luật sao?

Giới luật là đức hạnh nên đạo Phật xây dựng mình trên nền đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình khổ người và khổ cả hai. Cho nên Phật dạy: “Này các Tỳ kheo hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và tu tập các học giới”.

Những câu kinh dạy: “Hủy bỏ những học giới nhỏ nhặt” là sai không đúng lời Phật dạy, đó là những thủ đoạn gian xảo lừa đảo của các học giả tưởng giải mang hình sắc tu sĩ Phật giáo.

Thưa các bạn! Trong kinh sách Nguyên Thủy có rất nhiều những đoạn kinh do các Tổ Bà La Môn viết xen vào để đánh lạc hướng những người tín đồ Phật giáo, khiến cho họ khó truy tìm giáo pháp chân chánh của đức Phật.

Do hủy bỏ các giới nhỏ nhặt mà tu sĩ Phật giáo ngày nay sống theo danh lợi thế gian nên sự tu hành của các Sư Thầy hiện giờ có ra gì. Chỉ là tu danh, tu lợi, tu chùa to Phật lớn, tu tiền tu bạc.

Tóm lại bài giảng này, các bạn nên lưu ý: đừng lấy câu kinh này làm bức màn để che chắn rồi mặc tình phá giới mà không còn sợ ai dám chê nói một lời nào. Các bạn lầm, tu hành là đem lại lợi ích cho các bạn, chứ không lợi ích cho Phật, cho người khác, các bạn hiểu chưa?

Tu hành mà dối trá thì tu hành để làm gì, thà ở ngoài đời dối trá còn tốt hơn mang hình lốt tôn giáo.

Kính thưa các bạn! Khi các bạn đã bỏ hết cuộc đời vào chùa tu hành mà các bạn còn tiếc gì phải thích nghi để sống theo danh lợi, dục lạc thế gian, qua hình thức tôn giáo, để rồi khi chết các bạn cũng có mang theo một vật gì đâu, chỉ còn nắm tro tàn hôi tanh.

Giới luật là đức hạnh của các bạn. Nếu các bạn tu hành nghiêm chỉnh giới luật thì nó sẽ mang đến nhiều điều lợi lạc cho các bạn. Ðến khi chết các bạn cũng được an vui hạnh phúc. Và tiếp tục vào Niết Bàn không còn tái sanh nữa.


Page 4

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP, tập 7, TG.2011, tr.399-409)
link sách: ĐVXP, tập 7

Thân phụ đức Phật, vua Suddhodana (Tịnh Phạn) bây giờ đã già yếu, nghe tin đức Phật đã thành đạo và đang thuyết pháp ở thành Rajagaha (Vương Xá).

Vua rất nóng lòng được gặp lại con. Vua liền phái sứ giả đến Rajagaha (Vương Xá), thỉnh cầu đức Phật trở về thăm cố đô và gia đình. Nhưng các sứ giả của Vua đến Vương Xá, được nghe Phật thuyết pháp, đều xin xuất gia làm Tỳ kheo và chứng quả A La Hán. Vị sứ giả thứ 10 là Kaludàyi, vốn là người bạn thân của đức Phật, lúc Ngài còn là Thái tử. Ông này đến Vương Xá, nghe Phật thuyết pháp cũng xin xuất gia và không bao lâu chứng quả A La Hán như chín vị sứ giả trước.

Kaludàyi không quên chuyển tới đức Phật lời phụ vương mời đức Phật về thăm gia đình. Ðức Phật nhận lời, lên đường cùng với đông đảo đệ tử”. (Lịch Sử Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, trang 35 do HT Minh Châu biên soạn).

Ðọc đoạn kinh trên đây chúng ta thấy rất rõ ràng chỉ cần nghe Phật thuyết giảng xong là các vị quan trong triều vua liền bỏ xuống hết danh, lợi, cha mẹ, gia đình, vợ con, của cải, tài sản, quan chức, v.v... để được theo Phật xin xuất gia. Chứng tỏ giáo pháp của Phật rất thực tế về đời sống con người, nói về khổ và nguyên nhân sinh ra khổ của kiếp người, đó là một sự thật không còn ai phủ nhận được, đúng là 100/100, nên khi nghe Phật thuyết pháp xong thì các quan liền buông xuống hết, theo Phật tu hành và chẳng bao lâu đều chứng quả A La Hán.

Trên đây là các quan chứ không phải là tu sĩ Bà La Môn đã có tu. Vậy khi nghe pháp và chứng đạo chỉ có một thời gian rất ngắn. Như vậy pháp Phật tu hành đâu có khó khăn gì. Phải không các con?

Chỉ một bài kinh này cũng đủ xác định: Chứng đạo đâu phải khó khăn và thời gian chứng đạo đâu có lâu dài. Có đúng như vậy không các con?

Ðức Phật và các đệ tử của Ngàiđược vua Tịnh Phạn, quần thần và dân chúng đón tiếp long trọng. Ðược nghe đứcPhật thuyết pháp. Vua chứng ngay Sơ quả (Tu Ðà Hoàn). Khi nghe bài thuyết pháp thứ hai, nhà vua chứng quả Thánh thứ hai (Tư Ðà Hàm), còn bà dì Pajapati Gotami thì chứng Sơ quả. Lần thứ ba đức Phật giảng kinh Dhammapala Jataka cho vua cha và vua cha chứng Thánh quả thứ ba (A Na Hàm). Sách kể rằng: sau này trên giường bệnh vua cha được đức Phật về thăm và giảng pháp, Lần nghe pháp cuối cùng này, vua chứng quả A La Hán. Và sau bảy ngày tận hưởng lạc thú giải thoát, vua qua đời vào năm đức Phật tròn 40 tuổi”. (Lịch Sử Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, trang 36 do HT Minh Châu biên soạn).

Ðọc đoạn kinh trên đây chúng ta thấy mộtngười già như vua Tịnh Phạn khi nghe Phật thuyết pháp xong sống biết buông xả ly dục ly ác pháp liền chứng Sơ Quả; khi nghe bài pháp thứ hai liền chứng Nhị Quả; khi nghe bài pháp thứ ba liền chứng Tam Quả và lần nghe pháp cuối cũng đức Vua liền chứng quả A La Hán và nhập Niết Bàn. Như vậy Phật pháp đâu phải khó tu. Tu khó là do các con chịu ảnh hưởng của Ðại thừa và Thiền Tông, cứ lo tu tập ức chế ý thức cho hết vọng tưởng, nên tu khó và tu mãi chẳng đi đến đâu.

Thấy người xưa buông xả quá dễ dàng, còn ngày nay Thầy khô cổ giảng dạy sách tấn khích lệ các con buông xả:

“Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
Chớ giữ làm chi có ích gì?
Thở ra chẳng lại còn chi nữa.
Vạn sự vô thường buông xuống đi!”

Các con không dám buông xả nên từ năm này đến năm khác tu cứ giậm chân tại chỗ. Nhất là các con lại hiều sai sự chứng đạo của Phật, nên có gắng ức chế tâm cho hết vọng tưởng như trên đã nói. Thành ra tu tập cho tới bây giờ mà chưa có người nào chứng quả A La Hán. Quả A La Hán, tu tập đâu có khó khănnhư các đoạn kinh trên đã dạy. Thầy sẽ chứng minh thêm một phụ bản nữa để các con thấy sự chứng đạo của đạo Phật không có khó khăn.

Rahula (Hán dịch La Hầu La) là người con trai độc nhất của đức Phật, khi đức Phật còn là  hái tử. Lần đầu tiên đứcPhật trở về thăm cố đô và gia đình, sau ngày thành đạo, Rahula lên 7 tuổi, được mẹ là dì Gotami trực tiếp nuôi dưỡng, săn sóc. Mặc dù còn nhỏ tuổi, nhưng Rahulađược chấp nhận vào tăng đoàn, và đượcđức Phật giao cho ngài Xá Lợi Phất trực tiếp dạy dỗ.

Một trong những bài kinh nổi tiếng, đức Phật đích thân giảng cho La Hầu La sau khi La Hầu La xuất gia, là kinh Ambalatthika Rahulovada sutta, trong đó đức Phật nhấn mạnh tầm quan trọng của tánh trung thực, của sự phản tỉnh để trừ diệt mọi ý niệm, lời nói và hành vi bất thiện, bất chánh.

Nhờ luyện tập pháp tu định niệm hơithở, theo lời chỉ dẫn của đức Phật, và sau khi nghe giảng kinh Cula Rahulovada, Ngài La hầu La chứng quả A La Hán. Ngài qua đời trước Phật và Xá Lợi Phất.

Trong “Trưởng Lão Tăng Kệ”, sau khi Ngài chứng quả A La Hán, Ngài có bài kệ như sau:

Nhờ ta được đầy đủ
Hai đức tính tốt đẹp
Ðược bạn có trí gọi
La Hầu La may mắn
Ta là con đức Phật
Ta lại được pháp nhãn
Các lậu hoặc đoạn tận
Không còn có tái sanh
Ba minh ta đạt được
Thấy được giới bất tử”

Ðối với La Hầu La qua đoạn kinh trên chúng ta thấy La Hầu La có nghe pháp, có tu tập, rồi có chứng đạo, nhưng chứng đạo cũng không có khó khăn, thời gian cũng không lâu.

Như vậy, trong thời đức Phật người nào được nghe Phật thuyết pháp rồi quyết tâm từ bỏ ly dục ly ác pháp và cuối cùng người nào cũng chứng quả A La Hán hết, chỉ có những người nghe pháp rồi bỏ qua không chấp nhận và không thiết tha xả bỏ tham, sân, si, mạn, nghi thì không bao giờ chứng đạo được.

Muốn tu chứng đạo mà đời không dám bỏ thì tu làm sao chứng được. Trong bộ sách Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống tập II Phật dạy: “Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không nhà cửa, không gia đình”. Ðây là những giới luật đầu tiên cho người mới xuất gia theo Phật giáo. Người mới xuất gia là người phải buông xả sạch đời sống thế gian. Cho nên, những người nghe pháp xong liền xin Phật xuất gia thì không bao lâu họ sẽ chứng quả A la Hán, chính là do họ buông xả sạch đời sống thế tục.

Mười vị sứ giả của vua Tịnh Phạn sai đến mời Phật về thăm cố đô, nhưng khi gặp Phật nghe pháp liền xin xuất gia theo Phật tu hành không cần đến danh lợi, tiền của, vật chất, gia đình, vợ con, quan cao chức lớn. Có xả tâm như vậy mới có chứng quả A La Hán một cách dễ dàng và chỉ trong một thời gian ngắn mà thôi.

Ðể kết luận những lời tâm huyết này Thầy xin nhắc các con, hãy nên lưu ý pháp tu Tứ Niệm Xứ “Trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu; trên thọ quán thọ...; trên tâm quán tâm...; trên pháp quán pháp để nhiếp phục tham ưu”. Bài kinh dạy như vậy nhưng rất nhiều người hiểu sai thành thử chia pháp môn Tứ Niệm Xứ thành ra bốn pháp tu tập. Cho nên, có trường thiền chuyên tu QUÁN THÂN; có trường thiền chuyên tu QUÁN THỌ; có trường thiền chuyên tu QUÁN TÂM; có trường thiện chuyên tu QUÁN PHÁP. Ðây là một cái sai của các nhà học giả tu hành chưa tới nơi mà dám chia pháp môn Tứ Niệm Xứ, rồi đem dạy người tu tập thật là tội nghiệp. Pháp môn Tứ Niệm Xứ là pháp môn xả mọi chướng ngại trên thân tâm, cho nên nó mới được gọi là nhiếp phục tham ưu. Nhưng khi quán thân là đã có quán tâm, quán thọ và quán pháp.

Khi ngồi tu Tứ Niệm Xứ là không tu gì cả, chỉ ngồi chơi như người vô sự. Người vô sự thì tâm họ ở đâu? Ðã vô sự thì ý thức quán thân nó, chứ nó ở đâu? Quán thân không có nghĩa là nó đang tư duy suy nghĩ, quán ở đây có nghĩa là nó tỉnh giác cảm nhận toàn thân tức là nó đang quan sát thân. Cho nên, thân nó có chướng ngại gì thì nó liền biết; tâm nó có chướng ngại gì thì nó liền biết; thọ nó có chướng ngại gì thì nó liền biết; pháp có chướng ngại gì thì nó liền biết. Nhờ biết đó mà nó dùng pháp như lý tác ý đuổi đi các chướng ngại ra khỏi bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp. Khi các chướng ngại ra khỏi thân, thọ, tâm, pháp thì ý thức lúc biết thân, lúc biết thọ, lúc biết tâm, lúc biết pháp. Khi nó đang quán như vậy thì các con đừng tác ý khởi niệm, nếu khởi niệm là tâm các con đang phóng dật. Mục đích tu tập của TỨ NIỆM XỨ là tâm không phóng dật. Chỉ khi nào trên thân, thọ, tâm và pháp có chướng ngại pháp thì mới tác ý xả, còn không chướng ngại thì không tác ý. Các con đừng hiểu lầm xả từng niệm trong tâm, đó là các con tu sai pháp.

Các con nên lưu ý cách thức QUÁN Tứ Niệm Xứ, nếu không lưu ý các con sẽ quán sai thành ra quán ức chế tâm, chứ không phải quán Tứ Niệm Xứ.

Pháp môn này đức Phật tu tập 49 ngày đêm là chứng đạo. Thầy sáu tháng rưỡi chứng đạo. Ông Châu Lợi Bàn Ðặc cũng do tu tập pháp môn này mà chứng đạo. Vì thế, trước khi nhập Niết Bàn đức Phật đã di chúc lại cho người đời sau: “Hãy lấy giới luật và giáo pháp của Ta làm Thầy, đừng lấy ai làm thầy; làm ngọn đuốc soi đường, làm chỗ nương tựa vững chắc”.

Còn năm tháng nữa chúc các con chứng quả A La Hán để không phụ lòng Thầy mong đợi.

Thân thương chào các con.

Kính ghi,

Thầy của các con


Page 5

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích PGCĐLR, TG. 2010, tr. 05-12)
link sách: PGCĐLR

Kính thưa quý phật tử trong nước cũng như ở khắp nơi trên thế giới!

Kính thưa quý vị, chúng tôi viết sách là viết những điều mà mọi người chưa hiểu biết để giúp cho mọi người hiểu biết thêm một cách tường tận mà không còn hiểu sai lệch.

Chúng tôi không viết sách những điều mà người ta đã hiểu biết, những điều mọi người đã hiểu biết mà cứ để họ phải đọc đi đọc lại mãi thì rất nhàm chán và phí thời gian vô ích.

Theo chúng tôi hiểu đọc sách là mở mang kiến thức hiểu biết, cho nên khi đọc những điều chưa hiểu biết làm cho mình hiểu biết thêm những điều mới mẻ thì đó là bồi dưỡng kiến thức hiểu biết. Còn ngược lại chẳng lợi ích gì, còn mất công sức và làm tốn phí thời gian. Có phải vậy không thưa quý vị?

Vì thế, những người viết sách cần nên lưu ý các vấn đề này. Viết sách mà cứ nhai đi nhai lại mãi những điều người khác đã viết rồi thì cuốn sách không có giá trị.

Cho nên viết sách không có đề tài mới mẻ thì không nên viết. Vì viết sách không phải cầu danh, cầu lợi (buôn bán sách) mà viết vì lợi ích cho mọi người đọc.

Kinh sách đã bày bán đầy phố, đầy chợ, đầy các vĩa hè, những loại kinh sách như vậy còn có giá trị gì?

Cầm lên một cuốn sách đọc thử thì thấy văn chương chữ nghĩa toàn là trộm ý trộm lời của người khác.

Tại sao có rất nhiều đề tài mà mọi người chưa hiểu sao quý vị không viết mà lại đi trộm văn, trộm ý của người khác mà viết.

Ðề tài thứ nhất: con người có linh hồn hay không? Với đề tài này sao quý vị không viết cho mọi người biết?

Ðề tài thứ hai: Kinh sách Ðại Thừa chịu ảnh hưởng tư tưởng nào của người Trung Quốc?

Ðề tài thứ ba: Kinh sách Thiền Tông chịu ảnh hưởng tư tưởng nào của người Trung Quốc?

Ðề tài thứ tư: Những giáo pháp này đưa người tu hành đi đến đâu?

Ðề tài thứ năm: Những giáo pháp này có đúng là của Phật giáo hay không?

Ðề tài thứ sáu: Ðường lối tu theo Phật giáo như thế nào đúng và như thế nào sai?

Ðề tài thứ bảy: Cái gì sinh ra con người và con người chết đi về đâu?

Ðề tài thứ tám: Con người chết cái gì tiếp tục đi tái sinh?

Tám câu hỏi trên đây là những đề tài giúp cho quý vị viết những bộ sách có giá trị mà không phải nhai lại kiến giải của những người khác.

Chúng tôi viết sách thường chọn lựa những đề tài nào mà mọi người chưa hiểu, vì thế khi đọc sách chúng tôi đã làm cho quý vị có kiến thức hiểu biết rộng hơn.

Mọi người thường hiểu con người có linh hồn, cho nên chúng tôi viết sách chỉnh đốn lại sự hiểu sai như vậy là sai lầm, nhờ đó đề tài viết mới mẻ và phong phú làm cho người đọc càng say mê trong sự hiểu biết mới mẻ này.

Những đề tài của chúng tôi viết thường vượt lên mọi phong tục tập quán từ xưa đến nay và các triết lý tôn giáo. Vì thế làm cho tư tưởng con người bị đảo lộn không còn đứng vững trên lập trường tư tưởng truyền thống và tôn giáo của họ.

Càng viết chúng tôi càng cố gắng hơn để lột trần một sự thật để mọi người hiểu biết con người không có linh hồn đi tái sinh từ kiếp này đến kiếp khác.

Chúng tôi viết sách không có mục đích bài bác linh hồn hay kinh sách Ðại Thừa và Thiền Tông, nhưng vì một sự thật linh hồn không có và kinh sách Ðại Thừa và Thiền Tông có nhiều cái sai.

Những điều sai đó đã khiến cho mọi người lạc vào ảo tưởng trở thành những người bệnh thần kinh.

Vì thế chúng tôi không thể làm ngơ, cho nên những gì chúng tôi viết trong sách là cố gắng giúp cho mọi người hiểu biết những điều chưa hiểu biết, giúp cho mọi người hiểu biết một sự thật mà không một người nào hay một tôn giáo nào lừa gạt quý vị được.

Kính thưa quý vị! Trong cuộc đời không ai là người thông suốt tất cả trời, đất, vũ trụ và con người, không có ai là người hoàn toàn đầy đủ tài đức, cũng không có ai là người thông thiên bác cổ chỗ nào cũng thông suốt.

Vì thế chúng tôi rất hiểu biết mình, nên chúng tôi viết là viết những điều hiểu biết đã cân nhắc kỹ lưỡng. Những điều hiểu biết đó chúng tôi xin góp ý với quý vị để giúp cho quý vị cùng hiểu biết như chúng tôi, nếu quý vị muốn, còn không thì thôi. Ðó cũng là sự chia sẻ hiểu biết cùng quý vị chớ chúng tôi đâu dám làm thầy quý vị, xin quý vị hiểu và tha thứ.

Kính ghi,

Trưởng Lão Thích Thông Lạc


Page 6

(Trưởng lão Thich Thông Lạc, trích NPTCB, tập 3, TG. 2011, tr.19-33)
link sách: NPTCB, tập 3

Định Vô Lậu câu hữu với Tập Đế, tức là chúng ta quán xét nguyên nhân sanh khởi sự khổ đau của con người để thấu rõ nó, có thấu rõ nó chúng ta mới cố gắng ngăn chặn diệt trừ và đoạn dứt.

Vậy Tập Đế là gì? Chữ Tập có nghĩa là nơi tập hợp mọi sự đau khổ, phiền não của con người, Tập còn có nghĩa là nơi chứa nhóm, dồn thêm mỗi ngày một nhiều hơn. Chữ Đế có nghĩa là sự thật, đúng đắn không sai. Tập Đế là một nguyên nhân của mọi sự khổ đau đã chứa nhóm và tích trữ lâu đời nhiều kiếp trong mỗi chúng sanh. Nói một cách khác hơn đó là cội gốc sanh tử luân hồi của loài người.

Cội nguồn sanh ra mọi sự đau khổ phiền não của con người gồm có 10 phiền não gốc là:

1/ Tham, có nghĩa là lòng tham lam: “Tánh tham có động lực bắt ta phải dòm ngó, theo dõi những cái gì nó ưa thích, như tiền tài, danh vọng, miếng ăn, chỗ ở, v.v... rồi nó xúi ta lập mưu nầy, chước nọ để tầm kiếm cho được những thứ ấy. Điều tai hại nhất là lòng tham không đáy, thâu góp bao nhiêu cũng không vừa; được một muốn có mười, được mười muốn có trăm. Tham cho mình chưa đủ, và còn tham cho bà con quyến thuộc và xứ sở của mình. Cũng vì tham mà ăn không ngon, ngủ không yên; cũng vì tham mà cha mẹ vợ con xung đột; cũng vì tham mà bè bạn chia lìa; cũng vì tham mà đồng bào trở lại xung đột, xâu xé nhau; cũng vì tham mà chiến tranh tiếp diễn, giết hại không biết bao sanh linh. Tóm lại cũng vì tham mà nhân loại và chúng sanh chịu không biết bao nhiêu điều thống khổ”. Lòng tham đã mang đến không riêng cho chúng ta khổ mà còn cả mọi người, không những trong quá khứ, hiện tại mà còn có thể kéo dài trong tương lai nữa.

2/ Sân, có nghĩa là nóng giận: «Khi gặp những cảnh trái ý nghịch lòng, như lòng tham không được toại nguyện, thì sân nổi lên, như một ngọn lửa dữ đốt cháy lòng ta. Thế là mặt mày đỏ tía hay tái xanh, bộ dạng thô bỉ, nói năng hung dữ, có khi dùng đến võ lực hay vũ khí để hạ kẻ làm trái ý, phật lòng mình. Vì nóng giận mà cha mẹ, vợ con, anh em xa lìa, bạn bè ly tán; vì nóng giận mà mọi người trở nên thù địch, nhân loại đua nhau ra chiến trường; vì nóng giận mà kẻ bị tàn tật, người vào khám đường, kẻ mất địa vị, người tan sự nghiệp». Kinh dạy: “Nhất niệm tâm sân khởi, bách vạn chướng môn khai” có nghĩa là một niệm nóng giận nổi lên thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra. Sách xưa dạy: “Nhất sân chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn”, có nghĩa là một đóm lửa giận, có thể thiêu đốt sạch muôn mẫu rừng công đức. Thật vậy, lửa sân hận đã bừng cháy lên giữa lòng nhân loại và đã đốt thiêu không biết bao nhiêu công lao, sự nghiệp mà con người đã tốn biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt mới tạo ra được.

3/ Si, có nghĩa là si mê, mờ ám, biết không rõ, không chính xác, không đúng: «Si như là một tấm màn dày đặc, đen tối trùm lên trí tuệ của ta, làm cho ta không thể nhìn thấy được sự thật, không thể phán đoán được cái hay cái dở, cái tốt, cái xấu». Do đó ta gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi, làm hại mình hại người mà không hay, Vì si mà lòng tham trở thành không đáy, bởi vì nếu người sáng suốt thấy cái tai hại của lòng tham, thì người ta đã kềm hãm được một phần nào tánh tham, Vì ngu si mà lửa giận bùng cháy; nếu người sáng suốt biết cái tai hại của lửa sân thì không để cho nó hoành hành như thế. Người xưa dạy: “Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác tri”. Có nghĩa là không sợ tâm tham và sân, mà chỉ sợ tâm si mê. Nếu tâm tham sân nổi lên mà có trí tuệ sáng suốt ngăn chặn lại, thì lòng tham sân phải bị dập tắt, không còn làm gì được cả. Cho nên Đạo Phật lấy trí tuệ làm đầu, nếu đã có trí tuệ sáng suốt thì lòng tham sân không thể tồn tại được cũng như khi đã có ánh sáng mặt trời lên thì bóng tối tất nhiên phải tan biến. Đức Phật thường gọi tham sân si là ba độc, nó thường làm đau khổ chúng sanh và phải chịu nhiều kiếp sanh tử luân hồi, đọa vào ba cõi địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.

4/ Mạn, có nghĩa là ngã mạn, kiêu căng, tự đắc: «Là nâng cao mình lên và hạ người khác xuống; tự thấy mình là quan trọng mà khinh rẻ mọi người; ỷ mình có tiền của tài trí, có học thức, có cấp bằng cao như thạc sĩ, tiến sĩ hay có quyền thế mà sanh tâm dương dương tự đắc, mục hạ vô nhân, khinh người già cả, hỗn láo với người đức hạnh, chà đạp kẻ dưới, lấn lướt người trên. Vì lòng ngã mạn tự kiêu tự đại cho mình là hơn hết nên chẳng chịu học hỏi thêm những điều hay lẻ phải. Do đó làm nhiều điều lầm lẫn sai quấy, gây ra bao nhiêu tội ác, phước lành tổn giảm, tội lỗi càng tăng, cho nên phải chịu sanh tử luân hồi muôn đời ngàn kiếp. Mạn có bảy thứ: Mạn: Nghĩ mình hơn nghĩ người. Ngã mạn: Ỷ mình hay giỏi mà lấn lướt người.

Quá mạn: Mình bằng người mà cho là hơn người, người hơn mình mà cho là bằng. Mạn quá mạn: Người hơn mình nhiều mà cho mình hơn người.

Tăng thượng mạn: Chưa chứng Thánh quả mà cho mình đã chứng.

Ty liệt mạn: Mình thua người nhiều mà nói mình thua ít.

Tà mạn: Người tu về tà mạn được chút ít thần thông, hoặc hiểu biết đôi chút việc quá khứ, vị lai, rồi khinh lướt người khác xem trời đất không còn ai.

5/ Nghi, có nghĩa là lòng nghi ngờ, ngờ vực, không tin: Người nghi ngờ không làm được việc gì hết. Đối với người thân trong gia đình, họ không tin cậy giao phó công việc; đối với bạn bè, họ nghi ngờ tất cả mọi thiện chí. Ngay đối với họ, họ cũng không tự tin nữa. Đã không tự tin, họ còn gây hoang mang cho người chung quanh, làm cho người ta ngã lòng thối chí. Đối với đạo lý chân chánh như Đạo Phật có một nền đạo đức nhân bản giải thoát tuyệt vời mà họ cũng không tin, nhưng họ lại tin theo tà giáo và những pháp môn mê tín, trừu tượng của kinh sách phát triển. Trong sự nghi ngờ có ba phương diện:

a) Tự nghi, có nghĩa là nghi mình. Chẳng hạn như đọc kinh sách Đức Phật dạy: “Tu hành sẽ được giải thoát”, nhưng lại tự nghĩ rằng: “Chẳng biết mình tu có được không?” Vì lòng do dự nghi ngờ ấy, nên không chịu tu hành.

b) Nghi pháp, có nghĩa là nghi phương pháp mình đang tu. Chẳng hạn như nghe kinh Tứ Chánh Cần dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp” thì sẽ được giải thoát ngay liền hay như trong kinh Pháp Cú dạy: “Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý. Thị chư Phật Giáo”. Do sự nghi ngờ lời dạy này không biết kết quả có đúng hay không ? Nên không tu tập.

c) Nghi nhân: có nghĩa là nghi người dạy mình, không tin ông Thầy dạy mình, nghi pháp mình đang tu không đúng là chánh pháp của Phật. Khi chính pháp của Phật dạy mà mình nghi là không phải pháp của Phật thì đó là mình đã mất pháp chân chánh. Còn Thầy dạy mình tu học mà mình nghi Thầy mình là mình đã bị đứt đầu không còn cách nào cứu chữa được.

Ở tại tu viện Chơn Như chúng tôi có một số đệ tử ham mê thần thông, nhưng chúng tôi không thể hiện thần thông, nên họ mất niềm tin và không theo tu tập với chúng tôi nữa. Mục đích tu viện của chúng tôi hướng dẫn tu tập xả tâm ly tham đoạn diệt các ác pháp để đạt được tâm giải thoát không còn phiền não, khổ đau, không còn tham sân, si, mạn, nghi nữa, giúp cho con người có một đời sống đạo đức không làm khổ mình khổ người, đấy là hạnh phúc là giải thoát chứ không phải ngồi thiền nhập định năm bảy ngày hoặc kiến tánh thành Phật, hoặc tụng kinh niệm chú cho có thần thông phép lạ hoặc niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc Tây Phương v.v... Ở đây chúng tôi dạy đúng theo đường lối tu tập của Đạo Phật là hằng ngày không có tụng niệm lần chuỗi ngồi thiền ức chế tâm, mà chỉ có sống đúng giới luật và theo như những lời dạy trong kinh Tăng Chi tập 3 trang 30: “Ở đây này các hiền giả, Tỳ Kheo ưa công việc, thích thú công việc; ưa nói chuyện, thích thú nói chuyện; ưa ngủ nghỉ, thích thú ngủ nghỉ, chuyên tâm ưa thích ngủ nghỉ; ưa hội chúng , thích thú hội chúng, chuyên tâm ưa thích hội chúng, ưa liên lạc giao thiệp, thích thú liên lạc giao thiệp, chuyên tâm ưa thích liên lạc giao thiệp; ưa hý luận, thích thú hý luận, chuyên tâm thích hý luận. Như vậy, này các hiền giả, Tỳ Kheo sống nếp sống như vậy, khi lâm chung không được hiền thiện, khi mệnh chung không được hiền thiện. Này các Hiền giả, đây gọi là Tỳ Kheo ái lạc có thân, không từ bỏ có thân để chân chánh chấm dứt khổ đau”. Đây là lời dạy chân chánh của Đức Phật, muốn tu theo Đạo Phật thì phải tu đúng pháp, sống đúng pháp như lời dạy thì mới có sự giải thoát. Còn tổ chức Gia đình Phật tử này, Đạo tràng nọ thì chỉ là một hình thức Phật giáo Đại Thừa, chứ tu tập chẳng có kết quả gì chỉ là một trò giải trí lành mạnh như bao nhiêu trò giải trí lành mạnh khác của xã hội, đó là những người đi tìm ái lạc của thân vì họ là những người dư thừa thời gian không biết làm gì cho hết tuổi đời. Nếu không từ bỏ những trò giải trí này thì không bao giờ chân chánh chấm dứt sự khổ đau. Nếu quý vị không tin lời chúng tôi nói thì nên đọc lại đoạn kinh trên rồi suy ngẫm và xét lại từ xưa đến nay biết bao nhiêu Đạo tràng và Gia đình Phật tử họ đã được giải thoát những gì với con đường giải thoát này. Đối với Đạo Phật thời gian sinh hoạt của quý vị rất là uổng phí khi: “Được thân người là khó ”, nên Đức Phật đã nhắc nhở:

“Tấc bóng thời gian một tấc vàng Tấc vàng tìm được không gì khó,

Tấc bóng thời gian khó hỏi han”.

Thế mà quý vị sinh hoạt như vậy gọi là tu, tu như vậy phỏng có giải thoát được những gì? Quý vị cứ nhìn lại bản thân của quý vị thì quý vị sẽ thấy, nếu chúng tôi nói thẳng thừng thì quý vị không ưa chúng tôi chứ quý vị chỉ là một con cờ cho người khác sử dụng nước cờ tôn giáo chứ quý vị tu như vậy dù tu một triệu năm nữa cũng chưa thấy và hiểu biết giải thoát như thế nào? Chúng tôi dạy đúng như Phật dạy cấm không cho tu sĩ tập hợp nói chuyện thì họ không thích, họ muốn tu tập theo kiểu Đại Thừa, sinh hoạt như các Đạo tràng và các Gia đình Phật tử, họ khoái hội hợp thích vui chơi, nói chuyện. Chỗ tu hành của chúng tôi là chỗ tu tìm sự giải thoát, làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người sanh, già, bịnh, chết và chủ động đi vào con đường hoá sanh chứ không chấp nhận chịu bó tay sanh nơi dâm dục bất tịnh ô trược bẩn thỉu hôi thúi và khổ đau. Vì thế, ai muốn tu được thì hãy sống đúng như lời Đức Phật đã dạy, như chúng tôi đã dạy, nếu không sống được thì đừng nên theo Đạo Phật tu hành, chẳng có ích lợi gì mà còn làm cho kẻ khác phỉ báng Phật Giáo. Đạo Phật không cầu mong có nhiều người tu mà phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới, vô đạo đức làm người, làm Thánh thà chỉ cần ít người hay một người tu đúng pháp có giới đức hẳn hoi, có một đời sống phạm hạnh của bậc Thánh Tăng thì Phật Giáo mới còn rực rỡ trên thế gian này, dù chỉ có một người còn hơn đi đâu cũng gặp Tăng sĩ mà đời chẳng đời, đạo chẳng đạo, họ sống với những nghề nghiệp lừa đảo thiên hạ thật là đau lòng cho Phật Giáo ngày nay. Giữa ban ngày thắp đuốc lên đi tìm một bậc giới đức khắp trên thế gian này không bao giờ có, toàn là những tu sĩ phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới v.v... Nếu quý vị thấy sống không kham nổi trong giới luật của Phật, thì quý vị đi tu làm gì, để phạm giới, phá giới như vậy, có ích lợi gì cho quý vị và cho người khác, nếu quý vị sống không kham, thì quý vị ra đời mà sống, sống trong chùa mà bày ra những trò mê tín, dị đoan, cúng bái, tế lễ, xin xăm bói quẻ v.v... đó là đi ngược lại Phật giáo, cũng như quý vị thuyết giảng hý luận trừu tượng mơ hồ bằng lối chơi chữ để lừa đảo những người nhẹ dạ dễ tin để cầu được sự cúng dường.

Tóm lại quý vị muốn tu theo Đạo Phật thì quý vị phải nghiên cứu Phật Giáo cho kỹ, nếu thấy chúng tôi dạy đúng thì xin vào tu, còn nếu thấy chúng tôi dạy không đúng thì quý vị đừng xin vào tu thử, vì sự tu thử sẽ làm quý vị phí thì giờ vô ích mà còn sanh tâm nghi ngờ chánh pháp của Phật, tạo thêm tội lỗi như quý thầy: Thầy Chơn Đức, Thầy Từ Minh, Thầy Minh Tông, Thầy Thiện Thiền v.v... họ đã trở thành những người đệ tử bất nghĩa muôn đời ngàn đời để lại tiếng đời không tốt cho mai sau.

Tánh nghi ngờ làm cản trở sự tiến triển tu hành cũng như những sự việc khác, làm ngăn ngại mọi công tác hữu ích cho mình cho xã hội và cũng vì tâm nghi ngờ khiến cho cuộc đời không vượt khỏi cảnh tối tăm khổ sở.

6/ Thân kiến: Có nghĩa là vì không rõ nên lầm chấp thân ngũ uẩn tứ đại giả hợp này cho là Ta, là của Ta, là bản ngã của Ta: «Vì cái chấp sai lầm ấy, nên thấy có một cái TA (Ngã) riêng biệt, chắt thật không biến đổi, thấy cái Ta ấy là riêng của Ta, không dính dấp đến người khác, và xem nó là một thứ rất quý báu». Vì tưởng lầm như vậy, nên kiếm món ngon vật lạ cho Ta ăn, may sắm quần áo tốt đẹp cho Ta mặc, lo xây dựng nhà cao cửa lớn cho Ta ở, thâu góp thật nhiều của cải, đất ruộng để dành cho Ta dùng, kiếm công danh chức tước, địa vị cho Ta hãnh diện với mọi người. Do sự quý chuộng cung phụng cho cái Ta ấy, mà tạo ra lắm điều tội lỗi, chà đạp lên bao nhiêu cái Ta khác, làm cho họ đau khổ vì Ta. Và thế giới trở thành một bãi chiến trường cũng vì cái Ta.

Chúng ta hằng ngày chịu nhiều đau khổ cũng chính vì Thân kiến tức là cái kiến chấp về thân. Nó là một trong bảy kiết sử trói buộc và sai sử chúng ta như một tên nô lệ rất khó mà bứt bỏ, nếu không có pháp như lý tác ý của Đức Phật dạy thì khó có pháp nào diệt thân kiết sử này được, nếu hằng ngày chúng ta không siêng tu pháp như lý tác ý thì chẳng bao giờ chúng ta bứt sợi dây thân kiết sử này được, cho nên Đức Phật thường nhắc đi nhắc lại câu pháp hướng này: “Thân này không phải là Ta, không phải của Ta, không phải bản ngã của Ta”. Câu này quý vị nên nhớ mà hướng tâm hằng ngày đừng nên biếng trễ và xem thường, đó là lời tâm huyết mà Đức Phật đã dạy cho chúng ta vì thương tưởng chúng ta vô minh mà lầm chấp thân kiến chịu khổ muôn đời.

7/ Biên kiến: Có nghĩa là chấp một bên, nghiêng về một phía, đó là những thành kiến rất cực đoan. Biên kiến có nhiều lối chấp sai lầm lớn nhất là:

a/ Thường kiến. Thường kiến là một loại luận thuyết mơ hồ trừu tượng, cho rằng người chết còn linh hồn cho rằng có thế giới siêu hình, có bản thể vũ trụ, có Tiểu ngã, Đại ngã, có Thần thức, có Phật Tánh, có Thiên Đàng, có Địa ngục, có Ngọc Hoàng Thượng Đế, có Chúa Trời, có Thần, Quỷ, Ma v.v... Những người chấp thường kiến là những người thường sống trong mê tín, lạc hậu, sống trong mộng tưởng, xây dựng cảnh giới siêu hình thường cầu cúng tế, lễ bái và ước vọng làm những điều thiện để khi chết được sanh lên Cực Lạc Thiên Đàng của cõi Trời cõi Niết Bàn hay cảnh giới chư Phật. Thiền Tông, Mật Tông đều thuộc về thường kiến.

b/ Đoạn kiến: Đoạn kiến là một loại luận thuyết chết cứng, khô cằn, chết là hết không còn gì cả, loại luận thuyết này, khiến cho con người mất hết niềm hy vọng về tương lai. Cho nên người ta đặt ra câu hỏi: “Tương lai không có thì hiện giờ làm để làm gì? Ngày mai chết là hết", vì vậy con người chấp đoạn kiến thì làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu chẳng còn biết nghĩ đến ai cả, sống chỉ quay cuồng trong dục lạc, ăn uống vui đùa trụy lạc, xì ke, ma túy, rượu chè bê bết, sống theo Thuyết Hiện Sinh không có ngày mai: «Đối với hạng người chấp đoạn kiến, thì hễ tắt thở là không còn gì tồn tại nữa; tội cũng không mà phước lại cũng chẳng có. Họ không tin nhân quả luân hồi, nên mặc tình làm các điều tội lỗi». Họ tự bảo: “Tu nhân tích đức già đời cũng chết; hung hăng bạo ngược tắt thở cũng không còn”. Vì chấp đoạn kiến, có người đứng trước cảnh thất tình, thất vọng, hoặc gặp cảnh buồn lòng nghịch ý, tưởng rằng chết là hết đau khổ, là giải thoát tất cả khổ, nên họ không ngần ngại mượn chén thuốc độc, hay dòng sông sâu hoặc sợi dây oan trái để kết liễu đời mình. Họ đâu có ngờ rằng chết rồi vẫn chưa hết! Họ đâu biết rằng luật nhân quả nghiệp báo là một vật thường hằng bất biến của môi trường sống, ngoài những hành động thiện ác của loài động vật ra khi chết, không có gì còn lại cả. Chính vì những hành động của loài đông vật là một tác nhân tạo ra nghiệp, cho nên Đức Phật dạy: “Nghiệp là cha đẻ ra con người, con người là thừa tự nghiệp”. Như thế làm sao gọi là đoạn kiến. Khi chết trong ác nghiệp khổ đau thì nghiệp khổ đau ấy vẫn phải tiếp tục tái sanh trong nghiệp nhân quả đau khổ kế tiếp. Người chấp đoạn kiến là những người không thông suốt môi trường sống hợp duyên của các pháp. Trong môi trường sống này không có một vật gì sanh ra mà đơn điệu toàn là các pháp hợp lại tạo thành.

Ví dụ 1: không thể có một người đàn ông cũng như một người đàn bà đơn điệu tự một mình sanh ra con được, mà phải có hai người nam nữ lấy nhau tạo duyên ngũ uẩn hòa hợp mới thành ra con người.

Ví dụ 2: Không thể lấy một cây cột, lấy một tấm tôn, một miếng vách mà bảo rằng vật đó là cái nhà được, một cái nhà phải có các vật hợp lại như: cột, kèo, vách, tôn, cửa cái, cửa sổ rồi tạo dựng ra cái nhà.

Đó là các pháp trong môi trường sống này đều do duyên hợp mà thành, nhưng bảo rằng khi hoại diệt thì không còn gì hết là sai (đoạn kiến) mà bảo rằng còn thì cũng sai (thường kiến), đó là hai cái sai của những lý luận này.

c/ Vừa thường vừa đoạn kiến: Có một luận thuyết cho rằng các pháp trong thế gian này vừa có vừa không như Ngài Long Thọ: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”, đó là lối lý luận trườn uốn như con lươn, để rồi Ngài đẻ ra trí tuệ Bát Nhã Chơn Không thành ra thường kiến, cuối cùng Ngài cũng như các nhà thường kiến khác, nhưng giỏi khéo lý luận để che mắt thiên hạ, chứ kỳ thực Chơn Không của Ngài đâu có khác gì thần thức, linh hồn, đại ngã, Phật tánh, bản thể vạn hữu, chỉ có khác là danh từ mà thôi. Do những lý luận này đã biến những tu sĩ Phật Giáo thành những nạn nhân bỏ biết bao nhiêu công lao sức lực tu hành rốt cùng cũng chẳng ra gì, khổ đau cũng hoàn khổ đau, chẳng có ai làm chủ sanh, già, bịnh, chết cả.

8/ Kiến thủ: Có nghĩa là chấp chặt sự hiểu biết sai lầm của mình có ba trường hợp:

a) Kiến thủ, vì ảnh hưởng tư tưởng của người khác: Khi học hiểu một điều gì do lý luận của các nhà tư tưởng như tưởng Chơn Không, Phật Tánh, v.v… Cũng như thấy những hiện tượng nhập đồng nhập cốt do cô cậu hoặc linh hồn người chết oan nhập vào nói đâu trúng đó rồi cho đó có linh hồn người chết, có thế giới siêu hình rồi chấp chặt ai nói gì cũng không tin. Không ngờ thế giới siêu hình là do tưởng uẩn tạo thành chứ không có thế giới siêu hình thật sự. Do sự chấp chặt này họ phải chịu thiệt thòi nhiều mặt về sự tu hành cũng như về đời sống.

b) Kiến thủ vì không ý thức được sự sai lầm của mình: Hành vi của mình sai quấy, ý kiến của mình sai lầm, nhưng vì không đủ sáng suốt để nhận thấy, nên cứ bảo thủ hành vi, ý kiến của mình, tự cho mình là hay là giỏi, ai nói gì cũng chẳng nghe.

c) Kiến thủ vì tự ái hay vì ngoan cố cứng đầu: Biết mình làm như thế là sai, nói như vậy là không đúng, lỡ lời, nhưng vì tự ái cứ bảo thủ cái sai cái không đúng của mình, không chịu thay đổi, không chịu sám hối, xin lỗi, không chịu từ bỏ, xa lìa. Ví dụ: như trước kia ông bà đã lỡ theo tà giáo, ngoại đạo, nay con cháu vẫn biết đó là tà giáo nhưng cứ theo mãi không dám bỏ, cho đó là tôn giáo truyền thống của Tổ Tiên, ông bà để lại không được bỏ, mặc dù tôn giáo đó dạy những điều phi đạo đức, phi nhân quả, thường dạy những điều cầu cúng, mê tín, lạc hậu v.v... Có người còn nói một cách liều lĩnh, ngu si: “Xưa sao nay vậy” hay “Xưa bày nay làm”. Cũng như cha mẹ trước là nghề nghiệp ác chài lưới, săn bắn hoặc làm nghề đồ tể, bán thịt sống, thịt chết, mãi dâm; nghề sát phạt bài bạc rượu chè, thuốc phiện, xì ke ma túy v.v... đó là những nghề ác độc tội lỗi, đến con cháu vẫn cứ bảo thủ nghềấy, không chịu thay đổi nghề khác.

Nhìn rộng ra xã hội bên ngoài, có một số đông người, mặc dù thời đại của chúng ta hiện giờ, con người đã có nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật hiện đại hóa đời sống, thế mà người ta cứ vẫn giữ lại những lề lối cổ tục hủ bại, hễ trong nhà có người chết là giết heo bò để cúng kiến, rước thầy chùa tụng kinh để cầu siêu linh hồn trong khi ông thầy tụng chưa độ được ổng siêu, mà ông đi cầu siêu cho kẻ khác thì việc làm đó là một điều ngu si, khi đưa đám tang thì rải giấy tiền vàng mã; mỗi khi tuần tự hay giỗ kỵ thì lại đốt giấy tiền vàng mã nữa và quần áo kho đụn phướng xá. Hằng năm cứ vào ngày rằm tháng ba âm lịch thì Ban Tế Tự tập họp dân chúng làm lễ kỳ an cúng tế tà Thần, ác quỷ, v.v... Làng xã chấp chặt những hủ tục mê tín lạc hậu như thế mà còn cho đó là “Văn hóa truyền thống của đân tộc” không được bỏ. Những việc làm đó đều thuộc về kiến thủ.

9/ Giới cấm thủ, Có nghĩa là làm theo, sống theo giới cấm của ngoại đạo, tà giáo, những giới cấm của tà giáo ngoại đạo này phần nhiều vô lý phi đạo đức, mê muội, dã man v.v... Những giới cấm này khiến cho con người bất hiếu và tự làm khổ mình: Các giáo phái ngoại đạo ở Ấn Độ lấy đá dằn bụng, đứng một chân giữa trời nắng, nằm trên chỗ bẩn thỉu, leo lên cao nhảy xuống, gieo mình vào lửa, nhảy xuống sông trầm mình chịu lạnh lẽo để được phước, chặt hoặc đốt một lóng tay, có người chặt nguyên một cánh tay để cầu pháp. Những thứ cuồng tín như thế, không làm cho cuộc đời sáng sủa, mà còn làm cho đen tối và khổ đau thêm. Giới cấm thủ này chúng ta thấy trong kinh Pháp Hoa Phẩm Tựa dạy cúng dường thân mạng hoặc một phần thân mạng để cầu pháp giải thoát, khiến cho những người cuồng tín chặt hoặc đốt ngón tay, hủy hoại cơ thể của mình không tật nguyền mà thành tật nguyền, không khổ mà làm thêm khổ, đó là giới cấm thủ hay còn gọi là những giáo điều của ngoại đạo.

10/ Tà kiến, có nghĩa là chấp chặt theo lối không chân chánh, trái với sự thật, trái với luật nhân quả, phi đạo đức như trong kinh Pháp Hoa Phẩm Phổ Môn, Bồ Tát Quan Thế Âm cứu khổ cứu nạn chúng sanh, đó là tà kiến phi đạo đức, phi nhân quả, mê tín: Tà kiến nghĩa là mê tín, dị đoan, như thờ đầu trâu, đầu cọp, bình vôi, ông táo, xin xâm, bói quẻ, buộc tôm đeo niệt, coi sao, cúng hạn v.v... Nói rộng ra những kiến chấp trên đều thuộc về tà kiến cả. Nghĩa là trên đời này cái gì ý thức không hiểu được mà dùng tưởng thức để hiểu, hiểu như vậy là hiểu một cách mơ hồ, trừu tượng, không rõ, không thực tế, không cụ thể đều được gọi là tà kiến. Khi tu Định Vô Lậu câu hữu với Tập Đếthì chúng ta sống trong thực tế, cái gì ý thức hiểu biết cụ thể thực tế hoàn toàn. Còn ngoài ra không tin một cái gì cả, phần nhiều người ta thường hay sống trong tưởng thức nên người ta phải chịu khổ. Ví dụ: Người ta chửi mình đồ chó, đồ trâu mình tưởng ra mình là chó trâu, nên mình sanh tức giận chửi mắng lại họ, cũng nhưngười ta chửi mình: “Tao đào mồ mả cha mày lên”, mình tưởng rằng họ đào mồ mả cha mình chứ sự thật họ đâu có đào, thế mà mình sống trong tưởng rồi sanh ra tức giận chửi mắng đánh với nhau, khiến cho làm khổ cho nhau, thật là tà kiến điên đảo và sống không thực tế, tạo cảnh mình khổngười khác khổ chẳng có ích lợi gì cả.

Ví dụ: Người ta chửi mình là đồ ăn cắp, ăn trộm mình tự ái sợngười khác không hiểu mình, sanh ra nghi ngờ mình ăn cắp, ăn trộm thì xấu hổ, cái tự ái sợ hãi người ta nghi ngờ mình nên mình tức giận và buồn khổ trong lòng mãi mãi, đó là mình sống trong tưởng, chứ sự thật mình có ăn trộm ăn cắp đâu mà sợ. Con người ở đời thường sống trong tưởng, tức là sống trong tà kiến nên luôn luôn chịu khổ đau tức giận sanh ra thù hận không nguôi, tạo ra nhiều điều ác đức tội lỗi, rồi lại còn tiếp tục bằng cách trả thù, trả oán cho đã cơn giận. Cho nên khi chúng ta biết áp dụng Định Vô Lậu kết hợp với Tập Đế thì chúng ta không còn sống trong tưởng, nói cách khác là chúng ta không còn sống trong tà kiến.


Page 7

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NLGPD, tập 4, TG. 2010, tr. 125-132)
link sách:  NLGPD, tập 4

LỜI PHẬT DẠY:

“Này các Tỳ kheo! Có thể có Tỳ kheo nói: “Này Hiền giả, tôi tự thân nghe từ miệng Thế Tôn, tự thân lãnh thọ như vậy là pháp, như vậy là luật, như vậy là lời dạy của vị Ðạo sư”. Này các Tỳ kheo, các Ngươi không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỳ kheo ấy.

Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu, cần phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với kinh, đối chiếu với luật. Khi đem so sánh với kinh đối chiếu với luật, nếu chúng không phù hợp với kinh, không tương ưng với luật thời các ngươi có thể kết luận: “Chắc chắn những lời này không phải là lời của Thế Tôn và Tỳ kheo ấy đã thọ giáo sai lầm”.

Và này các Tỳ kheo, các ngươi hãy từ bỏ chúng; khi đem so sánh với kinh, đem đối chiếu với luật và nếu chúng phù hợp với kinh, tương ưng với luật, thì các Ngươi có thể kết luận: “Chắc chắn những lời dạy này phải là lời dạy của Thế Tôn và Tỳ kheo ấy đã thọ giáo chơn chánh”. Này các Tỳ kheo như vậy là đại giáo pháp thứ nhất, các ngươi hãy thọ trì”. (Kinh Trường Bộ, tập 1, trang 618, kinh Ðại Bát Niết Bàn)

CHÚ GIẢI:

Trước khi vào Niết Bàn đức Phật đã biết chắc người đời sau sẽ kiến giải, tưởng giải làm sai lệch giáo pháp của mình, nên Ngài đã di chúc lại những lời sau cùng này để chúng ta cẩn thận đối chiếu với kinh sách Nguyên Thủy và kinh sách Ðại Thừa. Khi đối chiếu chúng ta mới nhận xét kinh sách Nguyên Thủy dạy đạo đức làm Người làm Thánh, đó là “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” hoặc “Ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng thiện pháp”, còn kinh sách Ðại Thừa dạy: “Cúng bái cầu siêu, cầu an, tụng kinh, niệm Phật, niệm chú, ngồi thiền ức chế tâm, lạy hồng danh sám hối cho tiêu tội, v.v...”. Như vậy kinh sách Ðại Thừa dạy mê tín, sống trong thế giới ảo tưởng (Niết Bàn, Cực Lạc Tây Phương).

Ðem giới bổn Ba La Ðề Mộc Xoa của các Tổ ra đối chiếu với giới kinh của Phật, thì chúng ta thấy giới bổn không phù hợp, không tương ưng với giới kinh một bên thì ngăn cấm như pháp luật, không đúng với tinh thần tự giác, tự nguyện của đạo Phật. Còn giới kinh dạy đạo đức làm Người làm Thánh để tâm hoàn toàn vô lậu và đúng theo tinh thần tự giác tự nguyện không có bắt buộc, không có khuyến dụ, không có mua chuộc. Cho nên, giới bổn Ba La Mộc Xoa Ðề và kinh sách Ðại Thừa chắc chắn không phải Phật thuyết, do các Tổ chịu ảnh hưởng kinh Vệ Ðà của Bà La Môn biên soạn ra, nên không phù hợp và không tương ứng với những lời Phật dạy. Ðúng vậy khi đem ra so sánh chúng ta thấy rằng kinh sách Ðại Thừa không phải Phật thuyết 100%. Cho nên, những lời di chúc cuối cùng của đức Phật đã dạy chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng để không bị những kiến giải, tưởng giải của các Tổ lường gạt. Như vậy, rõ ràng đức Phật đã biết trước, sau này các Tổ sẽ làm sai lệch kinh sách Phật, cho nên Ngài đã chuẩn bị cho người đời sau còn có chỗ dựa vững chắc để loại trừ những tà pháp của ngoại đạo đang pha trộn trong giáo pháp Nguyên Thủy của Phật.

Ðọc đoạn kinh này các bạn còn nghi ngờ chúng tôi nói kinh sách Ðại Thừa và Thiền Tông sai nữa không?

Những Giáo pháp phát triển sau thời đức Phật đều mang tính trừu tượng, mơ hồ, mê tín, ảo tưởng, không thực tế, nó được truyền thừa từ nước này sang nước khác, trong một thời gian khá dài trên 2000 năm. Cho nên, những kinh sách này được kết tập bởi những người tu hành chưa chứng đạo, thành một tạng kinh xô bồ, không biết bài kinh nào tu trước, bài kinh nào tu sau. Trong khi giáo lý của Phật giáo được chia ra làm 8 lớp học và ba cấp rõ ràng, nó là một chương trình giáo dục đào tạo con người có đầy đủ đạo đức nhân bản - nhân quả, xây dựng lại cuộc sống của con người mà mọi người không còn làm khổ cho nhau nữa, biến thế gian này thành cảnh giới Thiên Ðàng, Cực Lạc.

Kinh Ðại Bát Niết Bàn thuộc Trường Bộ Kinh. Bốn lần đức Phật đã nhắc nhở chúng ta phải căn cứ vào những “Lời Phật Dạy” (trong kinh Nguyên Thủy), phải đối chiếu với luật và nếu không phù hợp với kinh, không tương ưng với luật của Phật thì chắc chắn kinh sách này không phải của Phật thuyết và những Tỳ kheo ấy đã tu tập giáo pháp sai lầm.

Do sự so sánh này chúng ta có thể xác định đươc các tu sĩ qua Giới đức, Giới hạnh, Giới hành nơi tứ sự hàng ngày của họ: Ăn, mặc, ở, đau bịnh và chùa chiềng, cúng tế… thì biết chắc chắn là họ đã tu đúng Phật pháp hay chưa!

Các Thầy xa xưa người trước tu sai, người sau sai và người ngày nay cũng đều tu tập sai hết. Tu sai mà không ai biết để chỉ chỗ mình đã sai, nên kéo dài sai nhiều thế hệ. Thật đáng xót xa! Vì ai đã vào đường tu rồi lại chẳng quyết xả thân để tìm sự giải thoát là thân tâm được thanh thản, an lạc, vô sự! Nhưng thật oái oăm thay: Sợ ở ngoài đời bị vật chất ngũ dục lôi kéo đắm nhiễm – rối ren, bon chen, danh lợi. Nên tìm đến cửa chùa tu thời gian lên chức Trụ trì, Thượng tọa, được thiên hạ cung phụng cúng dường là liền bị chùa to phật lớn, bổn đạo đưa đón, thỉnh mời, cầu siêu, cầu an, trai đàn, chẩn tế, suốt tháng quanh năm – rối rắm trăm bề..., thân tâm không có một phút giây thanh thản thì làm sao quí Thầy giải thoát được thân tâm có an lạc, vô sự!!!

Ngày nay, chúng tôi may mắn hơn đã tu tập từ con đường giới luật, xây dựng cho mình một nền đạo đức sống không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ cả hai. Nhờ thế chúng tôi ly dục ly ác pháp hoàn toàn và đã thành tựu con đường giải thoát của Phật giáo chân thật.

Sau khi tu hành xong, nhờ có kinh nghiêm trong tu hành. Chúng tôi căn cứ vào những lời của Phật dạy trong kinh nguyên thủy đem chú giải rõ đường lối tu hành đúng với Chánh pháp của đức Phật để đời sau không còn lầm lẫn những kinh sách tưởng giải của các nhà học giả đã biên soạn sau thời đức Phật nhập diệt, đưa vào tam tạng rồi mạo danh là kinh Phật thuyết để lừa đảo tín đồ Phật giáo.

Do đó, các đời sau tu hành sai pháp và truyền thừa tu mãi cái sai, nên chẳng có Thầy Tổ nào làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Vì thế, khi tu hành chưa chứng đạo các Ngài kết tập kinh sách Phật không đủ khả năng soạn thảo chương trình giáo dục theo tám lớp (Bát Chánh Ðạo), ba cấp (Giới, Ðịnh, Tuệ) nên kết tập kinh sách xô bồ, không thứ lớp. Bài kinh trước, bài kinh sau không rõ ràng và không triển khai nổi giới đức, giới hạnh, giới hành cùng ba muơi bảy pháp hành không cụ thể, thực tế và rõ ràng như trên đã nói.

Ðến ngày nay chúng tôi quyết định chấn chỉnh lại bộ giới luật đức hạnh Thánh Tỳ kheo Tăng, Thánh Tỳ kheo Ni và Thánh Cư sĩ. Sau cùng, nếu có đủ thời gian chúng tôi biên soạn giáo trình tu tập cho tám lớp (Bát Chánh Ðạo) để thành lập chương trình giáo dục đào tạo bậc A La Hán (vô lậu).

Nhờ những bài kinh Nguyên Thủy này chúng tôi chỉ thẳng cho các bạn biết những kinh sách nào sai, từ chỗ sai đó chúng tôi mới dựng lại những gì của Phật giáo đã bị các nhà học giả sau này (không người tu chứng để triển khai nổi pháp của Phật) ném bỏ; nhờ những bài kinh này chúng tôi quyết định vạch trần những kiến chấp sai lầm của các học giả, để may ra các bạn giác ngộ được những lời dạy chân thật của Phật và xả bỏ những kiến chấp sai lầm của mình; nhờ những bài kinh này giúp các bạn sáng suốt để thấy những tưởng giải của các nhà học giả không tu đã làm hư hoại biết bao nhiêu thế hệ con người tu theo Phật giáo hiện nay; nhờ những bài kinh này chúng tôi chú giải các bạn mới thấy những lời chúng tôi là chân thật không dối người, không phỉ báng các Tổ, mà chỉ nói lên một sự thật cách đây trên 2000 năm chưa bao giờ có một người nào dám nói thẳng nói thật. Phải không các bạn?

Ðây cũng là một nhân duyên, là một phước báo lớn của chúng sanh, cho các thế hệ mai sau. Vì vậy, hôm nay mới có một cuộc chấn chỉnh giáo pháp của Phật giáo vĩ đại như thế này.

Vì Phật pháp là một lợi ích rất lớn cho chúng sanh, nên chúng tôi không ngại gian khổ, quyết tâm làm cho bằng được. Nhưng sự thành công ấy đều phải nhờ sự đoàn kết của Tăng, Ni và Cư sĩ bốn phương. “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, chắc chắn cái đúng sẽ thắng cái sai, và cũng đến lúc cái sai phải được buông xuống. Phải không các bạn?

Tóm lại, cái đúng không ai diệt nó được, nó sẽ được tồn với loài người mãi mãi.


Page 8

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP, tập 9, TG.2011, tr.224-227; tr.274-275; tr.340-342)
link sách: ĐVXP, tập 9

1.- TRONG 12 DUYÊN, THỨC NÀO LÀ LINH HỒN 

Hỏi: Kính bạch Thầy! Xin Thầy chỉ dạy “Thức” trong 12 nhân duyên và “thức” nào mà người vô minh cho là linh hồn? Họ dựa vào gì?

Ðáp: Trong 12 nhân duyên có 3 thức:

1- Thức là thức uẩn.

2- Danh là tưởng uẩn còn gọi là tưởng thức (cái thức trong giấc mộng).

3- Sắc là sắc uẩn còn gọi là sắc thức, sắc thức gồm có sáu thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.

Người đời vô minh không rõ cho tưởng thức là linh hồn dựa vào những hiện tượng phi không gian và thời gian của tưởng thức tạo ra sắc tưởng như ánh sáng, lửa hay những hình bóng mờ mờ ảo ảo, v.v... thanh tưởng như âm thanh tiếng kêu, tiếng khóc, tiếng rên, v.v… hương tưởng như mùi thơm, mùi thối vị tưởng như mùi vị ngon ngọt, cay, đắng xuất phát từ trong miệng của mình, v.v... xúc tưởng như cảm giác mát mẻ, nóng nực, khinh an, hỷ lạc, v.v... pháp tưởng như sự hiểu biết về các pháp tưởng, v.v... như Tổ Long Thọ tưởng ra trí tuệ Bát Nhã Chân Không, Phật Tánh, v.v... hoặc nói chuyện quá khứ vị lai của người chết hoặc người đang sống rất đúng. Do những hiện tượng này, nên tưởng tri của loài người dựng ra có thế giới siêu hình và cho tưởng thức là những con người vô sắc (linh hồn) sống trong thế giới đó.

Trong 12 nhân duyên thì duyên “danh sắc” là một duyên mà chiếm hai thức, đó là sắc thức và tưởng thức. Do sự tu tập nhập Tứ Thánh Ðịnh, tịnh chỉ các thức, mới biết rõ 12 nhân duyên có ba thức chứ không có nhiều thức như các nhà Duy Thức phát triển chia chẻ đặt ra làm cho người sau khó hiểu.

Các nhà kinh sách phát triển cho ý thức không niệm thiện niệm ác là Phật Tánh, đó là một điều lầm lạc, và quá sai do lạc vào tưởng tuệ tạo ra Tánh Thấy, Tánh Biết, Tánh Nghe... Xin quý vị cứ suy ngẫm kỹ, nếu xét đúng thì tin chúng tôi, còn nếu thấy chúng tôi nói sai thì đừng tin.

Chúng tôi nói ở đây không phải tự nói mà không thấy, chúng tôi thấy biết rất rõ mới nói và nói ra không phải chỉ có một mình chúng tôi nói mà đức Phật đã nói cách đây 2550 năm, Vì vậy những điều chúng tôi nói là lập lại của đức Phật qua sự chứng thật của mình.

Vì vậy, quý vị tin là có lợi ích cho quý vị, còn không tin thì thôi và quý vị sẽ bị người khác lừa đảo “Tiền mất tật mang và phí công vô ích”.

Tóm lại, thân người có 3 thức, không có linh hồn. Khi người chết đều tan hoại tất cả không còn một vật gì tồn tại chỉ còn nghiệp thiện ác do trong lúc sống gây tạo ra do lòng ham muốn.

2.- THÙY MIÊN, TÙY MIÊN 

Hỏi: Kính bạch Thầy! Danh từ thùy miên là nghĩ ngợi liên tục hết cái này tới cái kia, hay còn có nghĩa là ngủ say thưa Thầy?

Ðáp: Từ thùy miên có nghĩa là ngủ, buồn ngủ, ngủ miên man liên tục không hay biết gì cả, đó là một trạng thái si mê, lười biếng của những người vô minh. Thùy có nghĩa là ngủ, buồn ngủ; miên có nghĩa là triền miên, miên man, liên tục. Thùy miên không có nghĩa là nghĩ ngợi chỉ có danh từ tùy miên thì mới có sự nghĩ ngợi liên miên: Tùy có nghĩa là theo, bám sát, không rời ra.

Miên có nghĩa là triền miên, miên man, liên tục.

Ví dụ: Sân tùy miên có nghĩa là cơn giận không nguôi; tham tùy miên có nghĩa là lòng ham muốn không bỏ được, ham muốn hoài hoài, ham muốn liên tục; si tùy miên có nghĩa ngu si ham ăn, ăn no mà còn ráng ăn, ham ngủ trời sáng trắng mà chưa chịu dậy, ham chơi mà quên học hành, v.v...

Ðó là nghĩa của thuỳ miên và tùy miên con nên nhớ kỹ đừng để hiểu sai, nếu hiểu sai thì tu tập không kết quả.

Cho nên thùy miên và tùy miên có hai nghĩa khác nhau, hai trạng thái khác nhau, không giống nhau chút nào. Người tu hành phải nhận xét cho rõ ràng đừng để nhầm lẫn nghĩa.

Ðến đây con đã hiểu xong còn chỗ nào nghi ngờ nữa không?

3.- TRẢ NỢ NHÂN QUẢ

Hỏi: Kính thưa Thầy! Ở kế nhà con có bà lão tuổi cao, sức yếu thế mà ngày nào cũng phải đi bán vé số lo cho hai cháu đi học. Thằng con trai cầu tự của bà cũng chính là cha của hai đứa bé, suốt ngày ăn chơi, rượu chè, cờ bạc về nhà kiếm chuyện đập phá đồ đạc. Ðòi tiền bà như là món nợ tiền kiếp. Lúc ở nhà con thường qua lại nói chuyện với bà. Bà mến con lắm. Nhìn tình cảnh của bà mà con động lòng thương. Con muốn nói lời nào đó an ủi bà, giúp bà vui vẻ trả nghiệp, vượt qua đau khổ mà suy nghĩ mãi không ra. Thầy có thể giúp con không?

Ðáp: Bà lão này nợ đứa con trai và hai đứa cháu trong đời trước, đời này chúng sinh ra để đòi nợ, cho nên bà không bỏ được mà phải vất vả bán vé số nuôi hai cháu, nhưng còn phải đưa tiền cho cậu con trai đi nhậu, nếu không có tiền đưa nó thì đập nhà phá cửa. Thật là tội nghiệp cho bà, nhưng luật nhân quả ai gieo thì phải gánh chịu, dù chúng ta có thương giúp đỡ nhưng nghiệp nhân quả bà đâu trốn khỏi.

Con thương bà nên khuyên bà đừng buồn rầu, đừng than thân trách phận mà hãy vui lòng trả món nợ tiền kiếp.

Vui vẻ chấp nhận khi con trai về xin tiền bà hãy vui lòng mà vét sạch tiền cho nó với tâm không buồn rầu, không trách mắng.

Ðối với luật nhân quả muốn chuyển hóa thì phải vui vẻ và giữ gìn tâm bất động, xem như không có việc gì xảy ra. Khi nhân quả đến, đến với sự khắc nghiệt cay đắng đến mức độ nào, dù cho có chết ta cũng giữ gìn tâm bất động, chẳng sợ hãi, chẳng khiếp đảm thì ngay lúc ấy ta đã chuyển hóa nhân quả. Nếu chỉ có một chút xíu sự buồn phiền, than trách trong lòng, là ta bị nhân quả chuyển hóa tức khắc; là ta đang tạo thêm nhân quả.

Con muốn giúp bà thì nên khuyên bà vui vẻ sẵn sàng tha thứ cậu con trai, thì mới chuyển đổi cậu con trai sẽ trở thành người tốt, lo làm ăn nuôi dưỡng hai cháu và phụng dưỡng bà.

Nhân quả chỉ có sống thiện, làm thiện thì mới chuyển đổi được, còn sống ác làm ác thì không bao giờ chuyển đổi được nhân quả mà còn gia tăng thêm.


Page 9

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP. tập 2, TG.2011, tr.72-74)
link sách: ĐVXP. tập 2

HỏiKính thưa Thầy! Khi tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi, con tu Tứ Bất Hoại Tịnh thì tâm con được giải thoát rồi, thì con khỏi tu Ðịnh Vô Lậu được không?

Ðáp: Ðược, muốn tu Tứ Bất Hoại Tịnh thì con phải tu Ðịnh Vô Lậu, tu Ðịnh Vô Lậu tức là thể hiện pháp môn Tứ Niệm Xứ, thể hiện Tứ Niệm Xứ tức là trên thân, thọ, tâm và pháp mà tu tập, sống và làm việc giống như thân, thọ, tâm, pháp của đức Phật nhưng muốn tu tập cho được tốt thì con phải tù y theo đặc tướng thân, thọ, tâm và pháp của các con mà niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới được triển khai mạnh, quét sạch tất cả các lậu hoặc, diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly ác pháp.

Tu như vậy gọi là tu Ðịnh Vô Lậu câu hữu (kết hợp) với pháp Tứ Bất Hoại Tịnh, tức là tu Ðịnh Vô Lậu thân, thọ, tâm và pháp để sống và làm đúng như đức Phật đang sống và đang hành. Ðúng như pháp mà đức Phật đã dạy không được làm sai lời dạy của pháp. Ðúng như đời sống chúng Thánh Tăng đang sống đang hành và đúng như giới luật đã dạy không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả.

Tứ Bất Hoại Tịnh là bốn pháp hay là bốn đối tượng gương hạnh thanh tịnh của đạo Phật, để làm bốn chỗ chúng ta lấy Thân, thọ, tâm và pháp của mình nương theo đó giữ gìn tu tập, sống đúng đời sống giải thoát của bốn chỗ này, khiến cho thân tâm chúng ta thanh tịnh, nên đức Phật gọi pháp môn này là Tứ Bất Hoại Tịnh.

Tứ Bất Hoại Tịnh có nghĩa là bốn pháp tu tập giúp cho thân tâm thanh tịnh, thân tâm thanh tịnh tức là sự giải thoát của đạo Phật, sự giải thoát của đạo Phật có nghĩa là tâm ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly ác pháp có nghĩa là không làm khổ mình, khổ người. Không làm khổ mình, khổ người là một đạo đức nhân bản của đạo Phật, một đạo đức tuyệt vời biến cảnh thế gian này thành cảnh Cực Lạc, Thiên Ðàng.

Trong kinh sách Nguyên Thủy Ðức Phật dạy tu Tứ Bất Hoại Tịnh là có bốn cách niệm :

1. Niệm Phật

2. Niệm Pháp

3. Niệm Tăng

4. Niệm Giới


Page 10

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NPTCB, tập 2, TG. 2011, tr.108-111)
link sách: NPTCB, tập 2

Hỏi: Thầy Chơn Quang nói rằng, con đường đạo Phật trong tương lai thứ nhất là phải tôn kính Phật thật nhiều thì mới chứng đạo được.

Thứ hai là phải có lòng vị tha vô hạn để cứu độ đời. Còn tu mà ăn ít, ngủ ít như vậy là không có chứng đạt được, còn có thể có tác hại nữa. Cho nên, cuối cùng Thầy dẫn chứng rằng con đường của thầy ấy đi là con đường được Phật chấp nhận. Sự dẫn chứng là thầy Chơn Quang có một người đệ tử ngồi thiền hai tiếng đồng hồ mà cảm thấy như mới ngồi 15 phút. Trong khi đó, vị sư này được nhập vào hội đức Phật đang thuyết pháp và nghe đức Phật thuyết pháp rất hay. Và vị sư đó kể rằng đức Phật thuyết pháp y như thầy Chơn Quang thuyết. Ðó là kết luận của cuộn băng mà con được nghe. Kính xin Thầy chỉ dạy.

Ðáp: Thầy Chơn Quang nói tôn kính chư Phật thật nhiều, nhưng tôn kính như thế nào thì thầy Chơn Quang không nói rõ. Nếu Thầy lập lại ý của kinh sách Ðại thừa mà từ xưa những kinh sách này đã dạy như:

1- Kinh sách Ðại thừa dạy là phải lạy hồng danh tam thiên chư Phật để tiêu tội nghiệp chướng (Lạy hồng danh sám hối). Lạy hồng danh sám hối tức là kinh sách Ðại thừa cho đó là tôn kính chư Phật. Khi tôn kính chư Phật lạy hồng danh sám hối thì tiêu tội nghiệp chướng. Nếu dựa vào kinh sách này mà thầy Chơn Quang cho là chứng đạo thì e rằng không đúng. Vì từ xưa đến nay, có biết bao nhiêu người cung kính tôn trọng Phật theo kiểu lạy sám hối tam thiên chư Phật, mà có thấy người nào tiêu tội và chứng đạo đâu?

2- Phải có lòng vị tha vô hạn để cứu độ chúng sanh. Ðiều này kinh sách Ðại thừa đã dạy “Hành Bồ Tát Ðạo”, tức là thực hiện lòng vị tha vô hạn để cứu độ chúng sanh. Nhưng con người tu chưa chứng đạo thì làm sao có lòng vị tha vô hạn được. Phải không quí vị?

Tâm còn tham, sân, si chưa lìa, thì lòng vị tha vô hạn ở chỗ nào có được? Vì thế những người tu chưa chứng mà thực hiện Bồ Tát Ðạo, cũng giống như người mù dắt một đám người mù mà đi.

Vì lòng vị tha vô hạn của người tu chưa chứng để độ chúng sanh, vì thế độ chúng sanh đâu không thấy, mà thấy độ danh, độ lợi, độ chùa to, Phật lớn, độ xe hơi, tivi, tủ lạnh, v.v...

Có lẽ thầy Chơn Quang nghĩ rằng người tu có chùa to, Phật lớn, tủ lạnh, tivi là chứng đạo.

3- Thầy Chơn Quang dạy: ăn ít, ngủ ít thì tu không chứng đạo. Thầy dạy như vậy có ngược lại với Phật giáo hay không?

Ðức Phật và chúng Thánh tăng, Thánh ni ăn ngày một bữa, sao các Ngài lại chứng quả giải thoát, tự tại trong sinh tử, chấm dứt luân hồi, mà trong kinh sách Nguyên Thủy còn ghi rõ ràng.

Thời nay quí Thầy ăn uống phi thời, thân xác mập phì, đau bịnh liên tục, lúc nào cũng thuốc thang châm cứu. Vậy chứng đạo chỗ nào?

Thầy Chơn Quang dám phỉ báng đức Phật và chúng Thánh tăng và Thánh ni như vậy mà không sợ tội đọa Ðịa Ngục sao?

Tại tu viện Chơn Như, Thầy đã tiếp nhận những tin tức từ chùa Phật Quang loan báo: “Thầy Thông Lạc chết; Thầy Thông Lạc bịnh nặng; thầy Thông lạc bại liệt; thầy Thông Lạc ói ra máu...”. Những tin tức loại này đã làm cho một số phật tử hoang mang dao động. Nhờ những tin tức này mà Thầy mới được rảnh rang.

Làm một vị Thầy có trách nhiệm và bổn phận đối với đệ tử của mình thì rất vất vả, nhưng nếu chỉ cần có số lượng đệ tử đông thì để làm danh, làm lợi chứ họ tu hành đi đến đâu. Ðiều này đã chứng minh cụ thể, hiện giờ số lượng tu sĩ đông như kiến mà tu hành chẳng đi đến đâu cả. Ai chịu trách nhiệm này?

4- Một người nhập định thì không có thời gian và không gian, chứ làm sao có chuyện 2 tiếng đồng hồ mà cảm thấy như 15 phút?

Như thế chứng tỏ vị này chưa phải nhập định, mà đã rơi vào trạng thái “lên đồng” của tưởng ấm.

Sắc và thinh tưởng hiện ra, thầy ấy cảm thấy mình như đang dự hội Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp giống như thầy Chơn Quang.

Vị sư ấy chưa chứng minh được đời sống phạm hạnh, giới luật còn vi phạm thì làm sao sư ly dục, ly ác pháp được để nhập đúng Chánh định. Chưa nhập đúng Chánh định thì làm sao có Tam Minh. Không có Tam Minh thì làm sao dự hội Phật thuyết pháp được. Như vậy, rõ ràng vị sư này nhập vào định tưởng, bị sắc, thinh tưởng đánh lừa.

Tóm lại, vị sư này rơi vào định tưởng, một loại thiền định đưa đến bịnh thần kinh. Hầu hết những người có nhiệt tâm tu hành thiền định đều bị bịnh thần kinh này mà chúng tôi đã gặp rất nhiều.


Page 11

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NLGPD, tập 4, TG. 2010, tr. 161-173)
link sách: NLGPD, tập 4

LỜI PHẬT DẠY:

“Thật vậy, này Ananda, điều ông đã nghe là nghe đúng, thọ trì đúng, thuở xưa và nay. Này Ananda, Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều.” (Kinh Trung Bộ, tập II, trang 292, kinh Tiểu Không)

CHÚ GIẢI:

Kính thưa các bạn! Ðọc đoạn kinh trên đây các bạn cần phải hiểu hai từ Không Tánh.

Vậy Không Tánh nghĩa là gì? Từ xưa đến nay chúng ta thường chịu ảnh hưởng nghĩa lý của Ðại Thừa về tánh không. Tánh không của Ðại Thừa có nghĩa Chân Không diệu hữu, Trí Tuệ Bát Nhã “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”.

Cho nên, khi gặp không tánh của Nguyên Thủy thì mấy ai dám hiểu nghĩa khác. Do nhân duyên này chúng tôi sẽ giảng bài kinh Tiểu Không để các bạn hiểu đúng nghĩa của Phật dạy, không còn bị ảnh hưởng tư tưởng, tưởng giải của các Tổ Ðại Thừa nữa.

Khởi duyên của bài kinh này là do ông A Nan hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn con đượcnghe trước mặt Thế Tôn, con được ghi nhớtrước mặt Thế Tôn: “Này A Nan, Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều”, phải chăng bạch Thế Tôn điều con đã nghe là đúng, ghi nhớ đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng”.

Lúc bấy giờ đức Phật trả lời ông A Nan mà chúng ta giảng bài kinh này làm tiêu đề cho bài pháp hôm nay.

Chúng tôi xin nhắc lại đoạn kinh này một lần nữa để các bạn lưu ý. “Thật vậy, này A Nan, điều ông đã nghe là nghe đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng, thuở xưa và nay, này A Nan Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều”. Trong câu này chúng ta phải hiểu xưa kia trong lúc đang tu tập đức Phật cũng nhờ an trú trong không này, đến nay thành tựu được chánh pháp, tức là đức Phật đã chứng đạo, nhưng vẫn an trú thường xuyên rất nhiều trong không ấy.

Ðấy là ý nghĩa của đoạn kinh này. Nhưng cái khó hiểu là ở không tánh này. Vậy không tánh này là gì?

Trong kinh Tiểu Không đức Phật đã đưa ra nhiều ví dụ để mọi người dễ hiểu, nhưng trước khi giải thích những ví dụ này chúng tôi xin các bạn lưu ý và phải hiểu cho rõ ràng mục đích của đạo Phật. Vậy mục đích của đạo Phật là gì?

Theo trong kinh sách Nguyên Thủy thì chân lý thứ ba là mục đích của đạo Phật. Một mục đích mà người tu tập nào cũng cần phải đạt cho bằng được. Mục đích đó là “Diệt Ðế”. Diệt đế là một trạng thái diệt hết nguyên nhân sinh ra mọi thứ khổ đau, cho nên khi nào chúng ta tu tập đoạn diệt hết tâm dục tức là diệt hết lòng ham muốn, diệt hết lòng tham muốn tức là tâm bất động. Tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ tức là vô tướng tâm định. Trong vô tướng tâm định không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Do ba lậu hoặc này không có nên gọi là vô tướng tâm định. Vô tướng tâm định tức là tâm không phóng dật.

Cho nên, đức Phật dạy: “Ta thành Chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”. Tâm không phóng dật tức là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm thanh thản, an lạc và vô sự tức là tâm không động hay gọi “không tánh”. Không tánh tức là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, chứ không phải không tánh là “Tánh không”. Các bạn đừng hiểu lầm như các Tổ. Ở đây Phật không nói Tánh không như trong kinh Ðại Bát Nhã của Ðại Thừa.

Trong đoạn kinh trên đây đức Phật đã dạy: "Thật vậy, này A Nan, điều ông đã nghe là nghe đúng, ghi nhớ đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng, thuở xưa và nay, này A nan, Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều”. An trú “KHÔNG” của Phật giáo không có nghĩa là Tánh không, Chân không, Trí Tuệ Bát Nhã Ba La Mật. Chữ KHÔNG có nghĩa không chướng ngại pháp, tức là không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu.

Dó đó, chữ KHÔNG TÁNH phải hiểu nghĩa đúng đắn theo Tứ Diệu Ðế, chứ không thể hiểu nghĩa theo kiểu Ðại Thừa và Thiền Tông. Không tánh là tánh không, là Phật tánh là sai.

Vậy các bạn hãy lắng nghe đức Phật định nghĩa chữ không tánh: “Ví như lầu đài Lộc Mẫu này không có voi, bò ngựa, ngựa cái, không có vàng và bạc, không có đàn bà, đàn ông tụ hội, và chỉ có một cái không phải không, tức là sự nhất trí do duyên chúng Tỳ kheo; cũng vậy, này A Nan, Tỳ kheo không tác ý thôn tưởng, không tác ý nhân tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí, do duyên lâm tưởng. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú hướng đến lâm tưởng. Vị ấy tuệ tri như sau: “cái ưu phiền do duyênthôn tưởng không có mặt ở đây; các ưuphiền do duyên nhân tưởng không có mặtở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức làsự nhất trí do duyên lâm tưởng”. Vị ấy tuệ tri: “Loại tưởng này không có thôn tưởng”. Vị ấy tuệ tri: “Loại tưởng này không cónhân tưởng. Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyênlâm tưởng”. Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy tuệ tri: “Cái kia có, cái này có”. Như vậy, này Ananda, cáinày đối với vị ấy là như vậy, thật có không điên đảo, sự thật là hoàn toàn thanh tịnh, không tánh”.

Ðọc đoạn kinh này các bạn có hiểu không? Chúng tôi xin trích ra từng đoạn ngắn, ở lầu đài Lộc Mẫu này không có voi, bò ngựa, ngựa cái, không có vàng và bạc, không có đàn ông đàn bà tụ hội, ý đoạn kinh này đức Phật muốn nói gì? Ðức Phật nói trong lầu đài Lộc Mẫu này nếu có voi bò ngựa cái, vàng bạc, đàn ông, đàn bà tụ hội thì không yên lặng, gây ra ồn náo và chướng ngại khiến tâm bất an, còn nếu không có những loài vật này thì cảnh xung quanh lầu Lộc Mẫu này sẽ yên lặng không gây ồn náo và chướng ngại khiến tâm được yên lặng và bất động, nên Phật dạy: “chỉ có một cái không phải không”, cái không phải không này là cái có mà không làm chướng ngại tâm, cho nên không có voi, bò, ngựa, ngựa cái, vàng bạc, đàn ông đàn bà tụ hội thì trong lầu đài Lộc Mẫu này yên lặng bất động. Có đúng như vậy không các bạn? Như vậy không tánh là chỗ bất động tâm, chứ không phải là tánh không.

Các bạn hãy lắng nghe đoạn kinh tiếp: “Này Ananda, Tỳ kheo không tác ý thôn tưởng, không tác ý nhân tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên lâm tưởng. Tâm của vị ấy được thích thú hân hoan, an trú hướng đến lâm tưởng, vị ấy tuệ tri như sau: cái ưu phiền do duyên thôn tưởng không có mặt ở đây; cái ưu phiền do duyên nhân tưởng không có mặt ở đây, và chỉ có một ưu phiền này tức là sự nhất trí do duyên lâm tưởng”.

Ðoạn kinh này xác định không tánh theo từng đối tượng của lầu đài Lộc Mẫu, ở đây đức Phật nêu đối tượng thứ nhất không tánh của  lầu đài Lộc Mẫu là không có voi, ngựa, ngựa cái, không có vàng bạc, không có đàn ông, đàn bà, v.v... mà đức Phật gọi chung danh từ này là thôn tưởng, là nhân tưởng. Thôn tưởng có nghĩa là voi, bò ngựa cái, vàng bạc, còn nhân tưởng là đàn bà, đàn ông, v.v...

Nếu có những vật này ở trong lầu Lộc Mẫu thì làm sao gọi là không động được. Phải không các bạn? Nếu có vật này thì sẽ làm động tâm chúng ta vì chúng là chướng ngại của tâm. Cho nên, đức Phật bảo: “Cái ưu phiền do duyên thôn tưởng và nhân tưởng không có mặtở đây, và này Ananda cái này đối với vị ấy là thật có như vậy không điên đảo, sự thật hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh”.

Ðến đây các bạn đã hiểu không tánh rồi chứ. Không tánh chỉ là tâm bất động, nhưng bất động đối với thôn tưởng và nhân tưởng chứ không phải bất động hết các pháp, vì thế chỉ còn có một ưu phiền này tức là sự nhất trí do duyên lâm tưởng.

Vậy lâm tưởng nghĩa là gì?

Lâm tưởng là rừng cây chung quanh lầu đài Lộc Mẫu, vì có rừng cây nên còn có những chướng ngại trong tâm. Cho nên, đoạn kinh dạy: “Chỉ còn có một ưu phiền này tức là sự nhất trí do duyên lâm tưởng”.

Như vậy không tánh không có nghĩa là không có, mà cũng không có nghĩa là chân không, tánh không, v.v... như nghĩa của các nhà Ðại Thừa.

Không tánh có nghĩa là không có dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, chứ không phải tánh không của trí tuệ Bát Nhã. Ở đây, nếu các bạn không hiểu rõ mục đích của đạo Phật là chỗ bất động tâm trước ác ác pháp và các cảm thọ, nếu các bạn hiểu khác nghĩa bất động này, là các bạn đã hiểu sai lệch bài kinh trên đây.

Ðức Phật dạy: “Thuở xưa và nay, này Ananda, Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều”. Thuở xưa có nghĩa là lúc mới bắt đầu tu tập đức Phật cũng phải tu tập an trú chỗ bất động tâm này. Ðến nay khi tu tập đã xong đức Phật cũng bảo: “Nên nay an trú rất nhiều”. An trú rất nhiều tức là luôn luôn đức Phật sống với tâm bất động khi đã tu chứng đạo.

Vậy chúng ta hãy nghe tiếp Phật dạy:“Cũng vậy, này Ananda, Tỳ kheo không tác ý đối với tất cả những vật gì trên đất này, đất khô, vùng lầy, sông và vùng lầy, các cây có thân và có gai, núi và đất bằng, vịấy tác ý sự nhất trí do duyên địa tưởng. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan antrú, hướng đến địa tưởng, vị ấy tuệ tri như sau: “Các ưu phiền do duyên nhân tưởng không có mặt ở đây, các ưu phiền do duyên lâm tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên địa tưởng, vị ấy tuệ tri như sau: loại tưởng này không có nhân tưởng, vị ấy tuệ tri, loại tưởng này không có lâm tưởng chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên địa tưởng” và cái gì không có mặt ở đây vị ấy xem cái ấy là không có, nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy tuệ tri: “cái kia có, cái này có”. Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có không điên đảo, sự thật hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh”.

Ðoạn kinh trên chỉ còn lâm tưởng là chướng ngại làm cho tâm ưu phiền nhưng lại xả bỏ thôn tưởng, nhân tưởng và lâm tưởng nên tâm bất động được các đối tượng này, nhưng lại bị chướng ngại địa tưởng.

Trên đây là một pháp môn loại trừ các lậu hoặc, các chướng ngại pháp và làm cho tâm bất động.

Ðiều ở đây các bạn nên lưu ý đó là những loại tưởng được loại trừ lần lượt:

- Ðầu tiên loại trừ tưởng trong ngôi lầu đài Lộc Mẫu này là thôn tưởng và nhân tưởng.

- Loại trừ lần thứ hai là lâm tưởng.

- Loại trừ lần thứ ba là địa tưởng.

- Loại trừ lần thứ tư là không vô biên xứ tưởng.

- Loại trừ lần thứ năm là thức vô biên xứ tưởng.

- Loại trừ lần thứ sáu là vô sở hữu tưởng.

- Loại trừ lần thứ bảy là phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng.

Như vậy, tất cả những loại tưởng này đã được loại trừ. Khi loại trừ xong các loại tưởng thì còn lại một cái đó là vô tướng tâm định.

“Này Ananda, vị Tỳ kheo không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, không tác ý Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng, tác ý sự nhất trí do duyên vô tướng tâm định”.

Bây giờ các bạn đã hiểu rõ không tánh là vô tướng tâm định tức là tâm không có dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Tâm không có dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu là tâm bất động. Ðó là mục đích của đạo Phật do ly dục ly ác pháp, chứ không phải Tánh Không, Chân Không Diệu Hữu, Trí Tuệ Bát Nhã. Kinh Tiểu Không ở đây không có những nghĩa đó xin các bạn chớ hiểu lầm, làm lệch ý nghĩa của Phật pháp.

Khi tâm bất động như trên đã nói thì không có dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu thì tâm được giải thoát hoàn toàn, nên người ở trạng thái tâm bất động này liền hiểu rất rõ: “Sanh đã tận Phạm hạnh đã thành, những việc làm nên làm đã làm, không còn phải trở lại trạng thái này nữa”. Vô tướng tâm định này thật hữu vi, do tâm tự tạo nên. Phàm cái gì thuộc hữu vi do tâm tự tạo cái ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt”.

Ðọc đến đoạn kinh này các bạn thấy đức Phật đã xác định rất rõ vô tướng tâm định vẫn là pháp hữu vi do tâm tư (ý thức) tạo nên cái ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt. Như vậy làm sao các bạn hiểu nó là Chân Không diệu hữu, Trí Tuệ Bát Nhã, Tánh Không. Những từ này trong kinh sách Ðại Thừa chỉ cho Phật tánh là một pháp vô vi thường hằng bất biến. Nhưng ở kinh Tiểu Không này dạy không tánh là pháp hữu vi vô thường chịu sự đoạn diệt. Cho nên, kinh sách các bạn phải hiểu đúng nghĩa, đừng hiểu sai, vì chính hiểu sai mà các Tổ mới kiến giải, tưởng giải sinh ra kinh Ðại Bát Nhã, mới có Chân Không Diệu Hữu, Bát Nhã Tâm Kinh.

Tất cả những điều này chỉ là một ảo tưởng của kinh sách Ðại Thừa, còn kinh Tiểu Không thì không có nghĩa đó. Không có nghĩa đó rất rõ ràng vì vô tướng tâm định, không tánh là một pháp hữu vi vô thường, chịu sự đoạn diệt.

Xin các bạn lắng nghe đoạn kế của kinh Tiểu Không này: “Này Ananda, phàm có những Sa Môn hay Bà La Môn nào trong quá khứ sau khi chứng đạt, đã an trú cứu cánh vô tướng thanh tịnh không tánh, tất cả các vị ấy sau khi chứng đạt đều chỉ an trú cứu cánh vô tướng thanh tịnh không tánh này”.

“Này Ananda, phàm có những Sa Môn hay Bà La Môn nào trong tương lai, sau khi chứng đạt sẽ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh không tánh, tất cả các vị ấy sau khi chứng đạt, sẽ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh không tánh này”.

“Này Ananda phàm có những Sa Môn hay Bà La Môn nào trong hiện tại sau khi chứng đạt và an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh không tánh này, do vậy, này Ananda. Sau khi chứng đạt Ta sẽ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh không tánh”.

Ðoạn kinh trên đây đức Phật đã xác định rõ ràng và cụ thể. Người đang tu tập phải tu tập cho đạt được và an trú bất động tâm này.

Người đã tu tập xong thì luôn luôn an trú bất động tâm này. Người sẽ tu tập là phải hướng đến an trú bất động tâm này. Và đức Phật đã tu tập xong, Ngài cũng đang an trú bất động tâm này.

Tóm lại, không tánh tức là tâm bất động. Tâm bất động là tâm ly dục ly ác pháp, đó là cứu cánh của Phật giáo, ngoài ra tất cả các pháp khác là tôn giáo ngoại đạo.


Page 12

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP.1, TG. 2011, tr.136-142; tr.201-206; tr.221-229)
link sách: ĐVXP.1

1/ TỨ NIỆM XỨ VÀ TỨ NIỆM XỨ

Cũng vì đời sống thế gian không bỏ được, nên hầu hết tu sĩ Phật giáo khắp nơi trên thế giới, năm châu không thể nhập Tứ Niệm Xứ Vô Lậu Thánh Ðịnh và Tứ Thánh Hiện Tại An Lạc Trú Ðịnh được,

họ chỉ còn lý thuyết kiến giải loanh quanh “Tứ Niệm Xứ” bằng một cái tên “Minh Sát Tuệ, Trái Tim Thiền Ðịnh, Bốn Lãnh Vực Quán Niệm v.v...” Tứ Niệm Xứ Vô Lậu Thánh Ðịnh là loại Thiền định của đạo Phật, hành giả chuyên cần tu tập sẽ quét sạch lậu hoặc đưa tâm con người ly dục ly ác pháp, giải thoát hoàn toàn chấm dứt được sự tái sanh luân hồi. Nhưng quý vị, đừng hiểu theo tưởng giải của các nhà học giả mà tu hành chẳng đi đến đâu, họ lý luận đủ loại nhưng cuối cùng chỉ ức chế tâm chứ không có khắc phục tham ưu chút nào được.

Muốn thực hiện Thiền định này mà quý vị không chịu rời bỏ “duyên sanh” thì làm sao thực hiện được. Tứ Thánh Hiện Tại An Lạc Trú Ðịnh cũng vậy “duyên sanh” mà không lìa bỏ thì hành giả đừng nên tu tập đến nó, vì có tu tập quý vị cũng chẳng đạt đến đâu, còn làm rối loạn thần kinh vì ức chế tâm, chẳng ích lợi gì còn có tai hại hiểm nguy khác nữa, là rối loạn thần kinh điên khùng.

Từ khi đức Phật và các vị Thánh Tăng đã nhập diệt, lần lượt về sau không còn ai tu tập và thực hiện nhập được Tứ Niệm Xứ Vô Lậu Thánh Ðịnh và Tứ Thánh Hiện Tại An Lạc Trú Ðịnh, nên được xem như hai loại Thiền định này đã mất gốc, không còn ai biết đường tu tập đúng pháp.

Nhìn cuộc sống của tu sĩ Phật giáo hiện giờ, phần đông sống trong danh lợi, ăn ngủ phi thời, cách thức ăn mặc và lối sống như vua chúa thời phong kiến, chùa xây cất như cung vàng điện ngọc to lớn đồ sộ vĩ đại. Thấy cách thức sống xác định tâm họ lậu hoặc còn đầy dẫy, ham thích cái này cái nọ tốt, sang, đẹp và chú trọng đến danh tiếng. Vì thế, Tứ Thánh Hiện Tại An Lạc Trú Ðịnh không có một vị nào nhập được, chỉ còn là những danh từ suông trong kinh sách Nguyên Thủy. Không còn có một vị nào có kinh nghiệm tu tập được. Hầu hết, các tu sĩ Phật giáo Bắc Tông hiện giờ đang trụ khắp nơi trên thế giới đều cho Tứ Thánh Hiện Tại An Lạc Trú Ðịnh là Thiền định ngoại đạo, Thiền phàm phu, Thiền Tiểu Thừa, Nhị Thừa.

Theo quan niệm Phật giáo Ðại Thừa hiện giờ họ cho Tứ Thánh Hiện Tại An Lạc Trú Ðịnh là Thiền ngoại đạo của các tôn giáo khác. Vậy, chúng ta nên tìm tôn giáo nào có bốn loại Thiền định này:

1- Yoga.

2- Hồi Giáo.

3- Bà La Môn Giáo.

4- Ấn Ðộ Giáo.

5- Thiên Chúa Giáo

6- Tin Lành Giáo.

7- Thiền Ðông Ðộ.

8- Cao Ðài Giáo.

9- Hòa Hảo.

10- Bửu Sơn Kỳ Hương.

11- Lão Tử.

12- Trang Tử.

13- Mặc Tử.

14- Khổng Giáo.

15- Lạt Ma Giáo.

16- Khí Công.

17- Nội Công.

18- Trường Sinh Học.

19- Khoa Học.

20- Lục Sư Ngoại Ðạo, v.v…

Trong thời đức Phật chỉ thấy trong kinh có ghi lại 62 luận thuyết của ngoại đạo mà không thấy nói đến Tứ Thánh Ðịnh.

Xét tận cùng, từ xưa đến nay các tôn giáo hiện có mặt trên thế gian này, trong kinh sách của họ không thấy có dạy tu tập “Tứ Thánh Hiện Tại An Lạc Trú Ðịnh” chỉ có kinh sách Phật giáo Nguyên Thủy mới có dạy.

Nhưng xét cho kỹ, trước đức Phật thì loại Thiền định này cũng đã có, nhưng là của ngoại đạo. Tu tập theo đường lối bốn Thiền ức chế tâm, nên khi lúc còn bé, đức Phật ngồi dưới cội cây jambu hướng tâm ly dục ly ác pháp theo đường lối bốn Thiền ức chế tâm này.

Hiện giờ hầu hết các tu sĩ Phật giáo và ngoại đạo đều không có người nào nhập được Tứ Thánh Ðịnh.

Các nhà học giả xưa và nay nghiên cứu đến Thiền định này, họ chẳng triển khai nổi các pháp hành, chỉ dựa vào một số danh từ đã có sẵn trong kinh sách, giảng dạy không rõ ràng, lờ mờ nhưngười đi đêm không đèn, không đuốc, nhất là cố tránh né lướt qua, không dám đụng đến nó.

Tại sao, chúng ta biết không có người nhập được Thiền định này?

1- Toàn bộ kinh sách hiện giờ đang được lưu hành dạy về Thiền định, không thấy có kinh sách nào dạy tu tập Thiền định này.

2- Rất ít kinh sách xưa cổ nói về bốn loại Thiền định này, dù có nói đến như kinh sách Phật giáo Nguyên Thủy, nhưng các nhà học giả không có tu hành và nhập được các loại định này nên cũng chỉ nói sơ sài qua loa, nói theo tưởng, không có kinh nghiệm, không có pháp hành cụ thể.

3- Khắp trên thế giới chưa có tin tức người nào nhập được Thiền định này.

4- Khắp trên thế giới chưa nghe có người nào nhập Tứ Thiền, tịnh chỉ hơi thở từ 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng cho đến 1 năm, 2 năm, 3 năm không ăn không uống mà không chết.

5- Nhập các loại định này, hơi thở và các hành trong thân đều phải ngưng nghỉ.

6- Sau khi nhập định xong từ 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng cho đến 1 năm, 2 năm, 3 năm, khi xuất định vẫn phục hồi sự sống lại như thường.

Ðó là những loại Thiền định khó thấy ở thế gian này và khó tu tập hơn các loại Thiền định khác.

Người nào không chịu moi đầu động não để nghiên cứu Tứ Thánh Ðịnh mà chỉ dựa vào Thiền định này của ngoại đạo, đó là những người vuốt đuôi kẻ khác chẳng có trí tuệ.

Qua sự sưu tầm và nghiên cứu nhiều loại kinh sách, chúng ta quả quyết xác định “Tứ Hiện Tại An Lạc Trú Thánh Ðịnh và Tứ Niệm Xứ Vô Lậu Thánh Ðịnh” chỉ có Phật giáo mới có mà thôi và kinh sách Nguyên Thủy đã dạy rất kỹ từ những phương pháp nhỏ nhặt và dễ dàng nhất đến để thực hành cho có kết quả ngay liền, cho đến những phương pháp khó nhất để tịnh chỉ hơi thở, làm chủ sự sống chết.

2/ TÂM BẤT AN 

Hỏi: Kính thưa Thầy! Khi làm xong việc, con vào cốc tu tập, tâm con cũng chưa được an?

Ðáp: Khi vào cốc tu tập, tâm chưa được an, tức là xả tâm chưa được sạch. Nếu tâm xả chưa được sạch thì không nên tu Ðịnh Niệm Hơi Thở, mà phải tu Ðịnh Vô Lậu, quán triệt cho thông suốt lý chân thật của các pháp.

Ở đây, con làm xong việc, rồi mới vào thất tu, như vậy làm việc và tu là hai việc khác nhau, do hiểu như vậy và tu như vậy nên tâm con bất an là phải. Thầy thường dạy: “Tu là sống, sống là tu” nghĩa là tu tập trong mỗi hành động, việc làm chứ không phải đợi vào cốc ngồi tu, thế mới là tu. Con không nhớ lời đức Phật dạy sao? Phải tu ngay trong thân hành niệm con ạ! Lúc nào thân có động dụng thì phải tu ngay trong hành động ấy, đó là tu tỉnh thức chánh niệm.

Ở đời, người ta thường hiểu tu là vào chùa cạo đầu, mặc áo tu sĩ là tu, hiểu như vậy là sai hoặc người ta thấy ai gõ mõ tụng kinh, niệm chú, lần chuỗi niệm Phật, ngồi Thiền họ cho đó là tu thì còn sai hơn nữa; đó là những  hình thức của tôn giáo, chứ đâu phải tu hành là vậy. Tu ở đây theo đạo Phật, có nghĩa là sửa đổi những thói hư tật xấu; sửa đổi những hành động ác, không làm ác nữa tức là không làm khổ mình, khổ người, không làm khổ mình, khổ người tức là tu, nhưng không muốn làm khổ mình, khổ người thì phải tu tập tỉnh thức trong mỗi hành động việc làm mà đức Phật gọi là “thân hành niệm”.

Tâm bất an tức là tâm vẫn còn trong chướng ngại pháp, tâm chưa xa lìa lòng ham muốn và các ác pháp; tâm chưa xa lìa lòng ham muốn và các ác pháp mà vào thất ngồi tu, đó là cách thức ức chế tâm, nén tâm. Tu như vậy làm sao có giải thoát được, con phải tu trở lại cho đúng pháp.

Muốn tu cho tâm được an, thì phải theo lời đức Phật đã dạy: “Tỉnh thức trong thân hành niệm ngoại”, tức là đi, đứng, nằm, ngồi, làm tất cả mọi việc đều phải tỉnh thức trong mọi hành động, việc làm của mình. Tỉnh thức trong hành động ngoại để làm gì? Ðể khắc phục tham ưu tức là lìa các chướng ngại pháp trong tâm. Lìa chướng ngại pháp trong tâm thì tâm được an ổn. Muốn đượcnhư vậy, thì tâm luôn luôn phải tỉnh thức trên thân hành, và luôn luôn phải tác ý ly tham, đoạn ác pháp. Cho nên, tu trong thân hành niệm tức là lấy hành động của thân để tỉnh thức mà xả các niệm ác, xả các chướng ngại pháp để tâm không còn bất an.

Tâm con bất an thì Tổ Sư Thiền Ðông Ðộ sẽ bảo: “Lấy tâm ra đây ta an cho” thì tâm con sẽ an liền, như Huệ Khả đã được Bồ Ðề Ðạt Ma an tâm cho, đó là một lối nói để người nghe dùng tưởng mà nhận ra tâm đã an, nhưng kỳ thật, không bao giờ có tâm an. Bởi vì, tâm đã huân thành nghiệp bất an lâu đời, nên hở ra một pháp nào va chạm vào tâm là tâm chướng ngại bất an liền, cho nên cần phải siêng năng tu tập xả tâm, chứ không phải nhìn lại chỗ bất an mà tâm an.

Ví dụ: khi chúng ta bị nhức đầu, tâm chúng ta bất an, bấy giờ chúng ta tìm chỗ tâm bất an, thì tâm chúng ta có hết bất an không, khi mà đầu chúng ta còn đau nhức?. Bởi người ta hiểu tâm và nghiệp là hai, nhưng kỳ thực tâm và nghiệp là một, nghiệp là tâm, tâm là nghiệp. Các nhà học giả hiểu tâm và nghiệp là hai nên bảo rằng: “Nghiệp dẫn tâm đi tái sanh luân hồi”. Không có dẫn tâm đi luân hồi, mà nghiệp luân hồi, tức là nghiệp tạo duyên luân hồi. Nghiệp tạo duyên vô minh. Ví dụ: Như một người nam và một người nữ do đắm nhiễm tình dục, nên tạo thành nghiệp ái dục, nghiệp ái dục tức là sự ưa thích tình dục cho nên họ hành động gần gũi nhau để rồi tạo ra thức. Họ không biết tình dục sau đó, là một sự khổ đau, sự khổ đau tức là ác pháp. Họ không biết ác pháp khổ đau nên họ lấy nhau, đó là vô minh của nghiệp ái dục tạo nên duyên hành “lấy nhau”. Do hành động lấy nhau, tạo duyên thức, thức này là thức nghiệp ái dục. Nên loài động vật sinh ra, không ai dạy dâm dục cho nó, nhưng con vật nào cũng dâm dục, con người cũng vậy. Dâm dục tức là nghiệp. Cho nên, người tu hành mà không đoạn dâm dục thì chẳng bao giờ có giải thoát. Vì thế, tâm là nghiệp, nghiệp là tâm, nó không phải là hai. Nên đức Phật dạy: “lìa nghiệp ác, đoạn diệt nghiệp ác vì nghiệp ác tạo ra muôn thứ khổ đau, còn nghiệp thiện, không làm khổ mình, khổ người thì nên giữ và tăng trưởng nó”.

Ví dụ: Chúng ta tu pháp Như Lý Tác Ý như câu: “Tâm như cục đất” tức là tạo nghiệp thiện, mà nghiệp thiện đã có thì nghiệp ác không có. Nghiệp ác không có thì không có sự khổ đau tức là giải thoát (Niết Bàn).

Con người khổ vì nghiệp ác, nghiệp ác là những hành động ác đã lập đi lập lại nhiều lần và đã đắm nhiễm hay nói cách khác là đã thành thói quen khó bỏ, các nhà Ðại Thừa gọi là “tạp khí”. Khi tu tập tâm bất an, là tu sai không đúng pháp. Pháp của đức Phật dạy, là pháp ngăn ác diệt ác pháp, cho nên tâm lúc nào cũng được an ổn, vì tâm không an ổn là tại không biết sử dụng pháp đúng cách.

Do chỗ đẩy lùi các ác pháp trong tâm nên đức Phật dạy: “Pháp Ta tu là có kết quả ngay liền không có thời gian, có khả năng hướng thượng”. Kết quả ngay liền là tâm không còn bất an. Tâm còn bất an là còn không xả tâm, muốn xả tâm thì tu tập phải có đối tượng. Nhờ có đối tượng mà biết tâm xả hay chưa xả. Người tu hành theo đạo Phật, mà tránh né đối tượng, thì tu chẳng bao giờ có giải thoát.

Cho nên, muốn tu tập giải thoát thì ngay nơi ác pháp ngăn và diệt, ngăn và diệt là dùng pháp như lý tác ý, nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng.

Giải thoát của đạo Phật không phải chỗ có thần thông phép tắc, chỗ thấy Tánh, chỗ ngồi Thiền 5, 7 ngày, một đôi tháng mà chỗ đẩy lui chướng ngại pháp trong thân và tâm. Hằng ngày, từng phút, từng giây siêng năng chuyên cần đẩy lui các chướng ngại pháp thì làm sao tâm con bất an được. Tâm không còn bất an tức là giải thoát của đạo Phật hay gọi là tâm bất động.

3/ THIẾU NGHỊ LỰC, NHIỆT TÂM VÀ ÁM THỊ

Hỏi: Kính thưa Thầy! Tại sao con buông xả quá chậm, nay được mai mất, con chưa làm chủ được gì? Con không biết tìm biện pháp nào mạnh hơn? Dùng Ðịnh Vô Lậu, tu pháp Hướng Tâm sao chưađược thấy kết quả hay con đã quán xét, tư duy chưa thấu triệt, tu tập pháp hướngchưa đúng mức?

Ðáp: Ðúng vậy, tất cả sự tu tập của con chưa chuyên nhất.

1- Dùng pháp Hướng Tâm còn yếu, chưa nhạy bén.

2- Ðịnh Vô Lậu quán triệt chưa thông suốt lý các pháp, lý nhân quả.

3- Mức tỉnh thức chưa đủ sức.

4- Chánh niệm còn kém (thiện pháp).

5- Nghị lực và nhiệt tâm còn yếu kém, chưa dũng mãnh.

6- Chưa quán triệt thấu suốt kiếp sống của con người: “khổ như thật – thật khổ”.

7- Không có sự quyết định dứt khoát mạnh mẽ.

8- Không có sự tích cực trong sự dứt khoát xả bỏ thói quen. Nói xả bỏ hay nói ly dục ly ác pháp là nói chứ chưa phải xả, đến khi xả là chúng ta mới thấy khó vô cùng.

Buông xả là một danh từ suông, thật sự xả bỏ một điều gì không đơn giản như chúng ta nói, nếu một người không quyết tử thì khó mà xả bỏ được.

Ví dụ, như ăn ngày một bữa để xả bỏ hai bữa ăn kia, nếu một người không quyết tử thì cũng khó mà ăn một bữa được, đó là cái ăn nó dễ dàng như vậy mà nó còn khó xả huống là xả dục và các ác pháp.

Ví dụ, như một người ăn thịt cá quen, bây giờ bắt đầu ăn chay, nếu không quyết tử thì việc ăn chay cũng không dễ dàng.

Ví dụ, như một người nghiện thuốc lá nếu anh ta không quyết tử thì cũng không bao giờ bỏ được thuốc lá. Ðó là những sự buông xả tầm thường mà còn phải quyết tử huống là con quyết bỏ tâm tham, sân, si thì đâu phải là một việc dễ làm. Mỗi lần vấp ngã là mỗi lần đứng lên, dũng mãnh hơn, liều chết, cắn chặt răng, đưalưỡi lên nóc họng quyết tử với tâm tham, sân, si của mình thì mới mong chiến thắng nó được. Ðức Phật dạy: “Thắng trăm trận không bằng thắng mình, thắng mình mới là chiến công oanh liệt”. Có nghĩa lời xác định này, xả tâm rất khó, khó vô cùng, khó chứ không phải dễ, nếu không xem mình là một tử thi, thì không thể nào xả bỏ được tham, sân, si.

Nhất là tâm si, trạng thái tâm si là hôn trầm, thùy miên, hôn tịch, vô ký, ngoan không, khi các hiện tượng này xảy ra nếu không có một nghị lực kiên cường, một ý chí dũng mãnh thì không bao giờ thắng chúng được. Hầu hết, các tu sĩ về đây tu tập, đều đầu hàng giặc si này, mọi người đều cuốn cờ rút chạy dài, đầu hàng vô điều kiện.

Người ta đọc câu Kinh Pháp Cú ai cũng thấy kinh này quá hay, nhưng cái hay của nó ở danh từ chứ việc làm của nó thì gần hết như con người trên hành tinh này, mấy ai là người đã làm được.

Con hãy quán xét thử khắp trong thế gian này, người ta có thể tu tập có thần thông, có sự linh thiêng huyền diệu, mầu nhiệm, có sự đình chỉ hơi thở thật sự, nhưng ít ai hoặc không có người đình chỉ tâm tham, sân, si. Ðình chỉ lòng tham, sân, si tức là ly dục ly ác pháp, ly dục ly ác pháp là một đạo đức tuyệt vời của con người. Ðạo đức không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai. Thế mà, một việc làm có lợi ích lớn như vậy, tại sao người ta không làm được?

Người ta nói tu, nhưng người ta không hiểu tu là làm gì? Phần đông người ta hiểu tu là tụng kinh, trì chú, ngồi Thiền, niệm Phật hoặc làm những việc lành từ thiện, bố thí cúng dường hoặc luyện bùa, niệm chú hoặc tập luyện Yoga hơi thở bằng cách này hoặc bằng cách khác để có thần thông, những việc làm như vậy họ gọi là tu. Ðối với đạo Phật sự tu không phải như vậy, mà là một cuộc sống, một hành động sống không làm khổ mình, khổ người.

Chúng ta sống như thế nào mà không làm khổ mình, khổ người, thì đó là một sự tu của đạo Phật. Sự tu ấy trong đạo Phật gọi là tịnh chỉ lòng tham, sân, si; còn gọi là xả bỏ ly tham đoạn diệt ác pháp.

Muốn đoạn diệt lòng ham muốn và các ác pháp đang làm cho đời sống của chúng ta đau khổ, nay chuyện này mai xảy ra chuyện khác thì phải có đầy đủ nghị lực và nhiệt tâm. Nếu chúng ta biết đời là khổ mà không quyết tâm buông bỏ những sự đau khổ đó. Cũng nhưngười ăn trộm cắp, biết trộm cắp là sẽ bị tù tội và sẽ bị người ta bắt được đánh đập mình và có khi còn giết mình, thế mà người ăn trộm cắp không bỏ được, không ly được thì quý vị nghĩ sao?

Biết ác pháp và lòng ham muốn là khổ, mà không chịu bỏ thì có ai bỏ dùm mình được không?

Ví dụ: Biết nói chuyện là tâm không ly dục ly ác pháp, tâm không bao giờ hết phóng dật, thế mà không bỏ được sự nói chuyện thì có ly dục ly ác pháp được không? Nếu không ly dục ly ác pháp thì làm sao hết tham, sân, si. Vậy mà, ngay bây giờ không chịu bỏ nói chuyện, thì tu làm gì, cho mất công và cũng chẳng có ích lợi gì.

Cho nên, tu là buông xả chứ không phải ngồi Thiền, niệm Phật, tụng kinh mà buông xả được. Chúng ta thử xem lại thời gian đã qua, các bậc Thầy Tổ của chúng ta từ xưa đến giờ, họ đã từng tụng kinh, niệm Phật, trì chú, ngồi Thiền, mà có người nào xả bỏ tham, sân, si được chưa? Ngoài hình thức bệ vệ trong chiếc áo cà sa, Thầy Tổ của chúng ta vẫn còn tham danh đắm lợi. Không tham danh đắm lợi sao họ lại xây cất chùa to Phật lớn như vậy? Không tham danh đắm lợi sao họ lại ăn uống phi thời, sống một đời vật chất quá đầy đủ như một nhà giàu có. Phật dạy: “Ba y, một bát, sống không nhà cửa, không gia đình”. Thế mà, Thầy Tổ có sống được như vậy không?

Thưa các bậc tôn túc Tăng và Ni cũng như quý vị cư sĩ hãy thành thật với mình, với những tín đồ Phật Giáo, có phải chúng ta đã ly tham ly ác pháp? Có phải chúng ta sống đúng Phạm hạnh của những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni hay cuộc sống của chúng ta không khác gì với những người phàm phu, cũng danh, cũng lợi, cũng tham, cũng sân, cũng si mê dính mắc: sắc, danh, lợi, thực, thùy?

Có nghị lực, có nhiệt tâm xả bỏ, có chấp nhận một cuộc sống buông xả giải thoát; có chấp nhận Phạm hạnh giới đức của Phật Giáo; có biết rõ đời sống thiểu dục tri túc là đời sống đạo của đạo Phật, là đời sống giải thoát không?

Hỡi các vị tôn túc! Xin quý vị hãy nhìn lại đời sống của mình có xứng đáng là người tu sĩ đạo Phật hay không; có đầy đủ nghị lực; có nhiệt tâm xả bỏ ly tham ly ác pháp chưa? Phải thành thật với mình, với tín đồ Phật Giáo, để làm sáng tỏ lại Phật giáo. Ðừng vì danh, vì lợi, vì cuộc sống thế tục mà dựa theo kinh sách phát triển bưng bít những lỗi lầm đáng sợ, tai hại cho mình và cho Phật Giáo.

Trước khi làm những gì, chúng ta hãy suy nghĩ đến hậu quả của nó. Hậu quả của những người tu, chúng ta trực tiếp đã thấy quá rõ ràng. Thầy Tổ của chúng ta trước khi chết phải thọ lấy sự đau khổ vô cùng, chỉ vì sống không đúng Phạm hạnh của đạo Phật nên phải gánh chịu sự đau khổ vô vàn. Ðó là vì, chúng ta không nhìn thấy sự tu hành giả dối của chúng ta, nhân giả dối lừa đảo thì quả phải khổ đau.

Thưa quý vị, quý vị nói chứ quý vị có xả đâu, quý vị đừng ôm thêm, ôm thêm để mà khổ quý vị ạ!

Hãy buông xả! Buông xả với một nhiệt tâm nồng cháy; với một nghị lực kiên cường; với một sự hiểu thông suốt: “Dục là ác pháp là khổ”, thì quý vị mới xả bỏ được, mới tìm thấy sự giải thoát chân thật của đạo Phật.

“Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
Chớ giữ làm chi có ích gì
Thở ra chẳng lại còn chi nữa
Vạn pháp vô thường buông xuống đi

--o0o--

Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
Tâm hồn thanh thản chẳng sầu bi
Cuộc đời ngắn ngủi trong chớp mắt
Còn có vui gì chẳng bỏ đi

--o0o--

Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
Trò đời như mộng có còn chi
Tứ đại trả về cho tứ đại
Thanh nhàn an lạc lúc phân ly”

Muốn cho có một nội lực sung mãn, để khắc phục tâm tham ưu của mình; để có kết quả tâm bất động trước các pháp; để ly được dục ly được ác pháp; để tâm không phóng dật và cuối cùng tâm định trên thân, thì thường xuyên con nên dùng pháp Hướng Tâm - Như Lý Tác Ý, ám thị tâm con khi con muốn tâm con phải làm một điều gì như con muốn.

Ví dụ: như con muốn tâm con không còn giận hờn, thương ghét, hay không cho nó nói chuyện, để sống trầm lặng một mình, thì con nên trạch pháp một câu: “Tâm như cục đất, không nên nói chuyện với ai cả để sống đúng chánh hạnh, để được an vui, thanh thản và vô sự”. Câu hướng tâm này, con phải sống với nó  như bóng với hình, lúc nào, giờ nào con cũng phải nhớ ám thị, đừng nên quên thì sẽ có hiệu quả xả tâm rất tốt. Nhớ kỹ, ám thị cho đến chừng nào có hiệu quả mới thôi.


Page 13

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP, tập 8, TG.2011, tr.51-61)
link sách: ĐVXP, tập 8

LỜI PHẬT DẠY:

1/ Ăn ngày một bữa.

2/ Ngủ đúng giờ.

3/ Ðộc cư, sống trầm lặng, ít nói.

4/ Nhẫn nhục thấy nhân quả, xả tâm.

5/ Tùy thuận không bị lôi cuốn.

6/ Bằng lòng, vui vẻ và hân hoan.

CHÚ GIẢI:

Sáu điều Ðức Phật đã dạy trên đây là những hạnh Thánh, chứ người phàm phu không thể sống như vậy được.

1/ Ăn, ngày một bữa là Thánh hạnh.

2/ Ngủ, đúng giờ là Thánh hạnh.

3/ Ðộc cư, là Thánh hạnh.

4/ Nhẫn nhục, xả tâm là Thánh hạnh.

5/ Tùy thuận, không bị lôi cuốn là Thánh hạnh.

6/ Bằng lòng, vui vẻ hân hoan là Thánh hạnh.

“Ăn ngày một bữa là Thánh hạnh”Vậy ăn ngày một bữa là Thánh hạnh như thế nào?

Ăn ngày một bữa là ăn vừa đủ để sống, để tu tập, đểly dục ly ác pháp, để xa lìa ăn ngon, ăn bổ, để từ bỏ lòng tham ăn chạy theo dục lạc thế gian, để giữ gìn giới luật nghiêm chặt, v.v...

Ăn ngày một bữa có nhiều thời gian rãnh rang nghỉ ngơi không bận lo ăn uống, vì ăn uống nhiều bữa rất cực nhọc phải nấu nướng, phải nhai nuốt, phải rửa bát chén đũa nĩa, v.v...

Ăn ngày một bữa cơ thể ít hoạt động được nghỉ ngơi nhiều, vì thế mà cơ thể ít bệnh tật.

Ăn ngày một bữa cơ thể ít hôn trầm thùy miên vô ký, ít vọng tưởng, giảm bớt sắc dục, thân tâm thường tỉnh thức, siêng năng ít lười biếng.

Cho nên, ăn ngày một bữa chỉ có những bậc thánh Tăng, thánh Ni và thánh Cư sĩ mới sống được với thánh hạnh này, còn những người thếgian không bao giờ sống được, họ luôn luôn chạy theo dục lạc về ăn uống.

Ăn ngày một bữa là giới thứ chín của người mới xuất gia (Sa Di), vậy mà các vị tỳ kheo tăng Ðại Ðức, Thượng Toạ, Hoà Thượng không sống đúng giới luật này thì còn mặt mũi nào nhìn những cư sĩ họ đang thọ Bát Quan Trai. Có đúng như vậy không quý vị?

Cho nên, ăn ngày một bữa lợi ích rất lớn cho người tu tập theo Phật giáo, vì đó là một phương pháp sống ly tham. Vậy tất các đệ tử của Phật hãy lấy lời dạy này làm thước đo giới luật của giai đoạn đầu. Người nào ăn uống phi thời ngày hai bữa, ba bữa ăn là tu sĩ Bà La Môn, là ngoại đạo. Cho nên vấn đề ăn uống là dễ xác định tu sĩ nào của Phật giáo và tu sĩ nào của ngoại đạo. Có đúng như trên đã nói không quý vị?

--o0o--

“Ngủ, đúng giờ là Thánh hạnh”. Vậy ngủ đúng giờ là Thánh hạnh như thế nào? Người ngủ đúng giờ là không ngủ sai giờ, giờ nào ngủ là đi ngủ, giờ nào thức là thức. Lúc nào cũng giữ đúng như vậy không ngủ phi thời, vì ngủ phi thời là người biếng nhác, người lười biếng, người không siêng năng.

Ngủ là một tướng trạng si mê, người si mê không phải là người không hiểu biết mà hiểu biết lệch lạc không đúng như thật.

Ví du: Thấy cái bánh hay một ly sữa thơm ngon, béo bổ, nhưng đó là cái thấy sai sự thật, thấy theo tham dục của ăn uống. Nếu thấy cái bánh hay ly sữa đúng là phải thấy cái bánh và ly sữa là món ăn thức uống bất tịnh.

Hầu hết mọi người đều si mê nên thấy sai sự thật. Ví dụ: Thân ngũ uẩn của chúng là thân vô thường thế mà mọi người lại thấy thân này là thường hằng nhưng cuối cùng không có người nào sống lâu được, chỉ cao lắm là sống 120 tuổi là chết.

Thấy thân vô thường không thể duy trì sống lâu được nên người ta nghĩ ngay trong thân này còn có một vật thường hằng, đó là cái biết, cho cái biết là tâm nên các tôn giáo gọi tâm là linh hồn, Phật giáo Ðại thừa gọi là Thần thức, Thiền Tông gọi là Phật tánh, Bà la môn gọi là Tiểu ngã, v.v...  Ðó là những si mê của con người chỉ sống trong tưởng mà thôi.

Người còn ham ăn, ham ngủ là người còn si mê. Người còn si mê là người thấy và hiểu biết không đúng như thật nên thường chịu nhiều sự khổ đau do sự hiểu sai.

Ví dụ: Như có người mắng chửi chúng ta. Chúng ta liền tức giận, chính tức giận là vì chúng ta đã hiểu sai, hiểu không đúng như thật. Nếu hiểu đúng sự thật thì phải hiểu nhân quả. Hiểu nhân quả như thế nào?

Hiểu nhân quả là hiểu người kia đang thọ quả khổtức là đang giận dữ nên mới chửi người khác được, do chửi người khác được nên gieo nhân ác. Như vậy, người kia đang đau khổ và đang làmđiều ác. Khi hiểu biết như vậy chúng ta khởi tâm thương yêu hay ghét họ? Chắc chắn là chúng ta thương yêu họ. Chúng ta thương yêu họ là thiện hay ác? Là thiện cho nên chúng ta không tức giận, không chửi mắng lại họ. Vì thế chúng ta đã chuyển được nhân quả. Vì vậy chúng ta sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Cho nên những bậc Thánh không ngủ phi thời, ngủ đúng giờ. Một ngày đêm chỉ nằm nghỉ 30 phút không cần ngủ nhiều như người thế gian vì thế sự hiểu biết của họ như thật, do tri kiến hiểu biết như thật nên tâm họ ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Họ sống bất động tâm trước các ác pháp và các cảm thọ. Họ là người đã đạt được chân lí cứu kính, luôn sống trong thanh thản an lạc và vô sự.

--o0o--

“Ðộc cư, là Thánh hạnh”. Vậy Ðộc cư là Thánh hạnh như thế nào?

Ðộc cư là phương pháp phòng hộ sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, vì có sống độc cưnên năm dục trưởng dưỡng không sanh khởi được. Do năm dục trưởng dưỡng không sanh khởi được nên tâm ly tham, ly sân và ly si. Do ly tham, ly sân và ly si nên tâm trở nên bất động. Do tâm trở nên bất động, chúng ta mới chứng đạt chân lý tức là sống trong trạng thái tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Ðấy quý vị thấy chỉ có một pháp độc cư mà chúng ta tu chứng đạo, dù tu có muôn ngàn vạn pháp mà không sống độc cư thì cũng hoài công vô ích.

Bí quyết thành công của thiền định là pháp độc cư. Ðức Phật thường nhắc người sống độc cư như con tê ngưu một sừng.

Ðộc cư khó lắm các bạn ạ! Ăn ngày một bữa không khó, ngủ ngày 4 tiếng đồng hồ không khó, nhưng độc cư mọi người đều không thể sống nổi. Con đường tu hành theo Phật giáo mà không sống độc cư thì không bao giờ tu tới nơi tới chốn được. Vì có độc cư mới sống cho riêng mình; mới chiêm nghiệm được tâm mình còn tham, sân, si hay đã hết tham, sân, si. Vì có chiêm nghiệm được tâm mình mới ngăn được ác pháp và diệt được ác pháp; vì có chiêm nghiệm được tâm mình mới thấy được tâm mình thanh thản, an lạc và vô sự.

Bởi vậy, độc cư rất quan trọng cho con đường tu tập theo Phật giáo. Sống độc cư chỉ có những bậc Thánh thoát ly thế tục, nếu không thoát ly thế tục thì không bao giờ gọi là tu sĩ Phật giáo được. Vì thế, người tu sĩ được gọi là tu sĩ Phật giáo thì phải cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa sống không gia đình, không nhà cửa, sống một mình như con tê ngưu một sừng, sống phải độc cư, độc bộ, độc hành.

Như trên đã nói, không sống độc cư thì con đường tu theo Phật giáo chỉ hoài công vô ích mà thôi. Bởi vậy, độc cư rất quan trọng quý vị ạ! Phải hết mình cố gắng sống độc cư cho trọn vẹn mới xứng đáng mình là đệ tử của đức Phật.

--o0o--

“Nhẫn nhục, xả tâm là Thánh hạnh”. Trong mọi thời gian, không bỏ sót một phút giây nào cả, đều phải nhắc tâm: “Tâm như cục đất phải ly dục ly ác pháp, không giận hờn thương ghét ai hết, phải thanh thản, an lạc và vô sự; phải bất động tâm trước các ác pháp và các cảm thọ”.

2- Một ngày đêm phải tu tập ngồi kiết già hay bán già lưng thẳng hoặc bất cứ một tư thế ngồi nào trong bốn thời, miễn sao cách thức ngồi phải thoải mái dễ chịu, v.v...  Người mới tu mỗi thời năm phút dần dần tăng lên 30 phút. Và tất cả các thời gian khác trong ngày đêm đều có thể chia ra trong nhiều tư thế: đi, đứng, nằm, ngồi nào cũng được, miễn tư thế ấy phải tĩnh giác, thoải mái dễ chịu để nhiếp tâm và an trú tâm.

3- Người mới bắt đầu tu tập hơi thở, mỗi ngày tập bốn lần, mỗi lần mười hơi thở, hai mắt tập nhìn chóp mũi, chú ý nơi nhân trung cạnh chân mũi, chỗ hơi thở đi ngang ra vào. (Nếu có căng đầu thì dừng lại không được tu tập tiếp, phải thưa hỏi kỹ lại pháp tu).

4- Tập thở hơi thở bình thường, mười hơi thở rồi nhắc tâm: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, tiếp tục tu năm phút xả nghỉ, lần lượt tăng dần lên đúng 30 phút.

5- Tập đi kinh hành mười bước đếm đúng mười bước thì lại hướng tâm: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Chỗ này phải lưu ý: đừng chú tâm vào hai nơi, một là hơi thở và hai là bước đi. Ở đây chỉ chú tâm vào bước đi thì mới đúng nghĩa là đi kinh hành. Chú ý tâm trên bước đi tức là cảm nhận bước đi. Tu tập trên pháp môn Tứ Niệm Xứ Phật dạy: Ði kinh hành là thân hành niệm ngoại còn gọi là Chánh niệm tỉnh giác định. Hơi thở là thân hành niệm nội còn gọi là Ðịnh niệm hơi thở. Các Tổ không rõ Ðịnh niệm hơi thở nên gọi Ðịnh niệm hơi thở là quán niệm hơi thở (Sổ tức quán). Khi đã tập được mười hơi thở không có một tạp niệm xen vào thì lại tiếp tục đứng dậy đi kinh hành đếm hai mươi bước đi kế tiếp. Trước khi đi thì phải hướng tâm “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Hướng tâm xong rồi bước đi từ bước thứ nhất chođến bước hai mươi, cứ mười bước lại hướng tâm một lần nữa, khi đếm hai mươi bước thì lại tiếp tục hướng tâm. Hướng tâm xong, thì lại tiếp đếm bước hai mươi mốt cho đến ba mươi, cứ đếm như vậy cho đến 100 bước. Nếu đếm như vậy thấy không tiện thì nên đếm từ một đến mười rồi đếm trở lại một đến mười.

Nếu có tạp niệm xen vào thì nên lui lại 50 bước, 50 bước còn có tạp niệm xen vào thì lui lại 10 bước xả nghỉ. Xả nghỉ năm phút rồi đi kinh hành lại.

6- Quán xét thực phẩm bất tịnh để tâm không cònưa thích ăn uống ngon béo ngọt bùi.

7- Quán xét đời sống con người khổ để xa lìa tâm tham đắm vật chất thế gian.

8- Quán xét thân vô thường sự sống chết như chỉ mành treo chuông để tinh tấn tu tập diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp.

9- Quán xét bệnh là khổ để siêng năng tinh tấn tu hành, tập làm chủ bệnh.

10- Quán xét tâm tham, sân, si, mạn, nghi là ác pháp, là nguy hiểm, là đau khổ. Ðể tâm được thanh thản, an lạc và vô sự.

11- Quán xét thân bất tịnh để phá tâm sắc dục không ham thích phụ nữ.

12- Quán xét tâm vô thường để không bị lầm chấp tâm là linh hồn, là Phật Tánh, là Bản thể vạn hữu.

13- Quán xét thọ vô thường để tâm bất động khi gặp thọ khổ chẳng hề sợ hãi.

14- Quán xét các pháp vô thường để tâm không tham đắm và dính mắc, không sinh ra năm dục trưởng dưỡng.

15- Quán tâm từ để không làm đau khổ chúng sanh, để tâm không sân hận.

16- Quán tâm bi để không làm thương tổn chúng sanh.

17- Quán tâm hỷ để tha thứ lỗi lầm của kẻ khác và không thù oán ai hết.

18- Quán tâm xả để tâm thanh thản an lạc vô sự và bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.

19- Khi mọi hoàn cảnh bất an hoặc tai nạn, bệnh tật thì quán xét nhân quả.

20- Mỗi ngày ít nhất phải nhắc tâm một lần, tức là như lý tác ý: “chỉ trong đời này ta phải tu tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết”.


Page 14

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NPTCB, tập 2, TG. 2011, tr.115-138)
link sách: NPTCB, tập 2

Hỏi: Kính bạch Thầy! Trong kinh Duy Ma Cật dạy: “Bồ tát bịnh vì chúng sanh bịnh”. Câu kinh này dạy có đúng theo giáo lý của đạo Phật hay không? Kính xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.

Ðáp: Kinh Duy Ma Cật là kinh phát triển. Kinh giáo phát triển là kinh sách chịu ảnh hưởng của nhiều tôn giáo và những phong tục tập quán khác nhau của con người trên hành tinh này mà thành lập ra giáo lý của mình, nó không có gì đặc biệt riêng của nó, chỉ khéo dùng những danh từ thật kêu và cũng giống như vẽ rắn thêm chân, thêm râu, khiến cho mọi người dễ bị lường gạt tưởng là rồng thật. Giáo lý phát triển và thiền Ðông Ðộ cũng lường gạt tín đồ như vậy, tưởng là một chân lý siêu việt của đạo Phật, nào ngờ là một giáo lý chắp vá, như chiếc áo may nhiều loại vải thô xấu. 

Câu: “Bồ tát bịnh vì chúng sanh bịnh” cũng giống như câu: “Chúa chịu đóng đinh trên thánh giá là vì Chúa chịu khổ thay cho con người”.

Trên bước đường hoằng hóa độ sanh của Phật giáo, sau Ngài A-Nan nhập diệt, các vị lãnh đạo Phật giáo lúc bấy giờ nguồn gốc là những giáo sĩ Bà La Môn và lục sư ngoại đạo. Vì thế, kinh sách phát triển do các vị này biên soạn và viết ra, nên các ngài cố tình dìm giáo lý của đức Phật xuống và lồng giáo lý của mình vào, để phát triển một Phật giáo mới mang tên là “Phật giáo Ðại thừa”.

Trước khi nhập diệt, đức Phật đã nhìn thấy trong môn đồ của mình, chưa có ai là người có đủ khả năng lãnh đạo giáo hội và duy trì giáo pháp của mình. Ngài biết rất rõ, những kẻ có khả năng, có trí tuệ, có học thức đều xuất thân từ trong các gia đình của Bà La Môn và Lục sư ngoại đạo, họ còn mang đầy ắp những kiến chấp trong tôn giáo của họ. Do những kiến chấp này, họ không thực hiện theo giáo pháp của đức Phật.

Và cũng vì thế họ tu hành không giải thoát, không chứng đạt. Còn những đệ tử của đức Phật đã tu chứng thì hầu hết đã nhập diệt, chỉ còn lại một số ít. Khi đức Phật nhập diệt xong và giáo đoàn bị phân hóa chia làm nhiều bộ phái, do những người có trình độ kiến thức tranh danh, đoạt lợi với nhau. Ðức Phật biết rất rõ những đệ tử này, nên không trao quyền thừa kế lãnh đạo Phật giáo cho ai cả, chỉ nhắc nhở các đệ tử của mình nên “lấy giới luật và giáo pháp làm Thầy, không nên nương tựa vào ai cả”. Ngài đã từng dạy con người có ba tướng:

1- Nhân tướng.

2- Hành tướng.

3- Ðặc tướng.

Do ba đặc tướng ấy, nên con người không ai giống ai. Vì thế, đức Phật không trao quyền thừa kế cho người đệ tử nào hết. Bởi nếu được trao quyền, họ sẽ dạy đạo theo đặc tướng riêng của họ, thì Phật pháp sẽ bị lệch đi, không còn đúng chánh pháp, dù đó là những người đệ tử đã tu chứng, còn những hạng đệ tử tu không chứng, thì lại còn không được trao quyền thừa kế hơn nữa.

Vậy mà sau này, các vị giáo sĩ Bà La Môn còn bịa câu chuyện “Niêm Hoa Trên Núi Linh Thứu”,   rằng đức Phật đã trao quyền cho Ngài Ca Diếp thừa kế làm tổ thứ nhất. Ðó là một câu chuyện bịa đặt, thế mà mọi người vẫn tin và còn tiếp tục xây dựng thành 33 vị Tổ Sư Thiền Ðông Ðộ. Tuy không được trao quyền thừa kế, nhưng họ đã khéo léo biến Phật giáo thành Thần giáo. Giáo lý của Phật biến thành một giáo lý chấp ngã, thần quyền, mê tín, mơ hồ, trừu tượng, lạc hậu, phi đạo đức, đi ngược lại giáo lý chân chánh của đạo Phật.

Những vị giáo sĩ Bà La Môn và giáo sĩ của Lục Sư ngoại đạo theo Phật tu hành đạt được giải thoát thì lần lượt họ đã thị tịch trước hoặc sau Ngài không bao lâu, còn lại những người tu chưa chứng đắc, tâm danh lợi còn dẫy đầy. Những vị tỳ kheo này là những tỳ kheo phá giới, phạm giới, sống không đúng phạm hạnh, tu không đúng lời dạy của Phật, họ là những người ngoại đạo, với những thâm ý sâu độc, mang lớp tu sĩ Phật giáo, ẩn núp chờ khi đức Phật thị tịch là sẽ biến giáo pháp của Phật thành giáo pháp Bà La Môn và Ấn Ðộ giáo.

Quý vị, nên đọc lại kinh Phạm Võng “Bồ tát giới”, cấm không cho tu sĩ và cư sĩ học và tu theo pháp môn Nguyên Thủy. “Bồ tát giới” cho giáo pháp Nguyên Thủy của Phật là ngoại đạo, là Thinh Văn thừa, là Nhị thừa, là phàm phu thiền...

Ðọc Bồ tát giới, chúng ta mới thấy rõ thâm ý ác độc của ngoại đạo quyết tâm diệt Phật giáo, có thủ đoạn và sách lược rõ ràng, với ý đồ lật đổ đức Phật Thích Ca Mâu Ni thay vào bằng đức Phật Di Lặc, để dễ bề sử dụng toàn bộ giáo pháp Ðại thừa mà không còn ai nghi ngờ.

Và sẽ cấm không cho tín đồ tu và học theo giáo pháp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, kinh sách và giáo lý của đức Phật Thích Ca Mâu Ni sẽ bị đốt sạch.

Ðúng vậy, sau khi đức Phật tịch, trong giáo hội chia làm hai bộ phái:

1- Thượng tọa bộ.

2- Ðại chúng bộ.

Thượng tọa bộ là những tu sĩ già thủ cựu, cố giữ nguyên giáo lý căn bản Nguyên Thủy của đức Phật, không cho ai thêm bớt một chữ nào cả. Ðem kinh sách này hoằng hóa và phát triển đi về phương Nam, nên người thời bấy giờ gọi là Phật giáo Nam tông.

Trên đường hoằng hóa độ sanh, Thượng tọa bộ tuy cố giữ gốc Nguyên Thủy, nhưng vì các vị tu hành chưa chứng đắc, nên có sự kiến giải trong giáo lý ấy bằng trí tuệ học giả, hoặc bằng những kinh nghiệm chưa đến nơi đến chốn, như thiền sư Mahàsi, thiền sư A-Chaan-chah. Hai Ngài có những bài kinh biên soạn theo kiến giải kinh nghiệm tu hành của mình như: Mặt Hồ Tĩnh Lặng, Thiền Minh Sát Tuệ, v.v… Làm sai ý nghĩa và giáo pháp của đức Phật rất lớn. Vì tu hành chưa tới nơi tới chốn, nên các Ngài biên soạn những loại kinh sách này, trong hiện tại và mai sau sẽ để lại cho loài người những tai hại rất lớn, làm hao tài, tốn của và phí cả cuộc đời của họ chẳng ích lợi gì, khi họ theo tu những pháp môn này.

Trong thế kỷ này, tín đồ Phật giáo khắp năm châu bốn biển đua nhau tu tập thiền Minh Sát Tuệ. Tu tập thiền này phải tập trung theo cơ bụng (phồng, xẹp) nhằm diệt “vọng tưởng”. Loại thiền ấy thuộc về thiền ức chế tâm, nó không phải là thiền của đạo Phật, thiền của Phật giáo là loại thiền xả tâm “ly dục, ly ác pháp”. Mục đích tu hành của đạo Phật là phải khắc phục cho bằng được tâm tham, ưu, tức là diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly ác pháp, để đạt được tâm thanh tịnh bất động.

Theo kinh nghiệm tu hành của những người đã trải qua, thì tâm thanh tịnh bất động ấy là tâm không còn tham, sân, si. Khi tâm không còn tham, sân, si thì tâm có một năng lực (đạo lực) siêu việt, điều khiển làm chủ sanh, già, bịnh, chết.

Năng lực điều khiển làm chủ sự sống chết của kiếp người mà đức Phật gọi là “Bốn Như Ý Muốn” (Tứ Như Ý Túc), chứ không phải “Minh Sát” theo kiểu thiền sư Mahàsi dạy.

Cũng trong thế kỷ này, thiền sư A Chaan-Chah người Thái Lan đã kiến giải qua kinh nghiệm tu hành của mình sản xuất ra một loại thiền “Tĩnh Lặng”. Qua hồi ký tu hành của Ngài, do ức chế tâm hết vọng tưởng, Ngài đã rơi vào thiền tưởng, thay vì ngài tu đúng pháp “ly dục, ly ác pháp” thì tâm Ngài sẽ thanh tịnh. Khi tâm thanh tịnh thì Ngài sẽ nhập được Nhị thiền, Tam thiền đến Tứ thiền và thực hiện Tam Minh, làm chủ sanh, già, bịnh, chết một cách dễ dàng, không có khó khăn mệt nhọc. Nhưng vì ức chế tâm để được tâm tĩnh lặng, nên thanh tưởng phát ra tiếng nổ trong đầu Ngài. Ngài cảm thấy như cả vũ trụ đều tan biến (giống như thiền sư Ðông Ðộ lúc ngộ đạo), rồi từ đó tưởng giải phát ra. Ngài đối đáp vấn đạo giống như thiền sư Ðông Ðộ không khác.

Cho nên, kinh sách Nguyên Thủy hiện giờ bên phái Nam tông chưa hẳn đã là nguyên thủy. Vì các nhà học giả mượn lời Phật dạy rồi thêm bớt rất nhiều theo tưởng giải của mình, khiến cho người đời sau sưu tầm và nghiên cứu những lời Phật dạy, không biết đâu là đúng, đâu là sai. Thật khó cho những ai ở đời sau muốn tu theo đạo Phật, nếu không rõ sẽ lại rơi vào pháp ngoại đạo, rồi chấp nhận giáo pháp của ngoại đạo là giáo pháp của Phật, thật đau lòng!

Ở đây nói về kinh sách Nam tông, tức là kinh sách Nguyên Thủy, mà các sư còn dám thêm bớt và còn nghĩ tưởng theo kiến giải của mình biên soạn và viết ra, thì làm sao đúng ý của Phật được. Bằng chứng chúng ta thấy rất rõ, thiền sư Mahàsi đã dám làm thì các vị trước kia làm sao không dám thêm bớt. Thế mà kinh sách này lại được phổ biến rộng rãi khắp các nước trên thế giới.

Còn kinh sách Bắc tông, với sự phát triển theo kiến giải phóng túng của các nhà học giả, thì thử hỏi, sự sai biệt với lời Phật dạy có gấp trăm, ngàn lần không?

Vả lại, kinh sách Ðại thừa bị thế tục mê tín, lạc hậu hóa rất nhiều. Ví dụ một sự mê tín trong dân gian, ngày hai ba tháng chạp, tất cả mọi gia đình đều làm lễ cúng đưa “ông Táo” chầu trời, thì trong chùa cũng học theo điều đó mà làm lễ cúng bái, tiễn “chư Thiên” về trời.

Từ khi Tăng đoàn Phật giáo được chia làm hai nhóm (Thượng tọa bộ và Ðại chúng bộ), thì Ðại chúng bộ không còn bị sự kềm chế của Thượng tọa bộ, nên kinh sách tự do phát triển theo kiến giải học giả, không cần có kinh nghiệm tu hành, phần nhiều chịu ảnh hưởng của các tôn giáo khác và phong tục tập quán của dân gian.

Lợi dụng Phật giáo không có người tu chứng điều khiển, nên Ðại chúng bộ mặc sức phát triển theo tâm danh lợi của họ. Do đó, kinh sách phát triển Ðại thừa ra đời với một khối lượng vĩ đại. Những người có khả năng viết lách, ai muốn viết muốn luận như thế nào cứ mặc tình viết và lý luận, miễn sao có lý, nghe xuôi tai là được, đời sau tu được hay không được mặc kệ, chỉ bây giờ ngòi bút viết phóng túng cho thỏa thích mà thôi. Muốn truyền bá loại kinh sách này, Ðại thừa giáo không thể đi về phương Nam được, vì nơi đó đã có kinh sách Nguyên Thủy do Thượng tọa bộ truyền bá, nên tín đồ ở đó xem kinh sách này (kinh sách Ðại thừa) là kinh sách Bà La Môn giáo, chẳng ai thèm theo và đọc. Vì thế, kinh sách này truyền về phương Bắc, những người dân ở phương Bắc chưa hiểu gì về Phật giáo, nên kinh sách Ðại thừa truyền đến đâu đều được họ chấp nhận ngay, là vì các nhà Ðại thừa biết dựa theo phong tục mê tín lạc hậu của người dân địa phương triển khai thành kinh sách, và còn sử dụng thần thông, kỳ lạ, v.v... Do thế, kinh sách này đã phát triển về phương Bắc dễ dàng, nên gọi là Phật giáo Bắc tông.

Trên đường hoằng hóa độ sanh về phương Bắc, gặp tôn giáo nào thì Phật giáo Bắc tông thu thập tinh ba của tôn giáo ấy, rồi biến thành giáo lý của mình. Khi đến Trung Hoa, nó lấy tinh ba của Lão giáo biến thành giáo lý Tối Thượng thừa của mình, mà các nhà khoa học, tâm lý học gọi là “Thiền tông”, đó là Phật giáo bị thế tục hóa.

Ðến Việt Nam thì không có tôn giáo nào đặc biệt, không có tinh ba triết lý nào vĩ đại, nên Ðại thừa đã dung hợp ba tôn giáo lớn là Phật (Ðại thừa), Lão (Tiên đạo), Khổng (Nho đạo) lại thành một Phật giáo Việt Nam, “Vạn Hạnh dung tam tế”.

Sinh hoạt của “Phật giáo mới” này tiếp tục triển khai kinh sách phát triển, bằng cách dựa theo phong tục tập quán dân gian biến dần thành kinh sách của mình, để đáp ứng nhu cầu mê tín dân gian. Cho nên, trong chùa thờ đủ loại thần, thánh, tiên, Phật, ma, quỷ, cô, cậu, các bà chúa, Quan Thánh Ðế Quân, Thập Ðiện Minh Vương, Ngọc Hoàng, Thượng Ðế, Long Thần Hộ Pháp, Bát Bộ Kim Cang, cô hồn, các đảng, thập loại âm binh, Nam Tào, Bắc Ðẩu, hài cốt và vong linh của những người chết, v.v...

Kinh sách phát triển dạy đầy ắp những điều mê tín, nào là cúng vong, tiễn linh, thí thực cô hồn các đảng, nào là cúng sao, giải hạn, cúng yếm thần trù, quỷ dữ, nào là cầu siêu, cầu an, xin xăm, bói quẻ, xem ngày tốt xấu, trừ linh, trừ thần, v.v... Mỗi chiều ở các chùa cổ xưa đều cúng thí thực cô hồn, các đảng, quỷ chùa bằng gạo muối, v.v... Phung phí của đàn na thí chủ vô ích.

Hình thức cúng bái tạo ra cớ có vẻ thật sự có thế giới siêu hình đang sống chung đụng với thế giới hữu hình của con người, mà mỗi tai ương, hoạn nạn, tật bịnh của loài người đều do con người của thế giới siêu hình tạo ra.

Kinh sách phát triển của Ðại thừa đã lừa đảo con người bằng một thế giới siêu hình mang nhiều hình thức mê tín, lại còn gạt người khác bằng cách hy sinh to lớn với lòng đại từ, đại bi như Kinh Duy Ma Cật dạy: “Bồ tát bịnh vì chúng sanh bịnh”.

Có bao giờ Bồ tát “bịnh” để chia sẻ nỗi khổ đau của chúng sanh được chăng? Ðạo Phật đã dạy cho chúng ta biết rất rõ ràng, nhân nào quả nấy, ai đã tạo nhân ác thì phải gặt lấy quả khổ, không ai chịu thay quả khổ đó cho ai được. Ðó là một đạo luật nhân quả công bằng và công lý của nhân loại. Vậy mà có Bồ tát chịu khổ, chịu bịnh thay cho chúng sanh (như Chúa chịu đóng đinh trên Thập Tự Giá chịu tội thay cho Môn đồ). Hành động của Bồ tát như vậy có phi đạo đức chăng? Con người sanh ra trên thế gian này, như đức Phật đã xác định, từ nhân quả sanh ra, sống trong nhân quả, chết vì nhân quả.

Xác định như vậy thì không có đấng tạo hóa nào sanh ra con người. Vì thế, không có kẻ nào ban phước giáng họa cho con người, mà cũng không có kẻ nào thay thế chịu sự khổ đau của con người.

Cho nên câu: “Bồ Tát bịnh vì chúng sanh bịnh” là câu lừa đảo, gạt người của kinh sách phát triển, để chứng tỏ Bồ tát là kẻ vĩ đại, Bồ tát có lòng từ bi rộng lớn, thương xót đối với tất cả chúng sanh, nhưng không ngờ lời nói dối trá thành phi đạo đức. Ðối với đạo Phật, câu nói này là câu nói gian xảo, lừa bịp người đệ nhất.

Vì kinh Pháp Cú, Phật dạy, ai đã tạo nhân ác thì phải gánh chịu quả khổ, không một ai chịu thay cho ai được, đó là luật nhân quả công bằng tuyệt đối.

Khi còn tại thế, đức Phật đã từ chối: “Các con tự thắp đuốc lên mà đi, ta chỉ là một người hướng đạo chỉ đường mà thôi”. Lời dạy này đức Phật đã khẳng định sự từ chối không cứu độ ai hết, mà mọi người phải tự cứu mình. Cho nên, những lời dạy của Ngài luôn luôn nhắc nhở chúng ta phải tự hành thiện, chỉ có hành thiện mới đem lại sự an vui cho mình, cho người và cho tất cả muôn loài sanh linh.

Vậy mà Phật giáo phát triển có một Duy Ma Cật dám bịnh thay cho chúng sanh, dám chia sẻ nỗi khổ đau của chúng sanh, thật là gan dạ, dám phá bỏ luật nhân quả. Nếu có một Duy Ma Cật làm được như vậy thì đạo đức trong thế gian này còn gì?

Chúng sanh do không hiểu (vô minh) mà làm điều ác, tạo tội lỗi rồi phải chịu nhiều thống khổ do hành động đó. Ðạo Phật ra đời chỉ có mục đích cứu giúp con người thoát khổ bằng cách chỉ dạy cho họ thấu hiểu những điều họ làm là ác, là bất thiện và sẽ đem đến quả khổ đau cho họ, chứ không ai làm cho họ khổ mà chính họ. Ðể chứng minh lộ trình nhân quả cụ thể cho họ thấy và hiểu rõ hơn, thì từ đó họ không còn hành động làm ác, làm khổ mình, khổ người nữa, thì chừng đó họ sẽ không còn chịu sự khổ đau nữa, tâm hồn họ sẽ được thanh thản, an lạc và luôn sống tùy thuận hòa hợp với mọi người.

Ðạo Phật cứu người là giúp con người vén sạch màn “vô minh”, để từ đó họ sáng suốt hiểu rõ không còn lầm lạc trong hành động ác, để không tự tạo khổ cho mình, cho người nữa. Sự hiểu biết tránh làm điều ác và luôn thực hiện làm điều thiện, nên đạo Phật gọi sự hiểu biết đó là trí tuệ, hay gọi là tri kiến giải thoát. Nhờ có tri kiến giải thoát, nên đạo Phật gọi là đạo giải thoát, tri kiến giải thoát đó không phải của ai khác, mà phải chính của mình mới giải thoát cho mình được.

Cho nên câu nói: “Bồ Tát bịnh vì chúng sanh bịnh” là câu nói nghe rất hay, nhưng ý nghĩa rất dở, vì phi đạo đức, thiếu công bằng và công lý.

Ðối với luật nhân quả, không ai có thể đau bịnh hoặc chịu tai nạn thế cho ai được, và cũng không thể chia xẻ nỗi đau khổ với chúng sanh được.

Câu nói: “Bồ tát bịnh vì chúng sanh bịnh” là câu nói láo, lừa đảo thật sự. Nếu quả có một Bồ tát bịnh thay cho chúng sanh hoặc chia sẻ nỗi đau khổ này, thì chúng sanh phải hết khổ, và ít nhất cũng phải giảm thiểu được sự đau khổ.

Nhưng con người trên hành tinh này có hết đau khổ đâu, vậy thì Bồ tát nói có đúng không? Nhưng luật nhân quả đã không chấp nhận điều này, nếu chấp nhận điều này thì thế gian này còn lấy đâu gọi là đạo đức, công bằng và công lý.

Một kẻ làm ác mà có người chịu thay tội khổ, thì nhà giàu có, người làm quan, kẻ làm vua chắc không bao giờ có khổ đau, bịnh tật và tai nạn, v.v...

Nhưng thật sự, nhìn cuộc sống con người trên thế gian này từ vua, chúa, quan, dân, người giàu có và đến những kẻ nghèo cùng, khốn khổ, mỗi giới, mỗi giai cấp đều có sự khổ đau, bịnh tật như nhau mà không có ai thoát khỏi, nhất là bốn sự khổ: sanh, già, bịnh, chết, và cũng chẳng ai thay thế cho ai được bốn sự khổ này chút nào.

Câu nói phi đạo đức nhân quả của Bồ tát Duy Ma Cật đã làm cho kinh sách phát triển mất giá trị, nhất là đạo đức của con người. Nếu bảo rằng kinh sách phát triển chỉ là để dùng cho bậc Thánh, Hiền, Bồ tát, chư Phật, tâm không còn sống trong các pháp đối đãi (bất nhị), nên lời nói của Bồ tát Duy Ma Cật vượt thoát các pháp đối đãi. Nếu luận như vậy thì còn sai hơn nữa. Thánh, Hiền, Bồ tát và chư Phật không còn biết đạo đức làm người nữa hay sao? Tức là không có pháp thiện và cũng không có pháp ác nữa (bất nhị).

Hàn Sơn, Thập Ðắc, Tế Công Hòa thượng, Phật sống Cựu Kim Sơn... ăn uống dơ bẩn, lại còn ăn thịt uống rượu, phạm giới tận cùng, đó là các Ngài sống tự tại vô ngại trong pháp môn bất nhị của Ðại thừa. Vì thế, các Ngài không còn là con người, mà là loài ác quỷ từ pháp môn bất nhị đã sanh ra, và hiện giờ trong pháp môn bất nhị ấy còn sanh biết bao nhiêu loài ác quỷ nữa. Nếu chúng ta không chặn đứng được pháp môn bất nhị, thì một nguy cơ khiến cho con người không tiến bộ mà còn sống thụt lùi về thời lạc hậu, dã man hung ác.

Nếu bảo rằng: “Chấp giới” thì phạm hạnh, tức là đạo đức của người tu sĩ Phật giáo ở chỗ nào? Không lẽ đạo Phật không có đạo đức sao? Hay toàn là những thầy tu phạm giới phá giới, v.v...

Hai trăm năm chục giới tỳ kheo tăng và ba trăm bốn mươi tám giới tỳ kheo ni, không phải là đạo đức Phật giáo sao?

Người tu sĩ nào phạm giới, phá giới là người tu sĩ không có đạo đức và thiếu giáo dục đạo đức.

Ðừng dùng những danh từ “chấp giới” và “tự tại vô ngại”, hoặc “thỏng tay vào chợ” để bưng bít hay bịt miệng thiên hạ, để được sống chạy theo dục lạc thế gian mà người ta vẫn tưởng đó là Phật sống. Nên các vị giáo sĩ Bà La Môn dựng lên những nhân vật phá giới, phạm giới, như Tế Ðiên tăng, Phật sống Cựu Kim Sơn, Hàn Sơn, Thập Ðắc, để giúp cho quý thầy Ðại thừa và các thiền sư Ðông Ðộ tự do phá giới, sống phạm giới mà tín đồ không dám phê phán, đó là một tấm bình phong che dậy cho những người tu danh, tu lợi.

Kinh sách phát triển đã lầm, hay nói cách khác là không hiểu đạo đức của đạo Phật là gì? Nên thường nói giọng kiêu kỳ: “Ðại thừa, Tối Thượng thừa”, tự xưng mình là giải thoát trên hết.

Vì Thánh hiền, chư Phật, chư Bồ Tát, tất cả phàm phu và chúng sanh đều từ nhân quả sanh ra. Mà đã từ nhân quả sanh ra thì không sống trong hành động thiện, ác sao? Hành động thiện không phải là đạo đức sao? Và hành động ác không phải là phi đạo đức ư? Toàn bộ “giới luật” của Phật đều dạy chúng ta phải sống và hành động với đạo đức làm Người, làm Thánh nhân, làm Phật.

Cớ sao những người thiếu hành động đạo đức mà chúng ta lại xem họ như Phật. Họ chỉ có một vài thần thông tưởng lòe bịp thiên hạ, chứ đức hạnh chẳng ra gì.

Sao mọi người vô minh điên đảo, hễ thấy ai có chút ít thần thông đều cho họ là Phật, Thánh, Tiên, rồi cung kính, lễ bái và cũng dường, trong khi những hành động đạo đức của họ chẳng ra gì, còn tệ hơn người phàm phu là khác nữa. Phật và Thánh đều từ những con người phàm phu, tu tập trau dồi thân tâm xa lìa ác pháp, không còn xảo quyệt, gian ngoa, lừa đảo, luôn luôn sống trong hành động đạo đức, thì mới gọi là Thánh nhân, Phật. Có đâu dùng những lời hoa mỹ cao thượng như: “Tự tại vô ngại; chấp giới; thõng tay vào chợ; đói ăn, khát uống, mệt ngủ liền”, khiến cho những người chưa hiểu đạo đức nhân quả của Phật dễ bị lầm lạc. Họ tưởng những người này là bậc Thánh cao thượng dám hy sinh mình vì mọi người, chịu khổ đau vì nhân loại, vì loài người dẹp bỏ cá nhân mình thật là vĩ đại. Nhưng trong cái vĩ đại đó, là không vĩ đại gì hết. Vì ai đã làm ác thì người đó phải gánh chịu quả khổ, không thể ai gánh vác được cho ai, dù kẻ đó là Thánh, Thần, chư Phật, chư Bồ Tát cũng không thể gánh chịu cho ai được, thế mới gọi là công bằng, công lý. Còn có người chịu thay thế được quả khổ đau cho kẻ khác, thì trên thế gian này con người làm sao có một đạo luật gọi là công bằng và công lý được? Nếu có người chịu khổ cho kẻ khác thì thế gian này sẽ ra sao? Như trên chúng tôi đã nói, nếu trên thế gian này không có một đạo luật công bằng như đạo luật nhân, quả, thì con người chỉ còn là một ác thú mà thôi. Vì thế, những lời nói chịu khổ cho nhân loại là lời lừa đảo, bịp người, với những người còn đang sống trong giấc mơ “siêu hình”.

Chúng ta là những người còn phàm phu tục tử, còn sống trong cảnh đối đãi, nên chỉ biết ở trong cảnh đối đãi mà tu tập trau dồi đạo đức như thế nào để cùng sống chung nhau, đối xử với nhau mà tâm hồn thanh thản, an lạc, không làm khổ mình, khổ người. Thì đó là chân hạnh phúc của loài người, và đó cũng là sự giải thoát của đạo Phật, giải thoát chung cho loài người. Chứ không như kiểu giải thoát của kinh Duy Ma Cật, chỉ dành riêng cho những bậc Bồ tát, chư Phật và Thánh hiền với trí tuệ “Bất nhị”.

Ða số các tôn giáo hiện có mặt trên thế gian này đều xây dựng cho loài người một thế giới tuyệt vời “Bất nhị”. Cái thế giới ấy rất xa vời với loài người, vì con người không thể với tới, không thể có trí tuệ “Nhất nguyên” đó được, chỉ có những bậc Thánh, Hiền như Bồ tát Duy Ma Cật trong kinh sách phát triển mà thôi. Thậm chí như đức Phật, Ngài còn thua xa Bồ tát Duy Ma Cật, chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni Ngài cũng không dám sống trong pháp môn “Bất nhị”, vì đó là pháp môn phi đạo đức.

Những bậc Thánh “Bất nhị” này lý luận mơ hồ, trừu tượng, tưởng giải, chỉ là giấc mộng đẹp của Bà La Môn giáo mà thôi.

Nhìn chung, giáo lý của các tôn giáo đều xây dựng cho loài người một giấc mơ đẹp, để an ủi tinh thần con người trong cuộc sống lầm than và nhiều đau khổ, hơn là giải khổ ngay trên thực tế cho họ.

Ngoài những giáo lý ấy, có một thứ giáo lý khác được mang một cái tên nhỏ bé: “Tiểu thừa Phật giáo”. Tiểu thừa Phật giáo chỉ mang một cái tên như vậy cũng đủ khiến cho người ta xem thường, coi rẻ, người ta tưởng tượng trong đầu: giáo pháp đó chẳng ra gì, chẳng bằng ai, không cao siêu vi diệu; nhỏ mọn, hạn hẹp, tầm thường, chẳng có gì để cho mọi người đáng quan tâm.

Chính chúng tôi trong những ngày đầu mới xuất gia tu học theo Phật, thấy kinh sách Tiểu thừa là chúng tôi cũng có tư tưởng không muốn đọc, và cũng không muốn tu theo nó nữa. Các bậc thầy, tổ thường ca ngợi kinh sách Ðại thừa, khuyên chúng tôi nên học, đọc và tu theo những bộ kinh Ðại thừa như: Pháp Hoa kinh, Thủ Lăng Nghiêm kinh, Viên Giác kinh, Duy Ma Cật kinh, Ðại Bửu Tích kinh, Hoa Nghiêm kinh, Pháp Bảo Ðàn kinh, kinh Bát Nhã, v.v...

Khi học và đọc những bộ kinh này, chúng tôi thấy nó quá vĩ đại, lý luận tuyệt vời, chỉ rõ bản thể con người rất cụ thể, nếu không có kinh sách này dạy thì khó mà ai nhận ra được “Phật tánh”.

Từ đó, chúng tôi tin kinh sách này như là của báu.

Các Tổ, các bậc Tôn túc và các Thầy, từ bao nhiêu thế kỷ nay đã bị kinh sách này lừa đảo, khiến tu hành lầm lạc, cứ tu theo các pháp môn đó mà tu chẳng đi đến đâu cả, kết quả cũng chẳng có gì, chỉ có cảm giác an lạc của dục tưởng xúc, và cuối cùng thì có một vài thần thông tưởng. Như vậy mà các thầy, tổ đã tự mãn nguyện, hoặc thấy sắc tưởng, thanh tưởng, phát hiện thấy trước mắt và tiếng nổ trong tai là tự cho mình tu chứng đạo.

Con đường tu như vậy thật là đau lòng, họ không biết chứng đạo là chứng cái gì? Hay chỉ cần nói: “Vô sở đắc” là đủ mãn nguyện tu hành.

Phật tánh, thần thông, các cảnh giới siêu hình như: xuất hồn, nhập định, hay là tự tại vô ngại, ngũ uẩn giai không, phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu, v.v... đó chỉ là sống trong thế giới tưởng của tưởng tri. Ngộ nhận những trạng thái tưởng này cho là chứng đạo, nên các Ngài truyền thừa với nhau về phương Bắc, nhưng vì danh lợi, nên mỗi Ngài hùng cứ một phương, chia ra làm năm tông bảy phái (Thiền tông Trung Quốc).

Ðến Việt Nam, Thiền tông thành lập ra phái Thảo Ðường, Trúc Lâm, Liễu Quán, v.v... Tên thì có khác, nhưng khuôn là thiền Ðông Ðộ thì không có gì khác cả, đều nhai lại bã mía của Trung Quốc.

Ðến thời đại chúng ta, Phật giáo Bắc tông vẫn phát triển đều đều, người tu thì đông vô số kể, mà đạt được thì chẳng có gì, chỉ là một trò lừa đảo bịp người mà thôi. Truyền thừa với nhau từ đời này sang đời khác lúc thịnh lúc suy, nhìn chung chẳng có ai tu đến đâu cả, chỉ là diễn xuất tuồng hát trên sân khấu, hết màn Tịnh Ðộ tông, đến màn Thiền tông; hết màn Thiền tông, đến màn Mật tông; hết màn Mật tông, đến màn Pháp Hoa tông, v.v... Cứ những tông này diễn tới diễn lui chẳng có gì mới mẻ cả.

Người truyền đạo thì cũng chẳng biết mình truyền đúng hay sai của đạo Phật, người tu thì lại nhắm mắt tu đùa, chẳng cần suy nghĩ xem xét kỹ lưỡng, chỉ nghe Ðại thừa, Tối Thượng thừa là ngon lành, là siêu việt, còn những loại kinh sách Tiểu thừa Nguyên Thủy thì xem chẳng ra gì, liệt những loại kinh sách này là ngoại đạo.

Lúc chúng tôi mới bước vào chùa tu hành, thích học được kinh sách Ðại thừa và thích tu thiền Tối Thượng thừa, xem kinh sách Tiểu thừa A Hàm như đồ bỏ (ngoại đạo), mà trong kinh Phạm Võng Bồ Tát giới đã cấm không cho học và tu giáo lý này.

Tu như ông Xá Lợi Phất và ông Mục Kiền Liên, tiên nữ rắc hoa còn dính mắc (trong kinh Duy Ma Cật), các Ngài chỉ là hàng Thinh Văn, không bằng Bồ tát và Phật, uổng công tu hành mà chỉ ở những bậc thấp lè tè. Ðối với Ðại thừa, thì lời dạy của đức Phật cũng chỉ là ngoại đạo, sao bằng kinh sách Ðại thừa “kiến tánh thành Phật”, nhanh chóng như trở bàn tay.

Ðó là quan niệm hết sức sai lầm của chúngtôi, do bị ảnh hưởng kinh sách Ðại thừa và thiền Ðông Ðộ. Vì thầy, tổ truyền dạy cho nhau không ngoài kinh sách Ðại thừa.

Xướng minh pháp môn Tịnh Ðộ, tổ Vĩnh Minh Diên Thọ lại còn gạt người hơn nữa bằng những từ ngữ rất kiêu: “Người tu Thiền mà không tu Tịnh Ðộ, 10 người chưa được một người tu chứng”. “Người tu Thiền mà tu thêm Tịnh Ðộ như cọp mọc sừng, 10 người đều chứng cả 10."

Tịnh Ðộ còn dùng những lời lẽ cám dỗ và hăm dọa hơn cả những lời lẽ ở trên, để ngăn chặn và lừa đảo tín đồ một cách có thủ đoạn. Tinh Ðộ tông cho rằng thời đại chúng ta là thời đại mạt pháp, loài người sắp tận thế, chỉ có pháp môn Tịnh Ðộ tu hành dễ chứng và tu chưa chứng đạt cũng được đức Phật A Di Dà rước về cõi Cực Lạc rồi tiếp tục tu hành.

Sau những năm tháng tu hành với hoài bão làm chủ sanh, già, binh, chết, chấm dứt sự khổ đau của kiếp người, chúng tôi bị các pháp môn của Ðại thừa và Thiền tông lừa đảo, đã phí hết thời gian của tuổi thanh xuân. Hơn nửa đời người đem hết sức lực tu hành theo các pháp môn Ðại thừa và Thiền tông, chúng tôi kiến giải (triệt ngộ) được tất cả các công án và đang sống trong trạng thái tĩnh lặng. Biết bao nhiêu trạng thái tĩnh lặng, biết bao nhiêu trạng thái tưởng xảy ra, như thần thông biết chuyện quá khứ, vị lai, dù biết vậy, nhưng xét kỹ thì chúng tôi cũng chưa làm chủ được sanh, già, bịnh, chết.

Chúng tôi đã trở về với pháp môn Tiểu thừa, may ra, hy vọng còn làm chủ được thân tâm. Chúng tôi sống độc cư, sống đời sống trầm lặng, sống đúng giới luật không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, với đời sống thiểu dục tri túc, chỉ xin cơm ngày một bữa mà thôi, chẳng có mong cầu gì khác.

Chúng tôi tu pháp Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và Tứ Chánh Ðịnh, kết quả chúng tôi hướng tâm đến Tam Minh, chỉ trong vòng sáu tháng với một nhiệt tâm nồng cháy, với một nghị lực dũng mãnh, với một ý chí sắt đá kiên cường, chúng tôi thành tựu làm chủ sự sống chết, tâm chẳng hề dao động trước bất cứ một đối tượng nào. Từ đó chúng tôi biết rất rõ, kinh sách Ðại thừa và thiền Ðông Ðộ là của tôn giáo khác hoặc bị thế tục hóa tôn giáo, với dụng tâm của các vị tỳ kheo giáo sĩ Bà La Môn, thâm ý sâu độc muốn diệt trừ Phật giáo, vì Phật giáo tồn tại và phát triển thì các tôn giáo khác không phát triển được. Tại sao vậy?

Tại vì Phật giáo đập phá thế giới siêu hình, hủy diệt thần quyền sáng tạo, đem lại cho loài người một nền đạo đức giải thoát, không làm khổ mình, khổ người, biến cảnh thế gian thành Thiên Ðường, Niết Bàn.

Ðạo Phật và các tôn giáo khác không thể đi chung nhau một đường, vì các tôn giáo khác có thế giới siêu hình, có Thần quyền sáng tạo, có cảnh giới mơ hồ, trừu tượng, ảo huyền, có cuộc sống sau khi chết. Ngược lại, Phật giáo thiết thực và cụ thể hơn nhiều, không có thế giới siêu hình, không có Thần quyền sáng tạo, không có thế giới mơ hồ, trừu tượng, ảo huyền và không có cuộc sống sau khi chết. Nếu chánh pháp và đạo đức nhân bản của Phật giáo được phổ biến sâu rộng, khiến mọi người am tường và thực thi sửa đổi thói hư tật xấu, thì xã hội loài người mới sống đúng đời sống công bằng, bác ái, thì các tôn giáo làm sao còn chỗ đất đứng trên hành tinh này được.

Thấy rõ điều lợi hại này, nên bằng mọi giá, các tôn giáo khác đều ước muốn biến dần Phật giáo thành một tôn giáo chấp ngã, có bản thể vạn hữu (Phật tánh, Ðại ngã), còn đạo đức của Phật giáo thì biến thành một thứ đạo đức nhân quả mê tín, để Phật giáo cũng giống như các tôn giáo khác trên hành tinh này.

Cho nên câu nói: “Bồ Tát bịnh vì chúng sanh bịnh” trong kinh Duy Ma Cật cũng là một câu nói lừa đảo, phi đạo đức, nhằm để lường gạt những người chưa hiểu đạo đức nhân quả thiện ác của Phật giáo, chứ không thể lừa đảo, lường gạt những người có giới đức và giới hạnh của Phật giáo được.

Hiện giờ, mọi người chưa ai thông suốt đạo đức nhân quả. Luật nhân quả, kinh sách nhân quả của các kinh sách phát triển thuộc về loại kinh sách mê tín, dị đoan, đó toàn là kinh tưởng.

Hiện nay, tín đồ Phật giáo Ðại thừa đặt trọn lòng tin vào những vị Bồ tát, vì những vị Bồ tát này thường ban phước lành và cứu khổ cứu nạn, cùng chia sẻ những sự đau khổ của chúng sanh. Không ngờ, sự cứu khổ, cứu nạn và chia sẻ sự đau khổ với chúng sanh là một điều không thể làm được. Không thể làm được vì luật nhân quả rất công bằng và công lý. Cho nên, hành động cứu khổ cứu nạn và chia xẻ khổ nạn là phi đạo đức, làm mất công bằng và công lý trong kiếp sống của loài người.


Page 15

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích MCĐPTPMN, TG. 2007, tr. 16-75)
link sách: MCĐPTPMN

Do các tỳ kheo tán thán, ca ngợi pháp môn Thân Hành Niệm này nên Đức Phật tùy nhân duyên và đặc tướng của mọi người mà Ngài chỉ dạy cách thức tu tập.

Trước tiên muốn tu tập Pháp môn Thân Hành Niệm là phải chọn lấy hơi thở, khi tu tập hơi thở (Thân hành niệm nội) thì phải ngồi. Do ngồi tu tập nên có tám yếu tố cần phải biết như sau:

1- Tìm nơi thanh vắng, yên tịnh như rừng, núi, đồng trống vắng vẻ hoặc ngôi nhà bỏ trống v.v…

2- Ngồi lưng thẳng trong tư thế ngồi nào cũng được, nhưng lưng phải thẳng, đầu không được cúi.

3- Phải an trú chánh niệm trước mặt.

4- Chánh niệm biết hơi thở vô, hơi thở ra.

5- Chánh niệm biết hơi thở dài vô, hơi thở dài ra.

6- Chánh niệm biết hơi thở ngắn vô, hơi thở ngắn ra.

7- Chánh niệm cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, chánh niệm cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra.

8- Chánh niệm an tịnh thân hành tôi sẽ thở vô, chánh niệm an tịnh thân hành tôi sẽ thở ra.

Trên đây là tám yếu tố hơi thở đầu tiên cần phải tu tập, nhưng phải giữ gìn tâm không phóng dật, siêng năng tu tập không bỏ phí giờ giấc nào cả, mỗi lần tu tập thì phải hết sức nhiệt tâm ghi nhận vào pháp tu tập chứ không phải tu tập lấy có mà phải tu tập rất kĩ lưỡng, nhưng không được tu quá sức, tu đúng với sức của mình, nếu sức của mình chỉ tu tập có một phút thì nên tu tập một phút, không nên tu tập nhiều hơn, vì tu tập nhiều hơn sẽ bị rối loạn hô hấp hoặc cơ thể.

Nhờ có tu tập đúng pháp, đúng sức lực của mình thì vọng niệm về thế tục tham, sân, si, mạn, nghi sẽ được đoạn trừ, khi nó được đoạn trừ thì tâm không còn khởi niệm nữa. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy nên nội tâm được An Trú, An Tọa, Chuyên Nhất, Định Tỉnh. Đó là những kết quả tu tập đúng pháp, đúng với sức lực của mình, còn nếu ngược lại tu sai thì cũng nhiều tai họa xảy ra. Cho nên khi tu tập thì nên ở gần thiện hữu tri thức. Muốn biết rõ điều này chúng ta hãy đọc kĩ lời dạy của Đức Phật thì rõ:

“Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống và ngồi kiết-già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Chánh niệm, vịấy thở vô. Chánh niệm, vịấy thở ra. Hay thở vô dài, vịấy biết: "Tôi thở vô dài.” Hay thở ra dài vị ấy biết: “Tôi thở ra dài." Hay thở vô ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở vô ngắn." Hay thở ra ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở ra ngắn." “Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. “Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra.” “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thân Hành Niệm.”

Đọc đoạn kinh này chúng ta biết ngay hơi thở là một pháp Thân Hành Niệm rất quan trọng trong sự tu tập giai đoạn thứ nhất để đạt được tâm An Trú, An Tọa, Chuyên Nhất, Định Tỉnh.

Chúng ta đừng nghĩ rằng: khi tu tập Hơi Thở là chỉ biết nương vào Hơi Thở ra và Hơi Thở vô. Không phải vậy, thưa quý vị.

Trong pháp Hơi Thở có 19 đề mục tu tập riêng về Hơi Thở, nhưng ở đây Hơi Thở được gọi là pháp môn Thân Hành Niệm là để cho những người đã tu tập xong 19 đề mục Hơi Thở, còn những người nào tu tập chưa xong 19 đề mục thì không nên tu tập Hơi Thở trong pháp môn Thân Hành Niệm.

Về Hơi Thở, một vị thầy có nhiều kinh nghiệm mới dám hướng dẫn tu tập 19 đề mục Hơi Thở. Nếu không có một vị thầy dạy chuyên về Hơi Thở thì không nên tự mình tu tập, vì tu tập sai Hơi Thở và không xác định đúng Đặc Tướng của mình thì đó là một sự nguy hại trên bước đường tu tập.

Người mới tu tập chỉ làm quen với Hơi Thở, chớ không thể tu tập pháp môn Thân Hành Niệm Hơi Thở được. Sau khi tu tập 19 đề mục Hơi Thở thuần thục nhuần nhuyễn thì mới nhận ra được trạng thái An Trú, An Tọa, Chuyên Nhất, Định Tỉnh. Bởi vì người tu tập pháp môn Thân Hành Niệm là người không còn bị rối loạn hô hấp. Nếu một người chưa bao giờ tu tập Định Niệm Hơi Thở mà tu tập pháp môn Thân Hành Niệm Hơi Thở đều bị rối loạn hô hấp.

Tuy pháp môn Thân Hành Niệm là một pháp môn nhưng gồm chung các Thân Hành. Các Thân Hành trong thân gồm có:

1.-Thân hành do tay, chân.

2.-Thân hành do miệng lưỡi.

3.-Thân hành do ý thức.

Cho nên người nào tu tập pháp môn Thân hành Niệm là tu tập tất cả hành động Thân, Miệng, Ý. Tu tập tất cả hành động Thân Hành như thế nào?

Từ lâu chúng ta không quan tâm cẩn thận mỗi hành động trong thân của mình nên muốn làm một điều gì thì cứ làm, cho nên việc làm cẩu thả không vén khéo thường thất bại, trong những hành động thất bại đó dù có thể đem đến sự đau khổ cho mình, cho người và cho tất cả chúng sinh mà cứ vẫn làm

Hôm nay thì khác vì từ khi biết Phật pháp thì sự cẩn thận trong mỗi hành là điều cần thiết đem đến sự bình an yên vui cho mình, cho người và cho tất cả chúng sinh. Cho nên vì hạnh phúc cho mình, cho người và tất cả chúng sinh nên mỗi hành động của thân phải có ý tứ cẩn thận. Ý tứ cẩn thận mỗi hành động của thân tức là Tỉnh Thức trong Thân Hành. Muốn được tỉnh thức trong Thân Hành thì nên tu tập 19 đề mục Hơi thở. Xin quý vị vui lòng nghiên cứu lại pháp môn Định Niệm Hơi Thở, vì pháp môn Định Niệm Hơi Thở đã dạy phương pháp tu tập rất rõ ràng từ sơ cơ đến đạt được tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự.

Dưới đây là bài pháp dạy về Định Niêm Hơi Thở để tu tập tỉnh thức trong Thân Hành.

*****

1.- TÌM HIỂU VỀ ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ

Trong bài pháp Định Niệm Hơi Thở Đức Phật dạy gồm có 16 đề mục tu tập, 16 đề mục này là 16 pháp môn để tu tập đối trị 16 chướng ngại pháp trong thân tâm, chứ không phải 16 đề mục này là một chuỗi pháp môn tu tập từ thấp đến cao của hơi thở.

Quan trọng hơn nữa, ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ không phải là một pháp tu tập để nhập định. Từ xưa cho đến ngày nay mọi người đều hiểu sai lầm về Định Niệm Hơi Thở, biến nó trở thành một pháp môn ức chế tâm cho tâm không vọng tưởng như Lục Diệu Pháp Môn của Tổ Thiên Thai Tông.

Kính thưa quý vị! Khi mới tu tập hơi thở tức là làm quen với tất cả đề mục hơi thở. Tu tập trong một năm thì thuần quen với mọi đề mục hơi thở thì không còn tập luyện nữa. Lúc bấy giờ người tu sĩ được chuyển qua tu tập Tứ Chánh Cần. Khi tu tập Tứ Chánh Cần thì phải tùy theo những chướng ngại trên thân, thọ, tâm và pháp mà trạch ra những câu tác ý đúng đề mục Định Niệm Hơi Thởthì những chướng ngại ác pháp ấy bị diệt trừ rất dễ dàng.

Đọc kinh sách Nguyên Thủy ai cũng biết Định Niệm Hơi Thở có 16 đề mục, nhưng khi đọc bài kinh pháp Thân Hành Niệm thì trong đó Đức Phật lại dạy thêm 2 đề mục hơi thở nữa. Và khi đọc đến bài kinh giáo giới La Hầu La về hơi thở thì Đức Phật lại dạy thêm một đề mục hơi thở nữa. Như vậy Định Niệm Hơi Thở gồm có 19 đề mục hơi thở cả thảy.

Theo kinh nghiệm tu tập của chúng tôi, để sử dụng hơi thở đi song song với câu pháp hướng tâm thường chúng tôi trạch pháp một câu tác ý cho phù hợp chính xác của cảm thọ tâm hay thân để đuổi các chướng ngại pháp thì kết quả các chướng ngại pháp không còn tác dụng vào thân tâm một cách cụ thể và rõ ràng. Vì thế, khi tu tập xả tâm li dục li ác pháp mà gặp chướng ngại trên thân, thọ, tâm thì chúng tôi liền trạch một câu pháp tác ý cho tương ưng, cho phù hợp và chính xác thì đuổi chướng ngại pháp đó đi liền. Câu tác ý do chúng tôi trạch ra xét lại ý nghĩa thì chẳng khác gì những đề mục Định Niệm Hơi Thở. Nhờ tu tập theo đề mục hơi thở như vậy, chúng tôi dẹp trừ những chướng ngại pháp không có khó khăn, không có mệt nhọc. Cho nên thân tâm của chúng tôi luôn được bất động, thanh thản, an lạc và vô sự.

Định Niệm Hơi Thở là một phương pháp tu tập có kết quả lớn và lợi ích lớn cho thân tâm không thể lường được. Nó làm cho Tứ Niệm Xứ sung mãn thể hiện được đầy đủ bảy năng lực giác chi, tức là Tứ Thần Túc. Nếu không có những đề mục Định Niệm Hơi Thở thì khó tu cho Tứ Niệm Xứ được sung mãn.

Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, trong chúng Tỳ kheo này, có những Tỳ kheo chuyên tâm, chú tâm nhập tức xuất tức niệm (tu tập Định Niệm Hơi Thở). Nhập tức xuất tức niệm, này các Tỳ kheo được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến quả lớn, công đức lớn, làm cho sung mãn khiến Bốn Niệm Xứ được viên mãn.”

Định Niệm Hơi Thở là một phương pháp đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân tâm đem lại sự bình an cho thân tâm. Nếu ai tinh cần siêng năng tu tập cho thuần thục các đề mục Định Niệm Hơi Thở, khi gặp chướng ngại, liền dùng ngay đề mục Định Niệm Hơi Thở tương ưng thiện pháp để đẩy lui chướng ngại ác pháp đó, thì đuổi nó đi tức khắc.

Đây là một phương pháp lợi ích rất lớn cho con đường tu tập của quý vị, cho đời sống của quý vị, cho nền đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai của quý vị.

Nếu quý vị tu tập Định Niệm Hơi Thở để đẩy lui các chướng ngại trong thân tâm mà còn biết sống đúng giới luật để chuyển hóa nghiệp ác thì rất là tuyệt vời. Quý vị quả là sáng suốt. Năng lực của Định Niệm Hơi Thở là năng lực nội thân cộng thêm năng lực sức chuyển hóa của giới luật khiến cho nghiệp báo muôn đời, dù cực ác đến đâu, cũng đều bứng sạch gốc.

Quý vị đừng lầm pháp môn Định Niệm Hơi Thở với các pháp môn Hơi Thở kiến giải của các nhà học giả như: Sổ Tức Quan, Lục Diệu Pháp Môn, Thiền Hơi Thở: Phong, Khí, Suyển, Minh Sát Tuệ Phồng Xẹp, Hơi Thở Yoga, v.v… Đó là những loại pháp môn hơi thởức chế tâm, nếu quý vị tu tập theo những pháp ấy sẽ dễ bị rối loạn hô hấp và thần kinh. Những pháp môn hơi thở này không giống pháp môn hơi thở của Phật chút nào, xin quý vị lưu ý đề phòng.

Pháp môn Định Niệm Hơi Thở là pháp môn tối cần thiết cho người tu tập theo đường lối Phật giáo, nó giúp cho quý vị tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần: ngăn ác, diệt trừ ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp. Nhờ có tu tập Định Niệm Hơi Thở quý vị mới thấy kết quả ngay liền làm chủ cuộc sống một cách hiệu quả vô cùng chính xác mà loài người hằng mơ ước. Biết pháp môn Định Niệm Hơi Thở lợi ích lớn như vậy nên chúng tôi ghi chép ra, xin quý vị xem đây là một báu vật vô giá mà Đức Phật đã ban cho nhân loại với những danh từ mộc mạc đơn sơ mà Đức Phật thường nhắc đi nhắc lại nhiều lần: ”Kết quả lớn, lợi ích lớn.” Mọi người không biết là kết quả lớn và lợi ích lớn mà đức Phật nói là gì.

2.- GIỚI THIỆU ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ

Định Niệm Hơi Thở là một pháp môn tuyệt vời. Trước khi muốn tu tập pháp môn này quý phật tử nên chọn một nơi thanh vắng và yên tĩnh, ít có người qua lại. Khi chọn được xong chỗ ngồi, quý vị ngồi xuống, ngồi kiết già hoặc bán già đều được cả, nhưng phải giữ gìn lưng thẳng, quay mặt vào vách, hay gốc cây, hai mắt nhìn xuống chót mũi, không nên nhắm mắt. Khi tư thế ngồi xong, thân yên ổn thì quý vị bắt đầu hít vào một hơi thở chậm chậm và dài để gom tâm, nghĩa là chú ý vào nhân trung. Khi nào hít vào hết sức hít thì quý vị lại thở ra cũng chậm chậm nhẹ và dài. Khi thở hơi thở này xong thì quý vị trở lại hơi thở bình thường, trước khi thở phải nín thở và tác ý hướng tâm: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.” Khi thở đúng 5 hơi thở xong thì quý vị lại nín thở tác ý nhắc tâm lại: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.”

Khi thấy hơi thở ra vào đều đều, tâm gom tại nhân trung thì quý vị cứ tiếp tục tu tập hít thở như vậy. Khi được 30 phút mà không có một niệm nào xen vào, thì đó là kết quả thứ nhất của sự nhiếp tâm trong hơi thở.

Khi tu tập được 30 phút không có một niệm nào xen vào trong hơi thở thì không cần phải tác ý câu: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” vô nữa, mà phải tác ý bằng những câu khác để xả tâm trong khi đang thở. Nhưng nhớ đừng để cho một niệm nào xen vào trong khi ta thở và tác ý. Tu tập Định Niệm Hơi Thở như vậy độ 30 phút thì quý vị phải xả nghỉ, dù cho quý vị có sức ngồi tu tập bền lâu thì cũng nên tu tập 30 phút thôi, không nên tăng hơn. Luôn luôn tu tập Định Niệm Hơi Thở kèm theo pháp hướng để xả tâm thì thân tâm quý vị sẽ được thanh thản và an lạc.

Pháp môn Giới Niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra là một pháp môn mang lại lợi ích rất lớn cho công cuộc chiến đấu với mặt trận sinh tử luân hồi của quý vị.

3.- ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống Giới Hạnh Niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra nghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của Hơi Thở. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của giới hành niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra là gì?

Giới đức Niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra là những lời dạy đạo đức về đời sống đạo đức của con người trong Hơi Thở tức là Chánh Kiến.

Giới hạnh Niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra là những lời dạy về Hành Động Đạo Đức thường thể hiện qua giới hành niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v... đều nương vào Hơi Thở Tỉnh Giác mà tiếp giao, nhớ đừng bao giờ quên Hơi Thở như vậy được gọi là Chánh Tư Duy.

Trước khi muốn tu tập về giới hành niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra thì các bạn hãy lắng nghe lời Đức Phật dạy La Hầu La. La Hầu La là người con trai duy nhất của Đức Phật. Đây là lời dạy La Hầu La tu tập Định Niệm Hơi Thở của Đức Phật: “Này La Hầu La, hãy tu tập sự tu tập về niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra, làm cho sung mãn, nên được quả lớn, được lợi ích lớn. Và này La Hầu La, thế nào là tu tập niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra làm cho sung mãn nên được quả lớn, được lợi ích lớn?” (Kinh Giáo Giới La Hầu La)

Ở đây lời dạy này có những danh từ khó hiểu như: làm cho sung mãn, được quả lớn, được lợi ích lớn. Vậy làm cho sung mãn như thế nào? Được quả lớn, được lợi ích lớn như thế nào?

Chữ sung nghĩa là đầy đủ, sung túc, tràn đầy, dư thừa không thiếu hụt. Tóm lại trước khi thực hiện nghĩa này thì phải tập an trú tâm trọn vẹn trong Hơi Thở. An trú tâm trọn vẹn trong Hơi Thở tức là biết Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, thoải mái, an lạc, đó là làm cho tràn đầy sung túc, dư thừa, không thiếu về niệm Hơi Thở.

Quả lớn là gì? Quả lớn có nghĩa là kết quả to lớn của sự tu tập về Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra. Quả lớn còn nghĩa là kết quả của sự tu tập đạt được sự giải thoát một cách cụ thể rõ ràng, hay nói cách khác là làm chủ được sanh, già, bệnh, chết tức là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ.

Được lợi ích lớn là gì? Lợi ích lớn có 5 nghĩa là:

1- Đời sống được an vui, hạnh phúc không có ác pháp nào làm dao động được tâm, tâm luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự, thường thản nhiên trước mọi dục lạc thế gian, mọi sự cám dỗ vật chất, mọi ác pháp, v.v...

2- Làm chủ được tuổi già có nghĩa là khỏe mạnh quắc thước như một thanh niên cường tráng.

3- Làm chủ được mọi bệnh tật không sợ ốm đau như người thường tục.

4- Làm chủ được sự sống chết, muốn sống thì sống, muốn chết thì chết.

5- Chấm dứt tái sanh luân hồi.

Trên đây là năm điều lợi ích lớn của kiếp sống làm người do tu tập Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra.

Vậy trước khi muốn tu tập giới hành Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra thì chúng ta hãy lắng nghe Đức Phật dạy La Hầu La: “Ở đây này La Hầu La, vị Tỳ kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô, biết thở vô, vị ấy thở ra, biết thở ra.”

Đọc đoạn kinh này chúng ta cần lưu ý những từ sau đây: khu rừng, gốc cây, ngôi nhà trống, ngồi kiết già, lưng thẳng, an trú chánh niệm trước mặt, tỉnh giác.

Khu rừng, gốc cây, ngôi nhà trống là địa điểm để tu tập, có nghĩa là tìm nơi chốn yên tịnh, vắng vẻ để tu tập Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra. Nếu địa điểm không tìm được như trên Đức Phật đã dạy thì sự tu tập về Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra rất khó khăn. Các phật tử lưu ý những lời dạy này vì nó rất cần thiết cho sự tu tập, xin quý vị nên nhớ kĩ. Quý vị đừng cho rằng bất cứ nơi đâu tu cũng được thì như vậy Đức Phật dạy điều này để làm gì? Có quan trọng Đức Phật mới dạy. Đừng nghe theo những nhà Đại Thừa và Thiền Tông. Họ chỉ nói suông: “Bất cứ chỗ nào tu cũng được, tu trong bốn oai nghi, tu trong công việc làm.” Lời nói này đi ngược lại lời dạy của Đức Phật.

Ngồi kiết già là gì? Ngồi kiết già là tư thế ngồi xếp bằng tréo hai chân đan vào nhau. Đó là tư thế ngồi của người tu thiền định. Tư thế ngồi này rất vững chắc để thân tâm dễ gom vào một đối tượng thân hành nội (hơi thở), chỉ trừ có Hơi Thở là thân hành nội.

An trú chánh niệm là gì? An trú chánh niệm là ở yên ổn trong niệm chân chánh. Niệm chân chánh là gì? Trong đạo Phật có bốn chỗ niệm chân chánh:

1, Niệm Thân.

2, Niệm Thọ.

3, Niệm Tâm.

4, Niệm Pháp.

Chữ chánh niệm ở đây gồm chung có 4 niệm, như vậy an trú chánh niệm tức là an trú trong bốn niệm. Vậy an trú bốn niệm một lần là tu tập Tứ Niệm Xứ. Cho nên Tứ Niệm Xứ còn gọi là Chánh Niệm. Chánh niệm tức là pháp môn thứ bảy trong Bát Chánh Đạo. Cho nên tu tập Tứ Niệm Xứ là tu tập lớp thứ bảy trong tám lớp tu học của Phật giáo. Khi một người tu tập xong Tứ Niệm Xứ thì có Định Như Ý Túc. Có Định Như Ý Túc nên mới nhập được Tứ Thánh Định, nếu không có Định Như Ý Túc thì không bao giờ nhập định của Phật giáo được. Các tà sư ngoại đạo nhập định không phải là Chánh Định của Phật giáo mà của tả đạo bàng môn.

Người tu hành theo Phật giáo phải rõ Bát Chánh Đạo. Bát Chánh Đạo chia làm tám lớp trong ba cấp tu học:

1- Cấp Giới Luật

2- Cấp Thiền Định

3- Cấp Tuệ Tam Minh.

Cấp Giới Luật gồm có năm lớp học:

1- Chánh Kiến

2- Chánh Tư Duy.

3- Chánh Ngữ

4- Chánh Nghiệp.

5- Chánh mạng

Cấp Thiền Định gồm có hai lớp:

1- Chánh Tinh Tấn (Tứ Chánh Cần).

2- Chánh Niệm (Tứ Niệm Xứ).

Cấp Tam Minh gồm có Tứ Thánh Định:

1- Sơ Thiền.

2- Nhị Thiền.

3- Tam Thiền.

4- Tứ Thiền.

Con đường tu tập của Phật giáo có ba cấp: Giới, Định, Tuệ mà ai ai cũng biết. Trong mỗi cấp đều có pháp môn tu tập rất rõ ràng. Chúng ta phải dựa vào 37 Phẩm Trợ Đạo thì chúng ta mới biết pháp nào tu tập, nếu chúng ta không dựa vào 37 phẩm trợ đạo thì chúng ta không biết pháp nào để tu tập. Người nào muốn tu tập theo Phật giáo thì phải theo 37 Phẩm Trợ Đạo mà tu tập. Chính xét 37 Phẩm Trợ Đạo mà chúng ta biết kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông không phải là kinh sách của Phật giáo, mà đó là kinh sách chịu ảnh hưởng của tư tưởng Khổng giáo và Lão giáo của nước ngoài. Vì thế người tu theo Phật giáo Đại Thừa không bao giờ làm chủ sinh, già, bệnh, chết được.

Dù Đại Thừa Bắc Tông hay Phật giáo Nguyên Thủy Nam Tông khi mới tu mà lấy pháp môn Tứ Niệm Xứ tu tập hay dạy người thì đó là những người chưa có kinh nghiệm tu hành trên pháp môn Tứ Niệm Xứ. Các sư thầy này chưa hiểu biết pháp môn Tứ Niệm Xứ là pháp môn thứ mấy trong Bát Chánh Đạo, cho nên mới dám tự mình tu và dạy cho phật tử tu như vậy. Tứ Niệm Xứ là pháp môn tu tập trong lớp thứ bảy của Bát Chánh Đạo, vậy mà đem ra dạy cho người mới tu tập, biến Tứ Niệm Xứ trở thành pháp môn ức chế ý thức cho hết vọng tưởng. Đức Phật không có dạy ức chế ý thức cho hết vọng tưởng mà dạy li dục li ác pháp để tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Như vậy rõ ràng Phật dạy tu tập khác, các thầy tổ dạy và tu tập khác. Do tu tập sai khác như vậy nên tuy cũng tu tập Tứ Niệm Xứ mà Đại Thừa và Nguyên Thủy Nam Tông không làm chủ sự sống chết.

Ngoài bốn niệm: thân, thọ, tâm, pháp còn có niệm nào khác nữa không?

Trên Thân gồm có hai niệm:

1- Thân hành niệm nội..

2- Thân hành niệm ngoại.

Trên Thọ gồm có ba niệm:

1- Niệm thọ lạc..

2- Niệm thọ khổ.

3- Niệm thọ bất lạc bất khổ.

Trên Tâm gồm có hai niệm:

1- Niệm tịnh.

2- Niệm động.

Trên pháp gồm có hai niệm:

1- Niệm thiện.

2- Niệm ác.

Ở đây, bài pháp này Đức Phật đang dạy La Hầu La về Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra, vì thế chánh niệm ở đây phải hiểu là Thân hành Niệm nội, tức là Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra. Vậy an trú chánh niệm trước mặt tức là tâm an trú hơi thở vô, hơi thở ra ở trước mặt.

Tỉnh giác nghĩa là gì? Tỉnh giác nghĩa là biết rất rõ ràng từng chi tiết nhỏ, biết rất kĩ lưỡng, biết không có mờ mịt một chút xíu nào cả. Ở đây chúng ta nên hiểu Đức Phật dạy La Hầu La phải biết rất kĩ từng Hơi Thở Vô, từng Hơi Thở Ra.

Người giữ gìn giới hành Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra có nghĩa là tu tập an trú trong Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra phải biết rất rõ ràng, không được để quên, để mất, để mờ mịt Hơi Thở vô ra. Vì tâm chúng ta hay quên (vô kí) nên phải dùng pháp tác ý dẫn tâm tỉnh giác mãi mãi làm cho tâm sáng suốt thấy biết rất rõ ràng từng Hơi Thở vô, ra. “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.” An trú được trong Hơi Thở là đạt được căn bản về phương pháp tu Định Niệm Hơi Thở.

Để thực hiện giới hành này chúng ta nên theo lời Đức Phật dạy Tôn giả La Hầu La mà tu tập như sau: Trước tiên chúng ta tìm nơi vắng vẻ, yên tịnh, rồi tập ngồi kiết già lưng thẳng, sau khi ngồi kiết già lưng thẳng được chừng nửa tiếng đồng hồcó nghĩa là ngồi tréo chân mà không thấy khó chịu, hoặc đau hoặc tê chân chừng nửa giờ. Sau đó chúng ta mới đặt niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra trước mặt và tác ý như sau: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.” Khi tác ý xong câu này ta truyền lệnh: “Hít”, truyền lệnh xong ta mới hít vô, tỉnh giác rất kĩ theo Hơi Thở Vô. Sau khi Hơi Thở Vô hết ta truyền lệnh “Thở”, khi truyền lệnh xong ta mới thở ra và phải sáng suốt tỉnh giác theo Hơi Thở Ra. Cứ như vậy mà tu tập 1 phút. Nếu tu tập 1 phút sức tỉnh giác rất tốt không quên Hơi Thở nào, mà cũng không có một niệm nào khác xen vào. Nếu một phút tu tập tốt, ta tăng lên 2 phút, rồi 3 phút, rồi 4, 5 phút. Sau khi đạt được 5 phút rất tỉnh giác Hơi Thở Ra Vô, ta tăng 6, 7, 8, 9, 10 phút. Sau khi tăng lên 10 phút ta xét xem lại toàn bộ cơ thể có xảy ra trạng thái gì không? Ví dụ: nặng đầu, nặng mặt, choáng váng chóng mặt, v.v... Khi có những trạng thái như vậy xảy ra ta nên thưa hỏi thiện hữu tri thức (là người có kinh nghiệm tu chứng).

Trong giới hành về hơi thở vô, hơi thở ra có 19 đề mục tu tập. Mười chín đề mục Định Niệm Hơi Thở được chia ra làm hai phần:

1- Bảy đề mục đầu nhiếp tâm và an trú tâm

2- Mười hai đề mục sau đẩy lùi các ác pháp.

4.- Cơ bản thực hành Định Niệm Hơi Thở

Muốn tu tập Định Niệm Hơi Thở thì phải ngồi kiết già (nếu chưa quen thì tạm thời ngồi bán già, nhưng phải tập ngồi kiết già cho được); giữ lưng ngay thẳng, không khòm, không nghiêng tới trước hay ngả sang bên phải, bên trái, cũng không rướn người quá cao, chỉ giữở mức thoải mái mà thẳng lưng. Lúc này quý vị phải kiểm soát lưng cho thẳng sau mỗi vài phút.

Đầu ngửng lên thẳng với lưng, không cúi tới trước, không nghiêng sang bên, quý vị cũng phải kiểm soát giữ đầu thẳng sau mỗi vài phút. Mắt nhìn xuống phớt thấy chóp mũi, ý tập trung ở điểm giữa nhân trung để cảm nhận hơi thở đi vào và đi ra ngang qua điểm này.

Hai tay úp trên đầu gối, hay buông thỏng trước hai ống chân, hay để ngửa chồng lên nhau đặt trên hai gót chân, tựa sát bụng, hay để tay đâu cũng được miễn sao cho thoải mái.

Sau khi ngồi đúng thế xong, không nhúc nhích động đậy nhưng không gồng cứng cơ bắp nào, giữ yên tỉnh toàn thân ít nhất vài phút, thoải mái cảm nhận toàn thân và cảm nhận hơi thở vô ra tự nhiên. Lưu ý và giữ sự tự nhiên này của hơi thở.

Tiếp theo quý phật tử tác ý nhắc tâm “Mắt nhìn chóp mũi, ý tập trung ở nhân trung”, nhắc xong thì thở một hơi rồi tác ý câu này trong khi nín thở“Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra”.

Tác ý xong đếm “Một” rồi theo dõi Hơi Thở từ lúc bắt đầu vô đến khi ngưng thở ra. Đếm “Hai” cho hơi thở kế, rồi “Ba”, “Bốn”, “Năm”. Mỗi lần đếm số xong quý vị theo dõi kĩ hơi thở vô ra. Đó là cách đếm số trước mỗi hơi thở. Quý vị có thể chọn cách đếm số sau mỗi hơi thở, nghĩa là cứ hít vô, thở ra xong mới đếm một số, tức là một hơi hít vô và một hơi thở ra xong đếm một số. Tác ý như ra lệnh và hít thở tự nhiên bình thường. Lệnh “Hít”, hít vô. Lệnh “Thở”, thở ra. Đếm “Hai” cho hơi thở kế, và cứ thế tiếp tục đếm tới hơi thở thứ năm. Quý vị hãy tập như vậy cho đến khi nhiếp phục được tâm trong hơi thở nghĩa là tâm chỉ biết hơi thở vô ra. Tâm bám thật kĩ từng hơi thở tức là nhiếp phục được tâm trong hơi thở, niệm vào trong hơi thở. Trong khi tập luyện, nhớ giữ hơi thở vô ra tự nhiên bình thường, tâm không có niệm. An trú trong hơi thở có nghĩa là không một niệm nào xen vào trong khi hít thở và tác ý. Hãy nhớ kĩ: Luôn luôn phải giữ ý thức. Đừng để mất ý thức. Phải rõ ràng tỉnh giác.

Sau khi đã hít thở đủ 5 hơi xong thì nín thở tác ý lại câu tác ý đã chọn, trước khi thở tiếp 5 hơi thở khác. Cứ như vậy mà tu tập cho hết thời gian đã chọn trong bao lâu (thí dụ tập luyện trong 15, hay 20 phút), nhưng tối đa cũng chỉ nửa giờ thôi, không lâu hơn. Trong lúc nghỉ xả giữa hai lần tập hít thở, quý vị chỉ ngồi thoải mái, không làm gì khác, nhưng vẫn giữ tâm không suy nghĩ gì.

Khi mới làm quen với hơi thở quý phật tử không nên tu tập nhiều mà chỉ nên tu tập thời gian ngắn từ 1 phút đến 5 phút rồi xả nghỉ 5 phút. Nghỉ 5 phút xong lại tiếp tục tu tập 5 phút khác. Khi tu tập thì phải có chất lượng có nghĩa là không còn có một niệm nào xen vào trong lúc hít thở, lúc đó tâm quý vị nhiếp vào hơi thở, duy nhất chỉ biết có hơi thở ra vào một cách nhẹ nhàng, thoải mái và dễ chịu. Đấy là quý vị tu tập đúng pháp, còn ngược lại có chướng ngại pháp như tức ngực, đau đầu, hơi thở khó thở,... thì đó là quý vị tu sai pháp. Cần phải dừng lại không nên tu tập nữa, phải chờ thiện hữu tri thức xem xét quý vị đã tu tập sai ở chỗ nào trong khi tu hơi thở. Chừng nào thiện hữu tri thức sửa cách tu của quý vị và quý vị tu tập hơi thở thoải mái thì mới tu qua đề mục kế. Quý vị nên biết Hơi Thở là Thân Hành Nội, khi tu tập phải có thiện hữu theo dỏi để có gì trục trặc thì sẽ giúp đỡ cho quý vị. Người có kinh nghiệm tu tập về Hơi Thở mới biết cách hướng dẫn, còn nếu không có người hướng dẫn thì quý vị đừng nên tự ý tu tập Hơi Thở, nó rất nguy hiểm xin quý vị lưu ý.

*****

NHIẾP TÂM VÀ AN TRÚ TÂM TRONG ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ

1.- ĐỀ MỤC THỨ NHẤT: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.

Với người mới tu tập, đây là đề mục để làm quen với hơi thở và cũng là tu tập để nhiếp tâm trong hơi thở. Đề mục này tập trung tâm tại nhân trung giữa hai lỗ mũi, biết hơi thở ra vô tại chỗ đó (chú ý để thấy hơi thở vô ra tại đó, chứ tâm không được chạy theo hơi thở). Nếu quý vị nhiếp tâm được 30 phút mà không quên hơi thở, không có niệm khác xen vào trong khi tác ý và trong khi hít vô thở ra thì đó là quý vị đã tu tập đạt được kết quả hay viên mãn đề mục thứ nhất.

Khi tu tập có kết quảnhư vậy nghĩa là lúc nào cũng đạt được kết quả ổn định như vậy trong bất kỳ thời tu tập nào thì nên xin thiện hữu tri thức kiểm tra hơi thở lại giúp dùm. Nếu vị thiện hữu tri thức xác nhận quý vị đã nhiếp tâm được kết quả tốt, thì xin tu tập qua đề mục thứ hai của Định Niệm Hơi Thở.

Khi tập luyện đề mục thứ nhất được thuần thục, hơi thở được thông suốt không chướng ngại thì hơi thở sẽ hiện tướng khi dài khi ngắn. Nếu là hơi thở dài thì hơi thở chầm chậm đi vô, đi ra. Một phút dưới 10 hơi thở, đó là hơi thở dài. Còn hơi thở ngắn thì nó như con thoi, hít vô thở ra nhanh. Một phút trên 10 hơi thở, đó là hơi thở ngắn. Hơi thở ngắn dùng để nhiếp tâm loạn tưởng và hôn trầm thì hay nhất.

2.- ĐỀ MỤC THỨ 2: “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài; thở ra dài tối biết tôi thở ra dài.”

Đề mục này là đề mục vận dụng điều khiển đểhơi thở dài. Nó có mục đích chú ý vào độ dài của hơi thở, di chuyển sự tập trung tâm ở nhân trung qua độ dài của hơi thở. Nhưng sự chú ý vào độ dài của hơi thở khiến cho sức tập trung rất cao nhờ vậy sự chú tâm và an trú tâm trong thời gian tu tập sẽ không bị tạp niệm xen vào. Nương vào Hơi Thở dài là để xem Tâm Hành đang nghĩ gì, làm gì, đang hoạt động như thế nào?

Đây là một phương pháp gom tâm đệ nhất và cũng là một phương pháp (ngồi tại chỗ) phá hôn trầm thùy miên vô kí một cách hiệu quả vì rất tỉnh giác trên từng Tâm Hành. Nhờ tỉnh giác biết từng Tâm Hành đang làm gì nên Tâm Hành xảy ra điều gì đều biết rất rõ. Nếu quý vị chỉ cần nỗ lực là tâm lười biếng của quý vị chạy mất, không còn nữa.

Điều mà quý vị cần biết là tu tập theo Phật giáo thì tâm không bao giờ tập trung vào một chỗ duy nhất mà luôn luôn thay đổi vị trí tập trung, vì tập trung tâm một chỗ rất nguy hiểm có thể làm rối loạn các cơ và thần kinh, dễ sinh ra tưởng, dễ bị tẩu hỏa nhập ma

Khi quý vị biết rõ hoạt động của Tâm Hành và sử dụng Tâm Hành để triển khai tri kiến thì rất có lợi, nhờ đó mà tri kiến rất bén nhạy, ác pháp đến là tri kiến biết ngay liền nên ác pháp không xâm chiếm tâm quý vị được và như vậy là quý vị đã giải thoát không còn khổ đau nữa

Khi tu tập đề mục này thì nương vào hơi thở chậm và nhẹ, vì khi tác ý như vậy thì lực tác ý làm cho hơi thở thở chậm và nhẹ một cách tự nhiên, chứ quý vị không được dùng các cơ vận dụng thở chậm và nhẹ. Nếudùng cơ vận dụng để hơi thở chậm và nhẹ là sai. Ở đây chỉ cần tác ý thì hơi thở chậm nhẹ tự động theo lực tác ý. Quý vị chỉ cần tác ý câu sau: “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài; thở ra dài tối biết tôi thở ra dài."Tác ý như vậy rồi cứ để tâm theo câu tác ý, quý vị chỉ quan sát từng Tâm Hành một cách tự nhiên thì kết quả sẽ tốt đẹp không thể nghĩ bàn.

3.- ĐỀ MỤC THỨ 3: “Hít vô ngắn tôi biết tôi hít vô ngắn; thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn.”

Khi chúng ta muốn cho hơi thở ngắn thì tác ý câu này: “Hít vô ngắn tôi biết tôi hít vô ngắn; thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn.”. Đây là cách điều khiển hơi thở ngắn bằng pháp như lí tác ý.

Xin quý vị lưu ý: Quý vị tu tập về hơi thở thì phải làm chủ được hơi thở, nghĩa là muốn hơi thở dài thì hơi thở dài, muốn hơi thở ngắn thì hơi thở ngắn. Khi nào chúng ta thở dài hay khi nào chúng ta thở ngắn mà không thấy có sự trở ngại nào, không bị rối loạn hô hấp đó là quý vị đã thành công làm chủ hơi thở.

Riêng về phần tu tập hơi thở trong các đề mục khác của Định Niệm Hơi Thở thì quý vị nên tu tập với hơi thở bình thường là tốt nhất, không nên vận dụng hơi thở để thở dài hay để thở ngắn theo các đề mục thứ hai và thứ ba này. Hơi Thở bình thường như thế nào thì cứ đểnhư vậy, nó dài hay ngắn không quan trọng.

Mục đích của đề mục 2 và 3 là để tu tập vận dụng điều khiển Hơi Thở theo ý muốn của mình và cũng là để quan sát Tâm Hành trong hơi thở dài ngắn. Ở đây, điều mà chúng ta cần tu tập là quan sát Tâm Hành để làm chủ tâm khi tâm muốn điều gì hay làm điều gì, nhờ đó mà chúng ta làm chủ nó mới được.

Đề mục 2 và đề mục 3 thì phải thực hiện như người thợ quay tơ, như người thợ gốm. Vận dụng hơi thở làm cho nó dài hay làm cho nó ngắn liên tục và đều đều như người quay tơ, như người thợ gốm. Người tu tập Hơi Thở dài hay ngắn cũng vậy phải tu tập phù hợp theo đặc tướng của mình, đó là để đạt được sự an ổn nhiếp tâm trong hơi thở dài hay ngắn này.

Đề mục số 2 hít vô dài, hay số 3 hít vô ngắn của Định Niệm Hơi Thở, là để giữ hơi thở ổn định theo đặc tướng của mình. Sau này hơi thở có thay đổi dài hay ngắn thì không cho thay đổi, vì thay đổi Hơi Thở sẽ đưa người tu tập đến những điều tai hại, nó có thể làm rối loạn hơi thở hoặc sanh tưởng tức, nghĩa là Hơi Thở Tưởng, bởi vì tưởng tức sẽ hiện ra, do quí vị tu tập sai ức chế ý thức khiến cho ý thức không còn còn khởi niệm. Tưởng tức nghĩa là Hơi Thở Tưởng do tu tập sai, ức chế ý thức làm cho ý thức không còn còn khởi niệm. Khi ý thức không khởi niệm thì tưởng uẩn hiện ra làm thay đổi hơi thở, rối loạn tâm trí. Khi tưởng tức hiện ra thì quý vị không còn tu hành được, mà chỉ còn tu tập tri kiến Nhân Quả để xả tâm mà thôi. Đó là giải pháp giúp cho quý vị tu hành kiểu như người mới vào đạo tu tập Nhân Quả.

Lưu ýKhi quý vị tu tập hơi thở dài thì nên điều khiển nó bằng câu tác ý hơi thở dài: “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài; thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài” và để ý trên độ dài của hơi thở, chỉ quan sát theo dõi độ dài của hơi thở, không còn bám chỗ tụ điểm nữa. Nhớ cứ mỗi 5 hơi tác ý một lần.

Nếu quý vị tu tập hơi thở ngắn thì nên tác ý “Hít vô ngắn, tôi biết tôi hít vô ngắn; thở ra ngắn, tôi biết tôi thở ra ngắn” và cách tập luyện cũng tương tự như hơi thở dài. Dù cho quý vị tu tập hơi thở dài hay hơi thở ngắn cũng cần phải nhiếp tâm vào hơi thở. Hơi thở dù dài hay ngắn cũng phải nhiếp tâm vào hơi thở đó. Tâm quý vị chỉ biết hơi thở dài hay hơi thở ngắn đó thôi.    

4.- ĐỀ MỤC THỨ 4: “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”.

Đây cũng là đề mục dời tụ điểm, không còn chú tâm để thấy hơi thở dài ngắn nữa. Câu tác ý là “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra.” Như vậy là tập phải cảm giác toàn thân (hay cảm giác thân hành).

Đề mục Cảm Giác Toàn Thân thì khi tập luyện lúc hít vô cảm giác thân của mình, lúc thở ra cũng cảm giác thân của mình. Đó là tập quan sát bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp khi tu tập Bốn Niệm Xứ sau này.

Đề mục thứ tư của Định Niệm Hơi Thở là để chuẩn bị cho quý vị tu tập Tứ Niệm Xứ: “Trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu” tức là quan sát bốn chỗ trên thân nhưng lại lưu ý Tâm Hành để làm chủ tâm chớ không phải ức chế tâm cho hết niệm khởi, xin quý vị lưu ý. Trong pháp Thân Hành Niệm, Phật dạy: “Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra.” Cho nên khi tu tập đề mục này phải tập cho đến khi nào từng hơi thở cảm nhận được sự rung động của toàn thân thì đó là kết quả của đề mục này.

Khi quý vị đã có hơi thở chuẩn (hơi thở bình thường tự nhiên), đã chủ động điều khiển được Hơi Thở (thay đổi độ dài ngắn của hơi thở), đã quan sát được Hơi Thở, đã không cho Hơi Thở thay đổi (giữ hơi thở ở trạng thái bình thường), lúc bấy giờ mới qua đề mục thứ tư “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra.”. Tu tập đề mục này, quý vị chỉ tác ý câu trên và khi hít vô thì cảm nhận từ trên đầu xuống tới chân; thở ra thì cảm nhận từ chân lên đầu. Nếu cảm nhận thân không được thì dùng câu tác ý của Thân Hành Niệm là “Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra.” Khi hít thở thì thân có độ rung do hơi thở vô ra, quý vị quan sát, lắng nghe độ rung đó. Đừng dùng tưởng, dùng tưởng là sai.

Tác ý câu trên rồi theo từng hơi thở để cảm nhận toàn thể thân của mình. Chủ động điều khiển thân và tâm. Quý vị nên tác ý thêm thế này “Tâm hãy theo dõi từng hơi thở khắp trong cơ thể đi!” rồi hít vô thở ra xem nó ra sao. Hít vô thở ra lần thứ nhất, lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư, lần thứ năm. Hít vô thở ra 5 hơi, rồi nhắc lại câu tác ý của đề mục “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra.” một lần nữa. Nếu không nhắc thì có niệm khác xen vô. 

“Cảm Giác Toàn Thân” là phải dùng ý thức điều khiển cả thân và hơi thở. Phải dẫn hơi thở nhiếp phục tâm để lần lần cho tâm quen, sau đó hít vô thở ra thì thấy cảm giác rõ ràng. Phải tác ý trước mỗi hơi thở “Thân và hơi thở này phải theo dõi sát nghe!” rồi ra lệnh: “Hít vô – Thở ra.” Cứ nói thầm thầm trong ý như vậy. Suốt thời gian 30 phút không niệm khởi, tức là nhiếp phục được tâm. Khi cảm nhận thân mà thấy luồng hơi thở ra, luồng hơi hít vô của từng hơi thở rõ ràng nhẹ nhàng, đó là đạt kết quả an trú.

Mục đích của đề mục này là tập cho mình quan sát ghi nhận bất kì cảm thọ gì, cảm giác gì xẩy ra tại đâu trên thân mình.

Quý vị nên biết: 7 Đề mục đầu là những đề mục tu tập để nhiếp tâm và an trú tâm vào hơi thở.

Xin nhắc lại: Tập luyện Định Niệm Hơi Thở đề mục thứ nhất là phải nhiếp phục tâm rồi an trú tâm được trong hơi thở bình thường. Khi đó quý vị thấy rõ ràng hơi thở có lúc dài, có lúc ngắn. Chừng đó mới đi qua đề mục thứ 2, thứ 3 điều khiển hơi thở dài, hơi thở ngắn theo sự an trú. Phải an trú tâm cho được, phải tìm mọi cách, bằng mọi cách phải tìm cho được, làm cho tâm an trú. An trú trong đề mục thứ 2, thứ 3 xong mới qua đề mục thứ 4 cảm giác toàn thân.

Cảm giác toàn thân có kết quả mới qua đề mục thứ 5 An tịnh toàn thân được.

Muốn an trú, quý vị ngồi xuống thu xếp tay chân thân mình cho yên ổn, không còn chướng ngại gì. Ngồi như vậy một lúc độ 3 – 5 phút, giữ thân cho an ổn, yên lặng rồi quan sát tâm, thấy tâm cũng yên ổn, không có niệm gì hết lúc đó mới tác ý để cho tâm biết thì nó sẽ an trú vô trong hơi thở dễ dàng. Khi làm đúng vậy thì quý vị sẽ an trú nghĩa là quý vị vào đó sẽ thấy an lạc thật sự, chứ không phải ngồi yên mà có sự an trú. An trú là có sự an lạc, một trạng thái an trú an lạc của hơi thở.

Vì thế quý vị tu tập Định Niệm Hơi Thở phải có chất lượng và căn bản của những đề mục đầu tiên của Định Niệm Hơi Thở. Nếu tu tập những đề mục đầu tiên của Định Niệm Hơi Thở thiếu căn bản không chất lượng sẽ phí công vô ích.

5.- ĐỀ MỤC THỨ 5: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra.”

Đây là một đề mục rất quan trọng trong sự tu tập Định Niệm Hơi Thở mà Đức Phật thường nhắc nhở: “Nhiếp tâm và an trú tâm.” Từ đề mục thứ nhất đến đề mục thứ tư Định Niệm Hơi Thở là những đề mục nhiếp tâm, còn đề mục thứ năm này là đề mục an trú tâm, chứ không còn là đề mục nhiếp tâm nữa.

Đề mục này rất quan trọng và lợi ích to lớn trong việc đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm và pháp. Đề mục này tu xong cũng giống như người lính đánh trận có chiến hào, tất cả cảm thọ không thể tấn công được. Đây là phương pháp làm chủ bệnh mà Tứ Niệm Xứ thường dạy: “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu.” “Trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu.” “Trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu.” “Trên pháp quán pháp để khắc phục tham ưu.” Quý vị nên lưu ý sự quan trọng của đề mục này trong sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết.

Tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra.” có mục đích là an trú tâm vào hơi thở để diệt trừ các bệnh khổ. Khi thân có bệnh, để chiến đấu với giặc bệnh, chỉ cần tác ý: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” rồi nhiếp tâm và an trú tâm vào hơi thở. Hơi thở thứ nhất biết thân mình đang an ổn; hơi thở thứ hai cũng biết thân mình đang an ổn; hơi thở thứ ba, thứ tư, thứ năm, cũng vậy. Sau mỗi 5 hơi thở tác ý lại một lần nữa, từng hơi thở kĩ lưỡng nhiếp tâm vào mà cảm nhận thân an ổn. Chưa an ổn thì tiếp tục tác ý và vào nương nó nữa, cảm nhận nữa, cứ 5 hơi thở tác ý cho đến khi nhiếp tâm và an trú tâm trong hơi thở. “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” là đề mục làm cho xuất hiện tướng trạng thân an tịnh để đẩy lui bệnh khổ. “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra.” Tập luyện đề mục này là chủ động trạng thái an tịnh toàn thân để làm chủ bệnh.

Tâm An tịnh thân hành là mục đích phải đạt được của đề mục thứ 5 Định Niệm Hơi Thở khi quý vị hít thở và tác ý như vậy. Lúc đầu tâm quý vị phải có thời gian để nhiếp vào được trong hơi thở, khi nhiếp vào được trong hơi thở thì tướng trạng an tịnh mới hiện ra. Sau đó tập luyện được 20 phút thì bỗng thấy tướng an tịnh hiện ra thật sự. Có khi vừa mới vào tập luyện, quý vị vừa mới nhắc “Tâm phải bám chặt vào hơi thở nghe! Thân phải an tịnh nghe, không được mất an tịnh!”, và tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, chỉ mới 5 hơi thở thôi thì đã thấy tướng trạng an tịnh hiện ra rồi. Được nhanh vậy là nhờ khi quý vị ngồi chơi mà xả tâm nên tâm quý vị đã được an tịnh rồi, vì thế vừa mới nhắc là nó hiện ra ngay, thời gian tu tập được thu ngắn lại. Quý vị cần lưu ý: tập luyện đến đề mục thứ 5 là khi ta đã nhiếp phục được tâm trong hơi thở được rồi, có nghĩa là từ các đề mục 1 đến 4 ta đã đạt được 30 phút không niệm khởi. Lúc đó tâm của mình và hơi thở sẽ nhiếp vào với nhau.

Khi hít vô thì cảm nhận thân an, không bị động đậy, không bị rung động thì đó là thân an; khi thở ra thì thấy tâm mình không niệm, không niệm là yên tịnh. Cứ hai trạng thái thân an tâm tịnh đó mà cảm nhận thôi. Trong suốt khoảng thời gian từ 5 hay 10 phút mà tâm nhiếp trong hơi thở thì hai trạng thái an ổn đó từ từ lớn dần lên theo pháp hướng tâm tác ý. Nếu nhanh thì chỉ sau 4, 5 hơi thở sẽ hiện tướng trạng thân an tịnh ra, đó là đúng rồi, được rồi. Còn khi tác ý đến 5, 10 lần nó mới hiện ra, đó là chậm, chưa được, cần tập luyện nhiều hơn nữa. Khi tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, quý vị chỉ nương vào hơi thở mà tác ý như vậy, chỉ cần ngồi rồi nhắc như vậy thôi mà tướng trạng đó hiện ra. Quý vị cảm thấy toàn thân của mình an ổn vô cùng, không có cái gì làm cho thân đau được, làm cho bất an được.

Lúc tập luyện đề mục 5 này ta sẽ có sự an ổn nhẹ nhẹ là đúng, nếu có sự an ổn nhiều là sai, phải chấm dứt bằng tác ý bảo nó dừng lại “An ổn này hãy dừng lại. Ta chưa cho an ổn.” Nếu không tác ý bảo ngưng thì sự an ổn này làm ta có một niệm khác hơn là niệm của thân hành trong hơi thở. Chỉ niệm thân hành trong hơi thở mới thật là niệm mục đích của đề mục 5.

Khi nhiếp tâm thì trong nhiếp tâm đã có sẵn cái an trú nên khi nhắc an trú thì nó từ từ hiện ra. Sau khi an trú rồi thì mình được giảm hôn trầm, tức là năng lượng đã được phục hồi. Trong một thời tập luyện được hoàn toàn an trú thì nghe trong thân sung mãn lắm, xả ra không thấy đói khát, không mệt mỏi, không buồn ngủ. Khi năng lực có rồi thì quý vị phải bắt đầu dùng để li dục li ác pháp ở những đề mục 8, 9, … của Định Niệm Hơi Thở.

Nếu trong 5 phút mà quý vị biết hơi thở vô ra nhẹ nhàng tự nhiên không thất niệm, không có tạp niệm là đủ điều kiện để thân an trú rồi. quý vị cần tập luyện nhiều đoạn 5 phút cho nó trọn vẹn; tập luyện cho đúng cách để có chất lượng. Từ trước tới nay quý vị cứ5 hơi thở tác ý một lần, bây giờ tăng lên 10 hơi thở mới tác ý và xem thử trong thời gian 10 hơi thở có niệm nào xẹt vô không; rồi lần lần tăng lên cho tới 5 phút tác ý một lần. Phải lấy tiêu chuẩn 5 phút và bắt đầu lấy thời gian 10 hơi thở tác ý, rồi 20 hơi thở tác ý,... cho đến 40, 100 hơi thở tác ý. Cứ trong khoảng thời gian số hơi thở đó không thất niệm là đạt được của thời gian đó. Đến khi quý phật tử đạt được kết quả của thời gian 5 phút không thất niệm là đã an trú được rồi, trạng thái an trú sẽ xuất hiện ngay. Rồi tăng dần tập luyện kéo dài tới 30 phút. Thế là thành công. Nhưng coi chừng tăng quá sức sẽ bị hôn trầm. Phải tập luyện ở mức độ vừa sức cho thuần thục, cho sung mãn năng lượng để khỏi bị hôn trầm vì mất sức.

Muốn được an trú lâu dài thì phải biết cách tập luyện. Quý vị phải xem trong khoảng thời gian được an trú, khi nào quý vị thấy sự an trú bắt đầu lui dần, lúc đó phải tác ý lại câu Như Lí Tác Ý nào đã được an trú khi vào để không cho nó lui. Phải nhớ kĩ pháp mới tập luyện có kết quả, không nhớ kĩ thì không biết đường vào.

Trong khi tập luyện Định Niệm Hơi Thở nếu hôn trầm tới thì quý vị đứng dậy đi nhưng vẫn tu tập hơi thở giống như khi đang ngồi. Khi tâm bị phân ra vừa biết hơi thở mà cũng vừa biết bước đi thì quý vị phải tu tập như thế nào để tâm chỉ biết hơi thở thôi. Muốn vậy thì khi đứng dậy đi, quý vị phải tác ý “Tâm phải biết hơi thở, không được biết bước đi!”, rồi hãy nhìn tới trước trên đường đi kinh hành một khoảng độ 2 thước, nhưng tâm hoàn toàn tập trung vào hơi thở. Khi tập trung, tâm chỉ biết hơi thở vô ra, và gom tâmở nhân trung mà mắt thì nhìn ra ngoài là đúng. Cứ mỗi lần thấy tâm bị phân ra vừa biết hơi thở, vừa biết bước chân đi thì nhắc lại câu tác ý để nó quay trở về với hơi thở.

Định Niệm Hơi Thở là một pháp môn mà Đức Phật trang bị cho ta để đẩy lui các chướng ngại pháp. Cho nên đề mục 5 “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” là cách đẩy lui chướng ngại của thân; đề mục 7 “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra” là cách đẩy lui chướng ngại của tâm; còn đề mục 18 “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra” là cách đẩy lui tâm si, đẩy lui sự buồn ngủ, đẩy lui trạng thái lười biếng. Do đó phải tập chuyên cần cho đến khi có kết quả thực sự của những đề mục này thì có lợi ích rất lớn cho con đường tập luyện.

Khi thân có cảm thọ khổ gì thì dùng đề mục thứ 5 đã kết quả tu tập thuần thục để đẩy lui. Thí dụ sắp có cái nhọt ở đây thì nó có những cảm giác báo động trước. Người tập luyện biết từ khi nó chỉ mới báo động. Ở giai đoạn báo động này đẩy lui bệnh tật dễ lắm, chứ khi nó đã tập trung nặng nề thì khó khăn nhiều, có khi không đẩy lui được. Người tập luyện có cảm giác rất vi tế, nên trong thân sắp sửa có bệnh gì đó đang ủ, đang hình thành, 3, 4 ngày nữa mới phát ra, thì ngay bây giờ đã nhận ra được. Khi nhận ra được như vậy thì quý vị dùng đề mục thứ 5 tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” và nhiếp tâm vào hơi thở, thì sau đó có lực tác ý đẩy chướng ngại pháp đó đi. Khi đó chưa phải là bệnh, chỉ mới mầm bệnh nên sử dụng pháp tác ý đẩy lui được khỏi bệnh dễ dàng, do quý vị đã biết ngừa trước rồi, cho nên sự đuổi bệnh nhẹ nhàng hơn, dễ hơn.

6.- ĐỀ MỤC THỨ 6: “Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra.”

Đề mục này là để hướng dẫn chúng ta ý thức nhận xét sự hoạt động của tâm theo từng hơi thở ra vô, chứ không phải biết hơi thở ra vô bình thường. Do đó mỗi lần hít vô hay thở ra chúng ta đều lắng nghe tâm đang có niệm hay không niệm và niệm ấy là niệm mang ý nghĩa gì. Khi tâm có niệm là biết ngay niệm tâm đó muốn gì. Trong khi tu tập lắng nghe tâm nói gì theo từng hơi thở. Nếu thấy tâm lặng lẽ, bất động, không một niệm gì xen vào trong suốt 30 phút hay 01 giờ là chúng ta đã đạt được kết quả tu tập tâm lặng lẽ về đề mục này.

Nhưng đề mục 6 này mục đích không phải cảm nhận sự lặng lẽ của tâm mà cảm nhận sự hoạt động của Tâm Hành. Tâm hành tức là sự tư duy của tâm. Vì tâm hay nghĩ ngợi điều này việc kia nên gọi là Tâm Hành. “Cảm Giác Tâm Hành” là cảm nhận từng sự tư duy của tâm chớ không phải cảm nhận sự lặng lẽ của tâm, trong đó biết rõ có lúc tâm không có niệm, lặng lẽ nhưng có lúc tâm không lặng lẽ. Như vậy đề mục 6 này dạy rất rõ là nương theo hơi thở vô ra mà thấy tất cả sự hoạt động của tâm, tâm muốn gì hay tâm làm gì đều biết rất rõ, không bỏ sót một hành động nào của tâm.

Chỗ này mọi người đã hiểu sai là dùng ý thức tập trung tâm vào hơi thở vô ra đểức chế ý thức khiến cho ý thức không khởi niệm. Khi ý thức không khởi niệm, họ cho mình tu tập thành công. Đấy là sự hiểu biết về pháp môn tu tập hơi thở hết sức sai lạc. Mong rằng quý vị hãy cố gắng đừng hiểu sai cho rằng tất cả các đề mục về Hơi Thở là nhiếp tâm trong Hơi Thở để không niệm. Chính không niệm là một tai hại rất lớn trong sự tu tập giải thoát theo Phật giáo.

Cảm nhận Tâm Hành tức là làm chủ tâm, điều khiển tâm làm cho tâm luôn luôn sống trong thiện pháp và không bao giờ để tâm tư duy suy nghĩ những điều ác được. Khi hiểu biết lời dạy này áp dụng vào sự tu tập thì chỉ có ý thức xả tâm. Ý thức xả tâm tức là Cảm Nhận Tâm Hành. Cảm Nhận Tâm Hành Từng Hơi Thở Vô Ra thì còn ác pháp nào xen vào được và tu tập như vậy thì giải thoát ngay liền. Có phải không quý vị? Tập luyện đề mục 6 này để thấy tâm hành hay tâm không hành.

“Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra.” Tu tập “Cảm giác tâm hành” là xem tâm có hành động gì không. Tâm hành là tâm khởi ra niệm này niệm kia, đó là tâm ở trong sự hoạt động. Tâm ở trong sự hoạt động là tâm nương hơi thở để cảm nhận sự hoạt động đó. Còn tâm không hành là tâm không khởi niệm; là tâm tịnh, tâm im lặng. Cho nên tu theo Phật thường Phật dạy: “Ngăn Ác Diệt Ác Pháp, Sinh Thiện Tăng Trưởng Thiện Pháp.” thì tu tập Định Niệm Hơi Thở cũng vậy, phải ngăn ác diệt ác pháp và sinh thiện tăng trưởng thiện pháp.

Khi quý vị tác ý câu 5 này: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” một hay hai lần thôi mà đã có trạng thái an tịnh của thân liền thì đó là đạt kết quả an tịnh thân hành. Thân an tịnh có trạng thái an lạc, hoan hỉ. Lúc bấy giờ nhận ra tâm là nhận ra sự hoan hỉ đó. Nhưng khi tác ý đề mục thứ 6 “Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra” thì mới thấy rõ sự an lạc, sự hoan hỉ của tâm. Khi quý vị tác ý và nhận ra niềm hoan hỉ này rõ ràng là đạt kết quả của đề mục 6. Muốn đạt được kết quả của đề mục 6 này thì phải siêng năng tu tập. Có siêng năng tu tập mới có đủ cảm nhận tâm mình. Cảm nhận được tâm hành không phải dễ. Vì thế phải tu tập cho thật kĩ, cảm nhận cho được sự động và sự tịnh của tâm. Nói thì dễ, nhưng làm không phải dễ, quý vị phải cố gắng lên. Quý vị đừng nản lòng mà hãy bền chí. Đường đi phía trước rực ánh hào quang đang chờ đón quý vị, nhất là quý vị có một vị thiện hữu tri thức hướng dẫn thì còn gì sợ tu sai pháp.

Khi thở ra thở vô mà cảm nhận được sự an ổn và niềm vui hoan hỉ thì con đường tu tập không còn khó khăn và mệt nhọc nữa, vì đã thấy ánh sáng dẫn đường phía trước. Mỗi sự tu tập làm ánh sáng lại tràn trề chói lọi. Đó là báo cho quý vị tu tập sắp đến đích, nhưng quý vị lưu ý, khi có sự mong cầu và mơ ước thì quý vị sẽ rơi lạc vào đường Ma. Nếu quý vị cứ siêng năng tu tập mà không mong cầu một điều gì cả thì sự an lạc và niềm hoan hỉ đó mới chính từ pháp sinh, chính đó mới là chính pháp của Phật. Nếu quý vị tu hành chưa đến đâu mà cứ mong cầu thì chúng tôi e rằng quý vị sẽ gặp Ma. Và vì vậy con đường tu của quý vị bế tắc. Quý vị nhớ chưa?

7.- ĐỀ MỤC THỨ 7: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra.”

Khi tâm chúng ta đang bị động mà không có cách nào làm cho nó an được thì chúng ta sử dụng ngay đề mục này bằng phương pháp như lí tác ý: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra.” Cứ mỗi lần tác ý như vậy là chúng ta cảm nhận như tâm chúng ta có một sự an ổn trong im lặng và mỗi lần hơi thở ra, vô là tràn ngập sự an ổn của thân và tâm. Nếu kết quả này kéo dài từ một giờ đến 2 giờ là chúng ta đã hoàn thành đề mục này.

Khi thực hành đề mục “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra” là mục đích làm cho tâm thanh tịnh an ổn không còn vọng niệm tuôn trào lọan tưởng. Khi tác ý một hay hai lần là đã có trạng thái an tịnh của tâm liền đó là đạt kết quả an tịnh tâm hành. Tâm an tịnh có trạng thái an lạc, hoan hỉ. Lúc bấy giờ nhận ra cái tâm là nhận ra sự hoan hỉ đó.

Khi tác ý đề mục 6 “Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra” thì thấy rõ cái an lạc, cái hoan hỉ của tâm.

Khi quý phật tử tác ý và nhận ra niềm hoan hỉ này rõ ràng là đạt kết quả đề mục thứ 7 “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra.” Cảm nhận tâm an tịnh và hoan hỉ này sẽ đẩy lùi các cảm thọ chướng ngại trên tâm, vì vậy trên thân tâm chỉ còn lại một trạng thái thoải mái an ổn và dễ chịu.

Khi đã có trạng thái thoải mái, an ổn và dễ chịu trên thân tâm rõ ràng thì quý phật tử tác ý nhắc đề mục 7 "An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra” thì tâm im phăng phắc ở trong một trạng thái đặc biệt. Cứ mỗi lần tác ý quý phật tử cảm nhận như tâm có một sự an ổn trong im lặng và mỗi hơi thở ra vô tràn ngập sự an ổn thân và tâm. Chính trạng thái tâm an tịnh này tạo nên năng lực đẩy lui các cảm thọ dù là cảm thọ thân đau nhức tận cùng như thế nào cũng bị đẩy lui ra khỏi thân tâm rất dễ dàng. Nhưng ở đây quý vị lưu ý: Việc tu tập này chỉ có những người có ý chí và gan dạ, còn kẻ phàm phu tầm thường thì không thể ôm pháp này vượt qua được. Khi tâm được An Tịnh thì không còn tạp tưởng, dù có những tư tưởng mạnh như thế nào đi nữa cũng đẩy lui được hết.

*****

MƯỜI HAI ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP TRONG ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ

Mười hai đề mục Định Niệm Hơi Thở về sau là phần quán li tham, li sân, li si, li mạn, li nghi. Phần này rất quan trọng, nếu một người tu theo Phật giáo mà không li tham, sân, si, mạn, nghi thì không bao giờ có giải thoát.

Muốn li tham, sân, si, mạn, nghi thì quý vị phải tu tập đạt cho được trạng thái An Trú, An Tịnh của Định Niệm Hơi Thở. Khi tâm đạt được như vậy thì tất cả chướng ngại pháp đều bị diệt trừ, không những tâm tham, sân, si, mạn, nghi mà tất cả các kiết sử. Cho nên khi tâm ở trong trạng thái An Trú, An Tịnh thì mới phá năm triền cái, thất kiết sử và tất cả ác pháp một cách rất dễ dàng, không còn khó khăn, mệt nhọc. Nếu không ở trong trạng thái An Trú, An Tịnh thì khó mà li dục, li ác pháp.

Cho nên chúng ta phải tu tập bảy đề mục đầu tiên của hơi thở để đạt được tâm An Trú, An Tịnh trong hơi thở. Khi nào tâm An Trú, An Tịnh trong từng Hơi Thở và thời gian tâm An Trú, An Tịnh phải từ một giờ cho đến sáu giờ thì mới tu tập 12 đề mục li tham diệt ác pháp. Mười hai đề mục Định Niệm Hơi Thở sau này dùng để tu tập li tham và diệt các ác pháp.

Từ đề mục thứ nhất cho đến đề mục thứ bảy là những đề mục đầu tiên của Hơi Thở, tu tập giúp cho thân tâm An Trú và An Tịnh. Còn 12 đề mục sau dùng để tu tập li tham và diệt các ác pháp.

Kết quả của những pháp Hơi Thở tu tập đầu tiên là cơ bản cho những pháp môn Hơi Thở tu tập sau này, nếu tu tập tâm chưa có kết quả An Trú và An Tịnh mà vội tu tập 12 đề mục sau thì chúng tôi e rằng quý vị chỉ là những người tu thử, tu chơi chớ chưa phải là những người có quyết tâm tu tập làm chủ sự sống chết và luân hồi.

Tu tập như vậy chỉ phí công sức quá uổng. Theo chúng tôi nghĩ và có lời khuyên quý vị đừng nên tu tập như vậy thì tối hơn hay sống như người bình thường, trông nom nhà cửa gia đình cho con cái còn có lợi ích hơn, chớ tu theo Phật giáo như vậy là phỉ báng Phật giáo quý vị có biết không?

Tội vô tình phỉ báng Phật pháp cũng phải trả quả như sau: Kiếp sau sinh lên làm người không bao giờ gặp Chánh pháp, không bao giờ gặp thiện hữu tri thức và nhất là khi sinh ra làm người chịu biết bao sự đau khổ. Nhất là không trí nhớ, để đâu quên đó, học hành không thuộc bài vở, vì thế cuộc đời trở thành người dốt nát.

8.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ NHẤT: “Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra.”

Khi thân tâm được An Trú, An Tịnh trong hơi thở vô, hơi thở ra thì quý vị tu tập qua đề mục thứ tám này bằng cách tác ý và quan sát Tâm Hành của mình xem nó nhận xét Thân Vô Thường có đúng nghĩa Vô Thường hay không?

Khi nó đã hiểu một nghĩa Thân Vô Thường thì chúng ta lại tác ý câu hai rồi quan sát nghĩa Vô Thường của câu hai xem nó có truy tìm Thân Vô Thường ở góc độ khác. Cứ theo đề mục Quán Thân Vô Thường này mà tác ý và quan sát thấy từng sát na Thân Vô Thường. Trong khi tu tập thỉnh thoảng chúng ta thường tác ý câu này: “Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra.” Nương vào hơi thở vô, ra và tác ý như vậy thì nó giúp cho quý vị có một nội lực mạnh mẽ, cảm thấy Thân Vô Thường thật sự. Từ đó thân kiến kiết sử bị đoạn dứt. Đây là tu tập đề mục Định Niệm Hơi Thở câu hữu với pháp tác ý Thân Vô Thường để diệt ngã xả tâm li dục li ác pháp.

Quán Thân Vô Thường có nghĩa là thấy thân thay đổi từng phút, từng giây là như thật, thân không còn chỗ nào là thường còn, bất di bất dịch. Cho nên biết thân vô thường là biết thân này không phải là Ta, không phải của Ta, không phải bản ngã của Ta. Do biết rõ như vậy nên Thân Kiết Sử bị đoạn dứt. Đề mục thứ tám này rất lợi ích phá vỡ Thân Kiết Sử tan tành. Cho nên hằng ngày theo đề mục Định Niệm Hơi Thở này tác ý: “Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra.” Nhờ tác ý nhắc nhở tâm thành một ý thức lực “Quán thân vô thường”thấm nhuần theo từng hơi thở vô hơi thở ra.

Muốn thấm nhuần được như vậy thì đề mục này phải siêng tu tập hằng ngày chia làm nhiều thời tu tập, mỗi thời tu tập 30 phút; mỗi 5 hoặc 10 hơi thở tác ý câu này một lần.

Câu này muốn tu tập có kết quả thì phải đạt được thân an tịnh của đề mục 5 và tâm an tịnh của đề mục 7.

Thân tâm đã an trú trong hơi thở thì nên tác ý câu: “Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra.” Tác ý câu này thường xuyên thì thân kiến kiết sử sẽ bị diệt trừ. Đó là một kết quả không thể ngờ được, vì câu tác ý có một sức lực mạnh mẽ vô cùng khi tâm an trú được trên hơi thở. Còn nếu tâm chưa an trú, chưa an tịnh được trên hơi thở thì tác ý không hiệu quả. Đây là pháp môn tu tập Định Niệm Hơi Thở kết hợp với pháp quán Thân Vô Thường để phá vỡ Thân Kiến Kiết Sử. Khi phá vỡ thân kiến kiết sử thì thân tâm rất an lạc không còn chấp ngã.

9.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 2: “Quán thọ vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thọ vô thường tôi biết tôi thở ra.”

Thọ là cảm nhận đau nhức trong thân mà người ta gọi là Thân Bệnh. Thân bệnh là thân đau khổ, cho nên nói đến Thọ là nói đến bệnh khổ.

Đề mục thứ chín này tu tập quán Thọ Vô Thường với mục đích làm cho chúng ta không còn sợ hãi các Cảm Thọ. Nhờ có quán thọ vô thường hằng ngày nên tâm thấm nhuần Thọ Vô Thường thật sự. Nhờ thấm nhuần Thọ Vô Thường thật sự nên khi thân có bệnh thì tâm không dao động, không lo lắng, buồn phiền, sợ hãi, xem các Cảm Thọ như không có, thọ như một niệm vọng tưởng khởi lên rồi tự lặng mất. Mục đích của đề mục này giúp cho những ai tu tập Quán Thọ Vô Thường để tâm họ luôn luôn bất động trước các Cảm Thọ. Muốn đạt được kết quả đó thì đề mục này cần phải siêng năng tu tập hằng giây, hằng phút, hằng giờ, hằng ngày, hằng tháng, hằng năm không được biếng trễ và cũng không được bỏ qua một giây phút nào cả. Vì pháp môn tu tập này quá lợi ích cho kiếp sống của con người khiến họ làm chủ được các Cảm Thọ.

Đây là pháp môn tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với pháp môn tác ý “Quán thọ Vô Thường.” Quý vị biết rõ các Cảm Thọ thật sự Vô Thường thì quý vị không còn lo sợ khi thân có bệnh. Khi thân có bệnh mà không sợ thân có bệnh thì thân quý vị không bao giờ bệnh. Có thân mà không bệnh hay nói cách khác là làm chủ bệnh thì cuộc đời này là Thiên Đàng, Cực Lạc. Thường các tôn giáo xây dựng cảnh giới thiên đàng, cực lạc, đó là những thế giới ảo tưởng để dụ dỗ tín đồ chớ sự thật không bao giờ có cảnh giới thiên đàng cực lạc ngoài tâm con người.

Khi thân có bệnh, muốn bệnh chấm dứt thì thường tác ý câu này: “Quán thọ vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thọ vô thường tôi biết tôi thở ra.” Khi tác ý như vậy thì tâm phải An Trú, An Tịnh trong hơi thở ra, vô thì bệnh tật tức khắc biến mất mà không cần uống một viên thuốc nào cả. Vì trạng thái An Trú, An Tịnh thì không bệnh tật nào xen vào được trong thân tâm, chỉ có người chưa An Trú, An Tịnh thì bệnh tật sẽ xâm chiếm thân tâm.

Ở đây, phương pháp Quán Thọ Vô Thường có ba đề mục trong Định Niệm Hơi Thở. Định Niệm Hơi Thở có một nội lực rất mạnh. Nhưng phải siêng năng tu tập hằng ngày ba đề mục này thì mới mong làm chủ được Sinh, Già, Bệnh, Chết.

10.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 3: “Quán tâm vô thường tôi biết tôi hít vô; quán tâm vô thường tôi biết tôi thở ra.”

Tâm của con người thật sự là Vô Thường, nếu chúng ta chịu khó quan sát thì sẽ thấy rất rõ. Tâm không bao giờ chịu đứng yên một chỗ mà hay lăng xăng khởi niệm, niệm này chưa xong liền khởi niệm khác. Do quan sát kĩ như vậy chúng ta mới thấy tâm là Vô Thường thật. Do tính Vô Thường của nó như vậy nên khi chưa làm chủ được tâm thì chúng ta chịu khổ đau với nó không phải là ít. Do vậy hằng ngày chúng ta tác ý câu này: “Quán tâm vô thường tôi biết tôi hít vô; quán tâm vô thường tôi biết tôi thở ra.” Khi tác ý xong thì chúng ta chịu khó quán xét Tâm Vô Thường ở nhiều góc cạnh khác nhau thì chúng ta càng thấy rõ tính Vô Thường của tâm. Do quán xét như vậy chúng ta sẽ không bị tâm mình lừa gạt mình và không bị tâm mình làm cho mình khổ đau nữa.

Người ở ngoài đời cũng như ở các tôn giáo khác trong đó có các hệ phái Phật giáo nước ngoài như Đại Thừa, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Pháp Hoa Tông, Mật Tông, v.v... đều cho tâm này là linh hồn, tâm này là Phật tánh, là Tánh Không, là Chơn Như, là trí tuệ Bát Nhã, là bản thể của vạn hữu, v.v... Đó là sự hiểu biết lầm lạc bằng ảo tưởng, tâm chỉ là một xứ trong pháp môn Tứ Niệm Xứ: Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

Nếu quán thấy Tâm Vô Thường thì cũng thấy Thọ Vô Thường, thì cũng thấy Thân Vô Thường, thì cũng thấy các Pháp Vô Thường. Như vậy toàn bộ Tâm, Thọ, Thân, Pháp đều Vô Thường, mà đã vô thường thì đó là pháp khổ đau. Như vậy toàn bộ Thân Tâm của chúng ta là pháp khổ đau. Khi xét thấu như vậy thì lời dạy của Đức Phật Thân Ngũ Uẩn của con người là một khối Vô Thường, Khổ Đau. Trong thân người không có vật gì là thường còn bất biến. Thế mà kinh sách phát triển và Thiền Tông cho rằng trong thân con người còn có một vật Bất Sinh, Bất Diệt, ý này thật là sai và đi ngược lại với lời Phật.

Cho nên hằng ngày quán Tâm Vô Thường là để chúng ta không bị kiến chấp Linh Hồn, Phật Tánh lừa đảo mình. Từ những truyền thống Linh Hồn lâu đời của ông bà và ngoại đạo tà giáo đã ra công xây dựng để lại, tạo nên một cuộc sống mê tín cầu cúng.

Nhờ luôn luôn quán tâm vô thường nên từng tâm niệm sanh khởi không làm chúng ta bị dính mắc và đắm chìm trong dục lạc thế gian. Đây là pháp môn tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

Có một số người giàu tưởng giải, chia tâm này ra làm nhiều phần gọi là duy thức học. Duy thức học để phân chia tâm mà lí luận chơi chứ chẳng mang đến sự lợi ích thiết thực nào cho cuộc sống của loài người. Cho nên Duy Thức Học chỉ là những học giả biên soạn để tranh luận, chớ sách Duy Thức Học chẳng có ích lợi gì cho sự tu tập giải thoát.

Nhưng ngược lại Định Niệm Hơi Thở sẽ giúp quý vị giải trừ các ác pháp và các chướng ngại nơi thân tâm của quý vị, khiến cho thân tâm quý vị sống được An Trú, An Tịnh, nhờ đó mà khổ đau không còn nữa. Chính tâm An Trú, An Tịnh nên thân tâm lúc nào cũng Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự. Đây là pháp môn tu tập Định Niệm Hơi Thở kết hợp với Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

11.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 4: “Quán các pháp vô thường tôi biết tôi hít vô; quán các pháp vô thường tôi biêt tôi thở ra.”

Danh từ Pháp ở đây có nghĩa rất rộng: mọi vật xung quanh chúng ta đều là Pháp. Lời nói, suy nghĩ hay làm một việc gì đều là pháp cả, kinh sách Phật dạy cũng là pháp. Kinh sách ngoại đạo cầu siêu, cầu an, niệm bùa, niệm chú cũng đều là pháp. Chính những điều mà chúng ta đang học tập và tu luyện cũng đều là pháp. Đất đai ruộng vườn sông núi ao hồ biển cả đều là pháp. Trời đất trăng sao, không gian vũ trụ đều là pháp, ngoài hành tinh này không có vật gì là không phải pháp. Cho nên nói các pháp Vô Thường là nói chung tất cả vạn vật đều là vô thường. Trong vũ trụ này không có vật gì là thường còn. Người nào khéo sống trong tưởng mới nghĩ có vật thường còn như Thiền Tông và kinh sách phát triển.

Chính vì quán các pháp Vô Thường khiến cho chúng ta không bị dính mắc một pháp nào cả. Cho nên đứng trước các ác pháp dù trước cái chết hay bệnh tật khổ đau tận cùng chúng ta cũng thản nhiên mà không hề có chút sợ hãi nào. Bởi vậy quán sát xem xét các pháp Vô Thường có lợi ích rất lớn cho người tu tập theo Phật giáo, vì các pháp Vô Thường là một sự thật không ai dám bảo rằng chúng ta nói sai.

Có người bảo rằng trăng sao không Vô Thường vì khi chúng ta mới sinh cho đến bây giờ chúng ta là ông lão 100 tuổi mà trăng sao cũng vậy thì bảo nó Vô Thường sợ e không đúng. Chúng ta có cảm nhận thời tiết vũ trụ có khi lạnh có khi nóng, có khi mưa gió trái mùa; có khi mưa gió thuận mùa, đó là sự Vô Thường của vũ trụ, còn trăng sao là những vật quá lớn nên sự Vô Thường của chúng khiến chúng ta khó nhận ra, như các nhà khoa học dùng máy móc đo đạc đã xác định sự Vô Thường của trăng sao, chớ không phải chúng không Vô Thường.

Quán các pháp Vô Thường là quán một sự thật, chớ không phải dùng nó tu tập để xả tâm dính mắc của chúng ta. Chỉ vì chúng ta thấy các pháp Vô Thường là sự thật nên chúng ta xả tâm không dính mắc là một sự thật, chớ không phải ngụy tạo để xả tâm.

Đạo Phật tôn trọng sự thật nên những điều Phật giáo dạy người tu tập làm chủ Sinh, Già, Bệnh, Chết là sự thật. Nói Thân, Thọ, Tâm, Pháp là Vô Thường đó là nói sự thật không dối gạt người. Nói các Pháp Vô Thường đó cũng là nói sự thật. Cho nên đạo Phật không bao giờ lừa gạt người, xin quý vị cứ nghiệm xem có đúng như vậy không?

Với đề mục Hơi Thở: “Quán các pháp vô thường tôi biết tôi hít vô; quán các pháp vô thường tôi biết tôi thở ra.”

Nếu ai siêng năng tu tập vừa tác ý lại vừa quan sát các pháp Vô Thường khi nó đã thấm nhuần thì cuộc sống chúng ta chỉ còn ba y một bát như Đức Phật ngày xưa.

Đây là một đề mục tu tập hơi thở quán Thân, Thọ, Tâm, Pháp Vô Thường. Một khi đã thấm nhuần các pháp đều Vô Thường thì chúng ta đều buông xả sạch. Chính vì chúng ta hiểu rõ các pháp Vô Thường nên không có pháp nào là Ta, là của Ta, là bản ngã của Ta. Khi chúng ta chưa hiểu các pháp Vô Thường nên cố gắng giữ gìn bảo vệ thân tâm và mọi vật, nhưng cuối cùng chúng vẫn là Vô Thường, cố giữ gìn nhưng chúng ta có giữ được vật gì?:

“Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
Chớ giữ làm chi có ích gì?
Thở ra chẳng lại còn chi nữa,
Các pháp vô thường buông xuống đi!”

Với đề mục quán các pháp Vô Thường này, siêng năng tu tập, khi đã thấm nhuần rồi thì có ích lợi rất lớn cho cuộc sống chung đụng hằng ngày với mọi người. Chính thấy các pháp Vô Thường nên luôn luôn không bao giờ làm mình khổ, người khổ và cũng không làm khổ tất cả chúng sinh.

Trong cuộc sống hằng ngày tâm luôn luôn nhìn thấy các pháp Vô Thường nên không dính mắc, chắp trước một pháp nào cả, vì vậy mà không còn đau khổ. Thấy các pháp Vô Thường thì cuộc sống thay đổi rất lớn, không còn phiền não hay lo lắng sợ hãi hoặc giận dữ, v.v… Do hiểu biết các pháp Vô Thường nên thường nhìn và quan sát các pháp để tìm lỗi mình để sửa sai, do vậy nên không bao giờ tìm lỗi người. Nhờ tìm lỗi mình để biết sửa mình nên tâm không còn phiền não, khổ đau nữa. Chính vì tìm lỗi mình mới thấy đời là biển khổ đau, nhờ thấy biết như vậy nên Lòng Yêu Thương đối với mọi người càng lớn mạnh.

Trong đạo Phật dạy: “Thấy lỗi mình đừng thấy lỗi người”, đó là một tri kiến giải thoát của Phật giáo, nếu ai chịu khó áp dụng vào đời sống hằng ngày thì đời sống này là Thiên Đàng. Biết rõ điều giải thoát này thật sự nên chúng tôi xin quý vị hãy lo tu tập như vậy thì quý vị sẽ thấy sự An Trú, An Tịnh ngay liền. Khi một người biết tìm lỗi mình thì người ấy trở nên người thiện, người hiền, người tốt, người làm chủ được tâm mình. Cho nên quán các pháp Vô Thường là một điều lợi ích rất lớn. Vậy chúng ta hãy theo câu kinh trong sách này mà tu tập tác ý: “Quán các pháp vô thường tôi biết tôi hít vô; quán các pháp vô thường tôi biết tôi thở ra.”

Đó là một phương pháp giúp quý vị thấm nhuần lí giải thoát chân thật của Phật giáo.

Khi biết rõ các pháp trên thế gian là Vô Thường thì quý vị phải siêng năng tu tập, nếu không siêng năng tu tập pháp môn này thì các pháp Vô Thường chỉ là lời nói suông, chứ tâm quý vị còn dính mắc đầy đủ, còn thấy các pháp là của ta, là ta. Và như vậy muôn đời ngàn kiếp sẽ trôi lăn trong sáu nẽo khổ đau. Và quý vị không bao giờ buông xả được, luôn luôn dính mắc, chấp đắm các pháp.

Đây là pháp môn tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

12.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 5: "Quán li tham tôi biết tôi hít vô; quán li tham tôi biết tôi thở ra.”

Tiếp tục trên đường tu tập trong tay có 37 pháp môn, nếu ai có duyên với pháp môn nào thì tu ngay pháp đó thì cũng tìm thấy sự giải thoát hoàn toàn. Khi quán các pháp Vô Thường xong, thấy thân tâm mình An Trú, An Tịnh hiện tiền thì đó là chúng ta đã chứng đạo. Đến đây không còn tu tập nữa.

Như chúng tôi đã nói tu tập phải chọn pháp cho hợp với đặc tướng của mình, nếu mình không phù hợp với pháp môn quán các pháp Vô Thường thì chúng ta nên chọn pháp môn trực tiếp vào tâm tham, sân, si, mạn, nghi mà tu tập như lời Phật dạy: “Quán li tham tôi biết tôi hít vô; quán li tham tôi biết tôi thở ra.” Theo lời Đức Phật dạy chỉ cần từ bỏ được tâm tham lam là nhập vào Niết Bàn, chấm dứt tái sanh luân hồi. Như vậy hằng ngày quý vị thường tác ý câu: “Quán li tham tôi biết tôi hít vô; quán li tham tôi biết tôi thở ra” rồi nương vào hơi thở nhiếp tâm An Trú, An Tịnh và quan sát xem tâm mình còn ham muốn một điều gì khác nữa không, nếu tâm ham muốn tu chứng đạo, đó là tâm còn ham muốn thì phải Quán Li Tham … như các đề mục trên đã dạy. Khi siêng năng tu tập thì ngũ triền cái: tham, sân, si, mạn, nghi sẽ bị diệt trừ một cách dễ dàng. Khi tâm tham đã được li ra thì tâm chúng ta luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm thanh thản, an lạc và vô sự là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.

Với đề mục “Quán li tham tôi biết tôi hít vô; quán li tham tôi biết tôi thở ra.” có lợi ích rất lớn cho sự tu tập diệt trừ năm triền cái. Nếu tu tập đề mục này thuần thục, chỉ mỗi lần tu tập trong 30 phút nhiếp tâm an trú trong hơi thở rõ ràng cụ thể không mờ mịt, thỉnh thoảng thường tác ý: “Quán li tham tôi biết tôi hít vô; quán li tham tôi biết tôi thở ra.” thì kết quả li tham sẽ thấy rõ ràng. Từ đó về sau chúng ta cảm nhận mình rất rõ tâm ít tham ăn, tham uống, tham ngủ nghỉ, tham vui, tham nói chuyện, tham danh, tham lợi, tham tiền bạc cho nhiều, nên việc bài bạc mua vé số đều chấm dứt.

Nhờ tu tập đề mục này mà sống độc cư trọn vẹn, phòng hộ sáu căn nghiêm chỉnh trong những ngày Thọ Bát Quan Trai.

Đề mục này tu tập có lợi ích rất lớn mong quý vị cố gắng tu tập hằng ngày để tìm thấy sự giải thoát nơi thân tâm của mình.

13.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 6: “Quán li sân tôi biết tôi hít vô; quán li sân tôi biết tôi thở ra.”

Sân là một ác pháp nếu không lìa ra khỏi thân tâm thì nó sẽ làm khổ quý vị vô vàn, vì vậy hằng ngày quý vị phải tu tập: Nếu một tâm sân đã được lìa bỏ thì Niết Bàn ở tại đó. Chỉ cần chuyên tu tập một đề mục này lìa bỏ được tâm sân thì con đường tu của Phật giáo đâu mấy khó khăn. Phải không quý phật tử?

Đức Phật đã đem lời dạy này ra bảo đảm với chúng ta: “Điều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A La Hán nói đến. Và tôi đã được nghe. Này các Tỳ kheo hãy từ bỏ một pháp, Ta bảo đảm cho các Ngươi không đi đến tái sanh. Thế nào là một pháp? Sân, này các Tỳ kheo là một pháp các Ngươi hãy từ bỏ. Ta bảo đảm cho các Ngươi không đi tái sanh. Thế Tôn nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.”

Theo lời dạy trên đây chúng ta chỉ cần tu tập một pháp Li Sân là chấm dứt tái sinh.

Trong đề mục thứ 13 của Hơi Thở đã có dạy, xin quý vị xem lại sẽ thấy rõ ràng. Chỉ tu tập đề mục này cũng đủ chứng đạo quả giải thoát, chấm dứt tái sanh luân hồi trong một đời này mà thôi.

Nếu quý vị đã nhiếp tâm An Trú, An Tịnh trong hơi thởở các đề mục như: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” và “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra” thì trong những đề mục này đã có li sân rồi, vì An Tịnh, An Trú được là tâm sân đâu còn nữa, nếu siêng tu tập những đề mục này cho thuần thục thì tâm sẽ được giải thoát và tâm sẽ như đất, như nước thì nóng giận còn ở đâu được nữa.

Quý phật tử có nghe Đức Phật dạy không? Chỉ có tâm sân bị diệt, bị từ bỏ thì con đường tái sinh sẽ chấm dứt. Một lợi ích quá lớn chỉ có tứ bỏ tâm sân là được chứng đao, là được giải thoát ngay liền; là được chấm dứt tái sinh luân hồi. Vậy mà không tu tập thì quá uổng. Phải không quý phật tử? Phải cố gắng nhớ tu tập hằng ngày “Quán li sân tôi biết tôi hít vô; quán li sân tôi biết tôi thở ra.” Chỉ có tu tập như vậy mà một kiếp sống khổ đau được diệt trừ mãi mãi, thật là tuyệt vời.

14.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 7: “Quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm tham tôi biêt tôi thở ra.”

Khi nào chúng ta cảm nhận tâm mình còn tham lam thì nên tu tập đề mục này: “Quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi thở ra.”

Đề mục này tu tập cũng giống như đề mục “Quán li tham…”,nhưng ở đây “Quán từ bỏ” mạnh hơn. Vậy khi tu tập li được tâm tham thì thôi, nếu thấy tâm không li được tham thì chúng ta tu tập đề mục từ bỏ tâm tham cho đến khi thấm nhuần thì chắc hắn tâm tham sẽ bị diệt trừ.

Như vậy quý vị thấy rất rõ ràng, muốn diệt trừ một ác pháp nào trong tâm của chúng ta đều phải tu tập từ pháp dễ rồi mới đến pháp khó, vì vậy tu tập đề mục thứ mười hai “Quán li tham tôi biết tôi hít vô; quán li tham tôi biết tôi thở ra.” Khiến cho tâm tham lìa ra, khi tâm tham được lìa ra thì kết quả giải thoát rất tốt, bằng nó Muốn chứng đạo phải tu pháp môn nào? 67 không chịu lìa ra thì quý vị tu tập tiếp đề mục thứ 14 từ bỏ tâm tham của Định Niệm Hơi Thở“Quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi thở ra.”

Nếu quý vị siêng năng chuyên cần tu tập đề mục này thì tâm tham sẽ bị từ bỏ không còn tới lui nữa.Từ li đến từ bỏ là một đoạn đường tu tập để diệt trừ lòng tham dục của chúng ta. Chính nó là gốc sinh ra muôn vàn sự khổ đau của loài người. Mong quý vị hiểu rõ những điều này để nhiệt tâm tu tập ngõ hầu được ra khỏi mọi sự khổ đau của kiếp làm người.

15.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 8: “Quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi thở ra.”

Ở trên là những đề mục tu tập quán xét suy tư để từ bỏ tâm tham, còn ở đây tu tập những đề mục quán xét để từ bỏ tâm sân. Cho nên trước khi tu tập đề mục này chúng ta phải tư duy quán xét cho thấu suốt lí vô thường của tâm sân, nhờ đó chúng ta mới từbỏ nó một cách dễ dàng, không còn khó khăn và trở ngại. Vì khi từ bỏ là nó đi luôn không còn trở đi trở lại nữa..

Đề mục này tu tập cũng giống như đề mục “Quán li sân…”nhưng ở đây nó mạnh mẽ hơn là do “Quán từ bỏ tâm sân…”Nếu người nào bền chí tu tập, chỉ một đề mục này thôi cũng đủ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.

Như đề mục trên đã dạy: lìa tâm sân chưa đủ mà cần phải tiếp từ bỏ nó. Muốn từ bỏ nó là phải hằng ngày tu tập đề mục thứ 15: “Quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi thở ra.”

Nếu một người siêng năng hằng ngày tu tập với câu pháp hướng này tâm sân sẽ được từ bỏ. Từ bỏ được tâm sân thì tâm quý vị sẽ được thanh thản, an lạc và vô sự. Ở đây quý vị thấy có hai tâm mà cần phải tu tập xả li, từ bỏvà diệt trừ, đó là tâm tham và tâm sân. Có hai tâm này mà đã chiếm bốn đề mục tu tập của Định Niệm Hơi Thở:

1- Li tâm tham

2- Li tâm sân

3- Từ bỏ tâm tham

4- Từ bỏ tâm sân.

Bốn đề mục này quý phật tử tu tập nhuần nhuyễn rồi mới tiến tới tu tập đề mục thứ mười sáu.

16.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 9: “Quán đoạn diệt tâm tham tôi biết tôi hít vô; quán đoạn diệt tâm tham tôi biêt tôi thở ra.”

Trong tất cả các đề mục của Định Niệm Hơi Thở có những đề mục tu tập liên tiếp diệt trừ tâm tham, sân, si. Cho nên nhửng từ li tâm tham, từ bỏ tâm tham rồi đoạn diệt tâm tham là những bài pháp tu tập liên tục không gián đoạn.

Đề mục tu tập này có một sự quyết liệt mạnh mẽ hơn những đề mục trên vì “đoạn diệt tâm tham.”tức là làm cho nó không còn nữa, làm cho nó chết mất. Vì vậy ở trên chỉ có “li” và “từ bỏ” mà chưa làm cho nó tiêu diệt. Tại sao chỉ có tâm tham mà phải ba đề mục tu tập cẩn thận như vậy?

Kính thưa quý phật tử! Tâm tham dục là một nguyên nhân sinh ra muôn thứ khổ đau của loài người như trên đã nói, vì thế nó quan trọng đệ nhất trong các pháp ác. Cho nên Đức Phật chia ra làm ba pháp tu tập tập hay còn gọi là ba giai đoạn tu tập tâm tham. Và khi đến tu tập đề mục này quý phật tử phải có sự quyết định mạnh mẽ không thể lôi thôi với tâm tham dục được.

Đây là một pháp môn quyết liệt diệt trừ tâm tham, vì chính tâm tham dục của loài người mà loài nguời phải chịu khổ đau vô vàn. Đề mục thứ 16 này là một pháp môn quyết định con đường tu tập của Phật diệt trừ tận gốc đau khổ. Vậy quý phật tử hãy cố gắng lên, đây là pháp môn cứu cánh thoát kiếp khổ đau của con người mà mọi người phải tự thắp đuốc lên mà đi, không ai đi thay thế cho ai được.

Một phương pháp quá đơn giản “Quán đoạn diệt tâm tham tôi biết tôi biết tôi hít vô; quán đoạn diệt tâm tham tôi biết tôi thở ra.” Cứ như thế nương vào hơi thở tu tập tác ý từ 1 phút đến 30 phút, sự tu tập ấy quá dễ dàng, không có khó khăn, không có mệt nhọc, chỉ còn có siêng năng tu tập là đạt kết quả mĩ mãn

17.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 10: “Quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi hít vô; quán đoạn diệt tâm sân tôi biêt tôi thở ra.”

Người nào có đặc tướng tâm hay sân giận thì nên tu tập pháp môn này. Đề mục này cũng có một sự quyết định cuộc đời tu hành của mình được hay không được. Nếu một người tu hành mà tâm sân còn thì có nghĩa lí gì là một tu sĩ Phật giáo. Phải không thưa quý phật tử?

Sân là một tính rất xấu và cực ác, lúc sân, nó có thể giết người, làm bất cứ một việc gì; lúc sân, nó cũng không sợ bất cứ một thứ gì. Biết sự nguy hiểm của tâm sân như vậy nên chúng ta quyết liệt đoạn diệt tâm sân tận gốc không còn để một chút xíu nào trong tâm. Biết tâm sân là sự khổ đau, là pháp cực ác nên tu tập phải chấm dứt nó ngay liền.

Chấm dứt được tâm sân là Niết bàn ngay liền tại đây, đâu có xa gì? Vì tâm sân diệt là tâm tham diệt; tâm sân còn là tâm tham còn. Trong hai tâm này diệt một tâm thì tâm kia phải diệt. Biết rõ điều này nên Đức Phật đưa vào Định Niệm Hơi Thở sáu đề mục liên tục để diệt trừ tâm tham và tâm sân.

Sáu đề mục này rất quan trọng xin quý phật tử lưu ý, để tu tập quyết định cho một đời tu hành của mình có thành công hay không thành công do sáu đề mục này. quý phật tử hãy gửi trọn thân tâm vào những pháp môn tu tập này. Bởi Định Niệm Hơi Thở là một pháp môn ngăn ác diệt ác rất tuyệt vời. Nhưng hãy theo thứ tự đề mục của Định Niệm Hơi Thở mà tu tập. Đề mục này tu có kết quả rồi mới tu tập đến đề mục khác. Phải nhớ lời dạy bảo này: đừng tu tập đề mục này chưa có kết quả mà vội tu tập đến đề mục khác thì rất uổng phí công tu tập.

“Quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi hít vô; quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi thở ra.” Đó là một câu tác ý nương theo hơi thở để diệt tâm sân một cách tuyệt vời. Nếu quý phật tử chuyên cần tu tập hằng ngày, rảnh giờ nào tu tập giờ nấy. Suốt thời gian tu tập một năm, tâm sân của quý vị sẽ bị diệt trừ. Tâm quý vị sẽ như đất, như nước không còn chướng ngại pháp nào làm quý vị sân được.

18.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 11: “Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra.”

Khi tu tập đoạn diệt tâm tham, sân, si, mạn, nghi thì tâm phải Định Tỉnh, nếu thấy mình đoạn diệt tham, sân, si, mạn, nghi mà tâm không Định Tỉnh tức là bị tưởng hôn trầm thùy miên vô kí. Khi bị những trạng thái này thì tâm sinh lười biếng thích ngồi nhiều lười biếng đi kinh hành, vì thế chúng ta nên trở về đề mục Hơi Thở.

Biết rõ trường hợp này thường xảy ra cho mọi người tu tập nên Đức Phật đã dạy câu tác ý: Quán Tâm Định Tỉnh theo phương pháp Định Niệm Hơi Thở: “Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra.”

Đây là đề mục phá tâm si. quý phật tử phải cố gắng tu tập với đề mục này cho nhuần nhuyễn. Khi tu tập đã nhuần nhuyễn thì không bao giờ có hôn trầm, thùy miên và vô kí đến thăm quý vị nữa. Nếu quý phật tử tu tập chưa nhuần nhuyễn thì quý vị sẽ bị hôn trầm, thùy miên đánh gục. Hôn trầm, thùy miên là một pháp cực ác đối với những người tu hành theo Phật giáo. Vốn nó không tha cho một người nào cả, ngay đức Phật còn bị hôn trầm, thùy miên, vô kí, v.v…

Nếu quý phật tử diệt trừ tâm tham, tâm sân ở các đề mục trên thì đến đề mục thứ 18 này tâm si cũng đã bị diệt mất. Vì thế khi tu tập đề mục này quý phật tử chỉ cần tác ý “Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra” là tâm định tỉnh có ngay liền. Trước khi muốn tu tập một pháp môn nào đều phải sử dụng đề mục này trước để giữ tâm được tỉnh táo, không bị những trạng thái si mê xen vào trong lúc tu tập.

Đề mục tu tập này quá đơn giản, nhưng hiệu quả vô cùng “Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra” như vậy, thế mà quý phật tử không tu tập thì rất uổng. Mong quý phật tử lưu ý tu tập nhiều hơn để mang lại lợi ích cho mình cho người thật là an lạc vô cùng.

19.- ĐỀ MỤC LI ÁC PHÁP THỨ 12: “Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô; với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra.”

Khi đã tu tập 18 đề mục trên thì tâm quý vị đã quá nhuần nhuyễn nên với đề mục này chỉ cần tác ý là thấy ngay liền một trạng thái Tâm Giải Thoát. “Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô; với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra.” Đây là đề mục cuối cùng của Định Niệm Hơi Thở, khi tất cả các đề mục trên đều đã hoàn thành viên mãn thì đến đề mục này là Tâm Bất Động hoàn toàn, có nghĩa là tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự, tức là tâm ở trạng thái không phóng dật như Phật ngày xưa. Xưa Đức Phật đã xác định cho chúng ta biết trạng thái này là cứu cánh Niết Bàn: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật, muôn pháp lành cũng đều nơi đó sinh ra.”

Đây là đề mục thứ 19 của Định Niệm Hơi Thở. Một đề mục chỉ cho trạng thái Niết Bàn “Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô; với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra.” Khi tâm ở trong trạng thái bất động Niết Bàn thì tâm không phóng dật theo các pháp, nên tâm luôn luôn tự nhiên ở trên hơi thở ra, hơi thở vào. Cho nên câu tác ý “Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô; với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra” là chỉ rõ tâm bất động luôn luôn biết hơi thở ra vào nhẹ nhàng, êm ái mà không do dụng công chút nào cả, nếu còn dụng công để tâm biết hơi thở ra vào là chưa giải thoát.

Định Niệm Hơi Thở rất tuyệt vời, nếu người nào cứ theo đúng 19 đề mục của Định Niệm Hơi Thở này tu tập, mỗi đề mục đều có kết quả thì đến đề mục thứ 19 sẽ nhập vào chỗ Tâm Bất Động một cách dễ dàng. Chỗ tâm bất động là Niết Bàn, là cứu cánh của Phật giáo. Tác ý đề mục “Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô; với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra” này cũng giống như quý phật tử tác ý “Tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự” vậy.

Đến đây 19 đề mục Định Niệm Hơi Thở đã giảng xong, còn lại phần tu tập là phần của quý phật tử. Chúng tôi chỉ là những người hướng đạo chỉ đường cho quý vị đi, nếu quý vị có đi thì quý vị đến chỗ an toàn, còn không đi là quyền của quý vị, chúng tôi không có quyền bắt buộc một người nào cả. Phật pháp là của chung của mọi người không riêng của người nào cả.

Sau cùng chúng tôi kính chúc quý vị tu tập sớm đạt được như ý muốn.

*****

TÓM LƯỢT TU PHÁP MÔN ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ

Muốn thân được an ổn, thanh tịnh thì hằng ngày nên tu tập: Đề mục thứ năm của Định Niệm Hơi Thở, muốn tu tập cho có kết quả thì phải nương theo câu tác ý sau đây: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra.” Tu tập như vậy thì kết quả đem lại thân được An Trú, An Tịnh, nhờ đó mà thân không bệnh tật, không đau nhức.

Khi tu tập An Tịnh Thân hành có kết quả tốt thì mới tu tập An Tịnh Tâm Hành, còn tu tập An Tịnh Thân Hành chưa có kết quả thì phải bền chí tu tập đến khi nào có kết quả An Tịnh Thân Hành từ 30 phút đến một giờ thì mới chuyển qua tu tập Tâm Hành.

Muốn tâm được An Trú, An Tịnh thì hằng ngày nên tu tập đềmục thứ7 của Định Niệm Hơi Thở, nhất là phải nương theo câu tác ý sau đây theo sự hướng dẫn của Đức Phật dạy cho chúng Tỳ kheo trong thời Đức Phật còn tại thế: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”.

Khi tác ý như vậy thì tâm sẽ An Trú và An Tịnh ngay liền, đó là công phu tu tập đã đạt được kết quả làm chủ được tâm, nếu tu tập chưa đạt được vậy thì hãy tiếp tục tu tập câu tác ý này cho đến khi nào bảo tâm sao thì tâm làm theo như vậy.

Khi tu tập đạt được kết quả là làm chủ được tâm thì mới tiếp tục tu tập đề mục thứ9 của Định Niệm Hơi Thở: “Quán thọ vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thọ vô thường tôi biết tôi thở ra.”

Như trên đã dạy: khi tu tập hai đề mục An tịnh Thân và An Tịnh Tâm đã An trú, đã An Tịnh thì mới nên tu tập đến đề mục li ác pháp thứ 3 này, nên nhớ kĩ lời dạy này thì sự tu tập mới có kết quả tốt.

Đây là ba đề mục rất quan trọng để diệt trừ các ác pháp và các cảm thọ, khiến chúng không còn tác động vào thân tâm của quý vị được nữa. Như vậy là quý vị tu tập đã giải thoát hoàn toàn

Ba pháp môn Hơi Thở này được xem như ba cây cổ thụ trong pháp Thân Hành Niệm. Nếu chia ra từng kết quả của mỗi pháp mà gọi là tu chứng thì chưa chứng đạo, chỉ có dụm lại kết quả của ba pháp môn này thì mới được gọi là chứng đạo. Nếu quý vị tu tập ba đề mục này có chất lượng đầy đủ thì không có bệnh khổ nào dám bén mảng vào thân quý vị được. Đây là pháp môn tu tập Định Niệm Hơi Thở kết hợp với pháp môn Thân Hành Niệm để diệt trừ các bệnh khổ nơi thân tâm của quý vị.

Lợi ích lớn cho đời người như vậy, xin quý vị hãy cố gắng tu tập cho thuần thục, đừng tu tập lấy có, vì chẳng giải quyết được những gì, còn phí thời gian và công sức của quý vị quá uổng.


Page 16

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NPTCB, tập 4, TG. 2011, tr. 49-62)
link sách: NPTCB, tập 4

LỜI PHẬT DẠY

“Thật vi diệu thay, chư Hiền Giả! Thật hi hữu thay, chư Hiền Giả! Thân Hành Niệm, khi được tu tập và làm cho sung mãn, có được quả lớn, có được công đức lớn, như đã được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố”. “Và này các Tỳ Kheo, Thân Hành Niệm tu tập như thế nào, có quả lớn, có công đức lớn?”. (Trung Bộ kinh trang 265, 266).

CHÚ GIẢI:

Muốn hiểu rõ pháp môn Thân Hành Niệm trong đoạn kinh này thì chúng ta cần nên xem xét những cụm từ cho rõ nghĩa:

Thực hành Tu tập

Làm cho sung mãn

Làm thành cổ xe

Làm thành căn cứ địa

Làm cho kiên trì

Làm cho tích tập

Khéo tinh cần thực hành.

- Cụm từ thứ nhất: Thực hành có nghĩa là làm theo phương pháp đã dạy, phương pháp dạy như thế nào thì làm đúng như thế nấy. Nghĩa của thực hành là biến ra hành động theo đúng lời dạy không làm sai.

- Cụm từ thứ hai: Tu tập có nghĩa là sửa đổi tâm tánh, thiện xảo trong các pháp thực hành, biết linh động khi thực hành cho phù hợp trong mọi tình huống, mọi tâm trạng, mọi hoàn cảnh… Chữ tu tập không có nghĩa là ngồi thiền, gõ mõ tụng kinh, niệm chú, niệm Phật… Chữ tu tập của Phật giáo có nghĩa là tu sửa đổi những lỗi lầm, để không còn lỗi lầm nữa, để từ bỏ thói hư tật xấu, để từ người xấu trở thành người tốt, để từ phàm phu trở thành Thánh nhân. Cho nên tu tập cũng có nghĩa là thực hành nhưng thực hành rất linh động nhằm thực hiện đạo đức làm người làm Thánh, chứ không có nghĩa thực hành theo môn thể thao võ công, khinh công, nội công, khí công, nhân điện, yoga… Từ xưa đến nay, người ta hiểu hai chữ tu tập là phải theo một tôn giáo nào và tu tập để thành Tiên, thành Phật, để được sinh về cõi Trời, cõi Phật, cõi Cực Lạc Tây Phương, chứ người ta không mấy ai lưu ý tu là sửa sai những lỗi lầm, là ngăn ngừa các ác pháp và diệt trừ các ác pháp để cho tâm được thanh thản nhẹ nhàng an lạc v.v…

- Cụm từ thứ ba: Làm cho sung mãn có nghĩa là cho nhuần nhuyễn, làm cho nhịp nhàng, làm cho thành một thói quen từ hành động này chuyển sang những hành động khác một cách tự nhiên không còn thiếu sót một hành động nào, rất là đầy đủ trong pháp Thân Hành Niệm. Làm cho sung mãn, còn có nghĩa là làm cho khỏe mạnh, làm cho dồi dào năng lượng tăng cường năng lực.

- Cụm từ thứ tư: Làm thành cổ xe có nghĩa là kết hợp tất cả mọi thân hành nội hay ngoại làm thành một cổ xe. Ở đây có nghĩa là tất cả thân hành ngoại nội như: Đi, đứng, ngồi, nằm, co tay duỗi chân và hít thở đều kết hợp lại như một vòng tròn bánh xe và khi thực hành giống như bánh xe lăn chung quanh một cái trụ. Khi tất cả những thân hành đều được kết hợp một cách chặt chẽ nên kinh dạy: “Làm thành cỗ xe kiên cố.” Khi cổ xe đã được thành lập kiên cố thì chúng ta mới đủ điều kiện để cán nát giặc sanh tử luân hồi, mới thắng được nghiệp lực muôn đời ngàn kiếp.

- Cụm từ thứ năm: Làm thành căn cứ địa có nghĩa là người tu hành khi ôm pháp Thân Hành Niệm phải kết hợp chặt chẽ từ hành động này kế hành động khác liên tục không có một kẽ hở, những hành động ấy phải miên mật kín như tường đồng vách sắt nên hôn trầm, thùy miên, loạn tưởng, hôn tịch, ngoan không và vô ký không xen vào được và cũng không để các cảm thọ như: Thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất thọ khổ tác động vào thân tâm được. Có tu tập được như vậy mới thấy pháp môn Thân Hành Niệm là căn cứ địa tốt nhất cho cuộc chiến đấu giành thắng lợi làm chủ sanh tử luân hồi. Nếu tu tập pháp Thân Hành Niệm mà tạo được một căn cứ địa thì giặc sanh tử luân hồi không tấn công vào được thân tâm thì sự tu tập của chúng ta mới hoàn thành viên mãn. Ví dụ: khi bạn tu tập pháp Thân Hành Niệm, lúc bấy giờ pháp ấy đã biến thân tâm của bạn là một căn cứ địa thì không bao giờ có giặc loạn tưởng, giặc hôn trầm thùy miên giặc vô ký, trạo cử, giặc cảm thọ trong khi bạn ôm pháp tu tập thì nó không bao giờ đánh vào được, đó là bạn đã biến pháp môn Thân Hành Niệm thành căn cứ địa nơi thân tâm bạn, còn ngược lại bạn còn bị những chướng ngại kể trên tác động vào thân tâm được thì pháp môn ấy chưa trở thành căn cứ địa. Chưa trở thành căn cứ địa thì bạn hãy tập luyện nhiều hơn nhưng cũng tuỳ ở giới luật của bạn có nghiêm chỉnh hay chưa?. Trong lúc pháp môn Thân Hành Niệm của bạn chưa thành căn cứ địa nhưng nó vẫn thành tựu như một cổ xe kiên cố. Tuy rằng, nó còn có mọi chướng ngại pháp xâm chiếm vào, nhưng bạn cứ ôm pháp tiến lên vượt qua các chướng ngại ấy mà chiếc xe Thân Hành Niệm của bạn không dừng lại là bạn đã kết hợp các Thân Hành Niệm thành được cổ xe kiên cố. Nếu cổ xe bạn bị đứng lại khi bị những chướng ngại pháp thì bạn là người chưa kết hợp các Thân Hành Niệm trở thành cổ xe mà chỉ mới tu tập pháp Thân Hành Niệm mà thôi. Khi nào bạn thấy pháp Thân Hành Niệm của bạn không có một chướng ngại pháp nào tác động vào thân tâm được. Là nó đã trở thành căn cứ địa của bạn.

Cụm từ thứ sáu: Làm cho kiên trì có nghĩa là. Khi cổ xe Thân Hành Niệm đã trở thành căn cứ địa thì lúc bấy giờ chúng ta tăng dần thời gian lên từ 1 đến 5 giờ, từ 5 giờ đến 10 giờ, sự tăng thời gian lên như vậy gọi là kiên trì trên pháp Thân Hành Niệm.

Cụm từ thứ bảy: Làm cho tích tập có nghĩa là tích lũy sự tu tập càng lúc càng kiên cố và chặt chẽ hơn khiến không cho một chướng ngại pháp nào tác động vào thân tâm được. Nếu các bạn chỉ cần thiện xảo một chút thì pháp Thân Hành Niệm sẽ linh động tạo thành một nội lực mãnh liệt vô cùng.

Cụm từ thứ tám: Khéo tinh cần thực hành có nghĩa là từ lúc bắt đầu tu tập pháp Thân Hành Niệm là: Phải khéo siêng năng cần mẫn tu tập không được gián đoạn bỏ qua một giờ, một phút, một giây nào cả, phải cố gắng tinh cần tập luyện thì mới thấy được những kết quả của pháp môn nầy.

HIỆU QUẢ CỦA PHÁP MÔN THÂN HÀNH NIỆM

Những hiệu quả của pháp môn Thân Hành Niệm như thế nào? Xin các bạn hãy lắng nghe lời Đức Phật dạy: “Cũng vậy này các Tỳ kheo, đối với vị nào tu tập Thân Hành Niệm, làm cho sung mãn, vịấy hướng tâm đã được chứng ngộ, nhờ thắng trí đến pháp nào cần phải chứng ngộ nhờ thắng trí, vịấy đối mặt được sự tinh xảo của pháp ấy, dầu đến xứ nào. Ví dụ, này các Tỳ kheo trên đất bằng tại chỗ ngã tư có một chiếc xe đậu, thắng với những con ngựa thuần thục, có roi ngựa đặt ngang sẵn sàng, có người Mã Thuật Sư thiện xảo, người đánh xe điều ngự các con ngựa đáng được điều ngự, leo lên xe ấy, tay trái cầm dây cương, tay mặt cầm lấy roi ngựa, có thể đánh xe ngựa ấy đi tới đi lui tại chỗ nào và như thế nào theo ý mình muốn. Cũng vậy này các Tỳ kheo, đối với vị nào tu tập Thân Hành Niệm, làm cho sung mãn, vịấy hướng tâm đã được chứng ngộ nhờ thắng tri đến pháp nào cần phải chứng ngộ nhờ thắng trí, vịấy đối mặt được sự tinh xảo (của pháp ấy) dầu với giới xứ nào?” Khi tu tập Thân Hành Niệm đã tạo thành căn cứ địa thì chúng ta muốn một điều gì thì chỉ cần hướng tâm với thắng trí của ta thì sẽ thấy kết quả ngay liền, có nghĩa là ta điều khiển thân tâm một cách dễ dàng với ý muốn của ta (thắng trí) .

Trong bài kinh này có nêu ra một ví dụ để ta thấy sự hiệu quả của pháp Thân Hành Niệm, nó giống như một cổ xe ngựa, có những con tuấn mã, dây cương và roi, đều sẵn sàng, người đánh xe cũng đầy đủ. Khi ấy chỉ cần ra lệnh là điều khiển chiếc xe ngựa đi tới đi lui, đi chỗ nào cũng được dễ dàng. Hiệu quả của pháp môn Thân Hành Niệm cũng như vậy. Khi ta tu tập pháp môn Thân Hành Niệm đã trở thành căn cứ địa thì bắt đầu các bạn điều khiển thân tâm của các bạn như cổ xe ngựa. Biết pháp môn Thân Hành Niệm là một pháp môn có đầy đủ thần lực để điều khiển sự sống chết và còn hơn thế nữa. Mong các bạn hãy tinh cần tu tập đừng có biếng trể để sớm làm chủ thân tâm của mình và mang lại hạnh phúc an vui cho mình cho người không sao kể hết.

TU PHÁP MÔN THÂN HÀNH NIỆM XUẤT HIỆN 10 CÔNG ĐỨC LỚN

Khi chúng ta tu tập pháp Thân Hành Niệm trở thành căn cứ địa thì xuất hiện mười công đức lớn. Mười công đức lớn ấy không thể nghĩ lường. Vậy, chúng ta hãy lắng nghe Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, Thân Hành Niệm được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm thành như cổ xe, được làm thành như căn cứ địa, được làm cho kiên trì. Được làm cho tích tập, được khéo tinh cần thực hành thì mười công đức ấy có thể mong đợi”. Thế nào là mười?

1/ Lạc, bất lạc được nhiếp phục và lạc, bất lạc không nhiếp phục vịấy và vịấy làm nhiếp phục lạc, bất lạc được khởi lên.

2/ Khiếp đảm sợ hãi được nhiếp phục và khiếp đảm sợ hãi không nhiếp phục vịấy và vị ấy luôn luôn nhiếp phục khiếp đảm sợ hãi được khởi lên.

3/ Vị ấy kham nhẫn được lạnh nóng, đói khát sự xúc chạm của ruồi muỗi, gió mặt trời, các loài rắn rết, các cách nói khó chịu, khó chấp nhận.

4/ Vị ấy có khả năng chịu đựng được những cảm thọ về thân khởi lên khổ đau nhức nhối, thô bạo chói đau, bất khả ý, bất khả ái, đưa đến chết điếng.

5/ Tuỳ theo ý muốn không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, vị ấy chứng được Bốn Thiền thuần tuý tâm tư hiện tại lạc trú.

6/ Vị ấy chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân; hiện hình biến đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang hư không, độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước; đi trên nước không chìm như đi trên đất liền, ngồi kiết già đi trên hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trời mặt trăng, những vật có đại oai lực đại thần lực như vậy, có thể thân có thần thông bay đến Phạm thiên với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân có thể nghe hai loại tiếng chư Thiên và loài Người ở xa hay ở gần.

7/ Với tâm của vịấy, vị ấy biết tâm của các chúng sanh, các loài người, tâm có tham, biết tâm có tham; tâm có sân biết tâm có sân; tâm không sân, biết tâm không sân; tâm có si, biết tâm có si; tâm không si, biết tâm không si; tâm chuyên chú, biết tâm chuyên chú; tâm tán loạn, biết tâm tán loạn; tâm đại hành, biết tâm đại hành; tâm không đại hành, biết tâm không đại hành; tâm chưa vô thượng, biết tâm chưa vô thượng; tâm vô thượng, biết tâm vô thượng; tâm Thiền định, biết tâm Thiền định; tâm không Thiền định, biết tâm không Thiền định; tâm giải thoát, biết tâm giải thoát; tâm không giải thoát, biết tâm không giải thoát .

8/ Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời hay nhiều đời... vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ với các nét đại cương và các chi tiết.

9/ Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ.

10/ Với sự diệt trừ các lậu hoặc sau khi tự mình chứng trí với thượng trí, vị ấy chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, tâm giải thoát tuệ giải thoát không có lậu hoặc”.

Trên đây là một bài kinh nói về các công năng ứng dụng vào đời sống của một vị tu hành theo Phật Giáo, khi họ đã thực hiện pháp môn Thân Hành Niệm đúng pháp. Do những công năng của pháp Thân Hành Niệm các bạn mới thấy Phật pháp thật là vĩ đại. Với chiếc thân ngũ uẩn vô thường, vô ngã, bất tịnh, uế trược, hôi thối chẳng ra gì mà khi tu tập lại có những công năng thật kinh khủng, ghê gớm thật sự. Công năng ấy giúp con người thoát ra khỏi không gian và thời gian, làm chủ cả vũ trụ, không có một vật gì tác động được sự bất động của tâm.

Kính thưa các bạn! Sự tu tập theo Phật Giáo không phí công, phí của của các bạn chút nào cả, nó rất xứng đáng với công lao tu tập của các bạn. Năng lực thứ nhất xuất hiện trong khi tu tập pháp môn Thân Hành Niệm, nó giúp các bạn nhiếp phục được các cảm thọ về lạc về khổ. Về các thọ lạc các bạn nhiếp phục được thọ lạc về ăn, ngủ phi thời, thọ lạc về vui chơi trò chuyện hội họp. Do đó, các bạn cũng nhiếp phục được nó, cho nên không thích hội họp, không thích nói chuyện, bàn tào lao, chuyện trên trời, dưới biển, chuyện về các dục như: Sắc dục, dục danh, dục lợi, dục chùa to, Phật lớn, v.v… Về thọ khổ các bạn cũng nhiếp phục được khiếp đảm sợ hãi, kham nhẫn được trời nóng trời lạnh, đói khát kham nhẫn được ruồi, muổi, nắng, gió, mưa, bão, rắn, rết, v.v… kham nhẫn được lời nói ác, lời nói vu khống, lời nói khó chịu, lời nói khó chấp nhận.

Về thọ khổ trên thân như bệnh tật đau ốm, v.v…vịấy chịu đựng được những cảm thọ khởi lên như bệnh tật khổ đau nhói đau, thô bạo, bất khả ý, bất khả ái đau điếng, chết điếng. Đó là những sự kham nhẫn khó có người bình thường mà kham nhẫn được, thế mà người tu pháp môn Thân Hành Niệm lại kham nhẫn được, thật là tài tình. Tu tập pháp Thân Hành Niệm các bạn đều phải chấp nhận có những năng lực phi thường, như trên các bạn đã thấy sức nhiếp phục, sức kham nhẫn, sức chịu đựng mà không thể một người bình thường làm được. Năng lực thứ sáu xuất hiện khi các bạn tu tập pháp Thân Hành Niệm năng lực này sẽ giúp cho các bạn, tuỳ theo ý muốn mà các bạn muốn nhập Bốn Thánh Định không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, chứng và nhập được Bốn Thiền hiện tại lạc trú một cách dễ dàng. Đọc đến năng lực thứ sáu của pháp Thân Hành Niệm các bạn biết tu thiền của Phật Giáo không phải ngay trên Bốn Thiền mà ta tu tập được. Cho nên các nhà Đại Thừa ngay trên Bốn Thiền giải thích loanh quanh giống như Tổ Khương Tăng Hội trong sách An Ban Thủ Ý. Cho nên đụng đến Bốn Thiền các nhà học giả xưa và nay đều tránh xa không dám giải thích, cứ dựa theo trong kinh mà giải thích chữ nghĩa một cách không rõ ràng, không cụ thể nhất là không biết pháp hành, nên càng giải thích thì càng tối nghĩa, khiến cho người muốn tu tập Tứ Thánh Định không biết lối nào tu.

Muốn tu tập thiền định thì bắt đầu các bạn phải học và tu tập sống đúng giới luật theo phương pháp Tứ Chánh Cần. Tứ Niệm Xứ và cuối cùng phải thực hiện pháp môn Thân Hành Niệm. Từ tu tập pháp môn Thân Hành Niệm, nó mới xuất hiện những năng lực siêu phàm, từ những năng lực đó đã giúp các bạn nhập các Thiền Định và thực hiện Tam Minh. Năng lực thứ sáu nói trên đã giúp các bạn nhập định một cách dễ dàng, không phải ở trên pháp Tứ Thánh Định mà tu tập. Cho nên muốn nhập Tứ Thánh Định thì phải có những năng lực siêu việt của pháp Thân Hành Niệm thì mới mong nhập được. Nếu không có những năng lực này thì khó mà nhập được. Qua kinh nghiệm tu tập theo giáo pháp của Đức Phật. Chúng tôi nhận xét Thiền Đông Độ, Thiền Đại Thừa và các loại Thiền khác đều là những loại thiền tưởng, thiền điên, tu hành chẳng làm chủ sự sống chết mà còn trở thành điên khùng, rối loạn thần kinh, nhập định ngay trên pháp ức chế tâm làm cho hết vọng tưởng, khi hết vọng tưởng gọi là nhập định thì chỉ có người chưa bao giờ nhập định mới tin, còn người có nhập định thì họ tội nghiệp cho những người mù nói về con voi. Hầu hết hiện giờ chưa có người nào biết về thiền định nên mới tu theo Thiền Đại Thừa và Thiền Đông Độ, Thiền Minh Sát, v.v… Chứ một khi họ đã nhập được định, nhất là nhập Tứ Thánh Định thì họ sẽ nhận xét sự tu tập Thiền Đại Thừa, Thiền Đông Độ, Thiền xuất hồn, Thiền vô vi, và Thiền Minh Sát Tuệ là những loại thiền tưởng, tu hành chẳng đi đến đâu, có nghĩa những loại thiền này tu chơi cho có hình thức tu, chứ không có ích lợi gì cho đời sống của họ. Họ tu tập chỉ là biểu dương những hình thức lừa đảo như ngồi thiền 5, 6 tiếng đồng hồ hoặc khi chết để lại nhục thân hoặc xá lợi. Có nhiều vị tu hành còn cầu danh, cầu lợi nên sử dụng một vài thần thông tưởng, tiết lộ chuyện quá khứ vị lai của người khác để dễ lừa đảo làm tiền người khác, nhất là tín đồ mê tín. Những loại thiền tu tập không có ích lợi thực tế chỉ là một trò ảo thuật lừa đảo người để đưa người vào thế giới ảo tưởng gây mê tín lạc hậu, lợi dụng những điều này để cất chùa to Phật lớn, để sống một đời sống dục lạc đầy đủ theo kiểu thế gian bằng chiếc áo tôn giáo!

Thưa các bạn, những năng lực của pháp môn Thân Hành Niệm từ thứ tám trở lên là những năng lực siêu việt mà người ta gọi là thần thông. Ở đây các bạn phải hiểu, nó không phải do luyện tập pháp môn thần thông mà có thần thông. Nó có năng lực làm được như vậy là do tâm thanh tịnh không còn tham sân si và các ác pháp. Tâm thanh tịnh không còn tham, sân, si và các ác pháp là do sống đúng, từ giới luật nghiêm chỉnh. Muốn giới luật nghiêm chỉnh thì phải tu tập pháp môn Thân Hành Niệm. Từ pháp môn Thân Hành Niệm mới có những năng lực xuất hiện để trợ giúp cho các bạn làm chủ sự sống chết. Năng lực ấy rất phi phàm, nó có được không ngoài Giới Luật và pháp môn Thân Hành Niệm. Ngoài hai pháp môn trên đây thì không có pháp nào có đủ năng lực làm những việc phi thường như vậy. Đây, các bạn hãy lưu ý năng lực siêu việt thứ sáu của pháp môn Thân Hành Niệm. Một năng lực kỳ lạ vô cùng mà không ai ngờ được, một người chỉ có một thân hình, thế mà khi người ấy muốn có 1000 thân hình như nhau thì tức khắc lại hiện ra 1000 thân hình người giống như nhau đúc, nó không phải là những hình bóng mà là con người thật bằng xương bằng thịt nếu chúng ta sờ mó vào những người này thì không khác gì người thật. Ông Châu Lợi Bàn Đặc khi tâm thanh tịnh, Ông biết mình đã chứng đạo vô lậu nên ra lệnh một thân của Ông phải biến ra 1000 thân Châu Lợi Bàn Đặc, hiện ra ngồi đầy rừng.

Thưa các bạn, ông Châu Lợi Bàn Đặc đâu có luyện tập thần thông, Ông chỉ được Đức Phật dạy quét tâm. Tức là tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ, lúc nào ông cũng cố gắng khắc phục những tham ưu trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp của ông, thế mà Ông đã thành tựu viên mãn đạo giải thoát. Một pháp môn giúp cho tâm các bạn xả ly ác pháp và tất cả dục, nên hoàn toàn tâm được thanh tịnh, từ tâm thanh tịnh ông Châu Lợi Bàn Đặc mới nhận ra được một năng lực kỳ lạ, một thân làm ra được nhiều thân, nhiều thân làm lại một thân, đó là năng lực siêu việt thứ nhất của pháp môn Thân Hành Niệm. Mọi vật đều bị cách nhau bởi không gian, thế mà người tu hành đúng pháp Tứ Niệm Xứ và Thân Hành Niệm thì một năng lực kỳ lạ xuất hiện thì không gian không còn ngăn cách nữa. Cho nên, một người tâm thanh tịnh không còn tham sân si thì họ đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang hư không: Họ độn thổ chui xuống đất trồi lên đất liền nhưở trong nước. Đó là năng lực thứ hai của Pháp môn Thân Hành Niệm mà ít có ai ngờ được. Từ lâu các nhà tiểu thuyết Trung Hoa giàu tưởng tượng nói ra những điều này, chứ xưa nay chưa có ai làm được. Mọi vật đều có trọng lượng, khi rơi xuống nước đều bị chìm thế mà người tu tập Thân Hành Niệm xuất hiện đầy đủ năng lực thì đi trên nước không chìm như đi trên đất liền, ngồi kiết già thân bay lên hư không như chim, một năng lực kỳ lạ làm mất trọng lượng của thân người thật là vĩ đại mà từ xưa tới nay, chưa từng ai làm được, thật là hy hữu.

Một năng lực mà chưa bao giờ ai dám nghĩ mà lấy tay rờ mặt trăng mặt trời. Thế mà pháp Thân Hành Niệm tu tập lại xuất hiện một khả năng siêu việt ngoài sức tư duy suy nghĩ của con người. Nhưng những lời này do Đức Phật nói. Không lẽ Đức Phật lại nói láo sao? Chúng tôi tu hành cảm nhận được mình có khả năng có thể làm được như vậy, nhưng thấy nó chỉ làm trò ảo thuật chơi, chứ không có ích lợi thiết thực cho đời sống hằng ngày, vì thế chúng tôi không thể hiện. Chúng tôi chỉ biết mình có đủ năng lực làm chủ sự sống chết, bệnh khổ và tâm phiền não là hạnh phúc cho chúng tôi lắm rồi. Tâm danh tâm lợi chúng tôi đã diệt trừ nên chúng tôi không thi triển những loại thần thông mê hoặc mọi người.

Chúng tôi biết rõ pháp thân Hành Niệm là một pháp môn rất tuyệt vời. Đúng vậy, ai có tu tập pháp Thân Hành Niệm và giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì năng lực một thân biến nhiều thân cho đến lấy tay sờ mặt trời mặt trăng là một điều không khó khăn. Một năng lực không thể nghĩ bàn, nếu người ấy đã thành tựu những năng lực ấy thì muốn đi đến bất cứ một hành tinh nào trong vũ trụ thì liền được toại nguyện như ý muốn. Người có năng lực như vậy đều do sáu căn phải thanh tịnh. Sáu căn thanh tịnh thì họ muốn dùng căn nào cũng dễ dàng. Nếu muốn nghe một điều gì dù ở xa hay ở gần với lỗ tai thanh tịnh của họ thì họ đều nghe được tiếng nói của mọi người không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức v.v… Khi họ dùng được nhĩ căn như vậy thì họ dùng tất cả các căn khác cũng dễ dàng. Với ý căn thanh tịnh siêu nhân họ biết từng tâm niệm của chúng sanh biết nhiều đời nhiều kiếp của mình. Với nhãn căn thanh tịnh siêu nhân họ thấy được sống chết của chúng sanh rõ ràng đi tái sanh nơi nào làm người làm loài thú vật họ đều biết tất cả. Với tâm thanh tịnh họ chứng vô thượng trí nên luôn luôn chứng đạt và an trú trong hiện tại với tâm giải thoát không có lậu hoặc.

Tóm lại, người tu tập pháp môn Thân Hành Niệm có 10 công đức lớn để thực hiện Tứ Thánh Định và Tam Minh. Họ là những bậc chiến thắng giặc sanh tử tâm hoàn toàn vô lậu. Họ là bậc A La Hán.


Page 17

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích MCĐPTPMN, TG. 2007, tr. 07-15)
link sách: MCĐPTPMN

Thân Hành Niệm là một pháp môn mà chúng ta cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng, vì nó là một pháp môn quan trọng nhất trong đời sống tu hành của chúng ta, nếu chúng ta không chịu khó nghiên cứu kĩ lưỡng thì chúng ta sẽ hối hận sau này:

- Hối hận thứ nhất chúng ta chỉ biết lí thuyết suông để khéo nói dối khiến cho thiên hạ tưởng mình tu chứng đạo.

- Hối hận thứ hai là không nắm vững các pháp hành, vì thế tu tập không có kết quả, cuối cùng chỉ uổng phí một đời tu hành mà chẳng ra gì.

Bởi pháp môn Thân Hành Niệm là pháp môn duy nhất trong 37 phẩm trợ đạo của Phật giáo để chúng ta tu tập đi đến kết quả cuối cùng là sự chứng đạo. Nếu không có pháp môn này thì chúng ta không bao giờ tu hành chứng đạo được.Vậy chúng ta hãy lắng nghe Đức Phật dạy:

“Tôi nghe như vầy, một thuở nọ Thế Tôn trú ở Savatthi, (nước Xá-vệ) Jetavana (Rừng Kỳ-Đà), tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Rồi một số đông Tỳ-kheo, sau buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về, đang ngồi tụ họp trong hội trường, câu chuyện này được khởi lên giữa chúng Tăng:

– Thật vi diệu thay, chư Hiền giả! Thật hi hữu thay, chư Hiền giả! Thân Hành Niệm, khi được tu tập và làm cho sung mãn, có được quả lớn, có được công đức lớn, như đã được Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-La-Hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố. Và câu chuyện này giữa các Tỳ-kheo ấy đã bị gián đoạn.

Thế Tôn vào buổi chiều, từ thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến hội trường, sau khi đến ngồi lên chỗ soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Ở đây, này các Tỷ-kheo, các ông hiện nay đang ngồi bàn vấn đề gì? Câu chuyện gì của các ông bị gián đoạn?

– Ở đây, bạch Thế Tôn, sau khi ăn xong, sau khi đi khất thực trở về, chúng con ngồi tụ họp tại hội trường, và câu chuyện sau này được khởi lên: "Thật vi diệu thay, chư Hiền giả! Thật hi hữu thay, chư Hiền giả! Thân Hành Niệm này được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có công đức lớn, đã được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-La-Hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố." Bạch Thế Tôn, câu chuyện này của chúng con chưa bàn xong thời Thế Tôn đến.

- Và này các Tỷ-kheo, Thân Hành Niệm tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào có quả lớn, có công đức lớn?”

Đó là một đoạn kinh để giới thiệu pháp môn Thân Hành Niệm và từ đây về sau Đức Phật dạy chúng ta cách thức tu tập Thân Hành Niệm.

Đọc đoạn kinh giới thiệu pháp môn Thân Hành Niệm chúng ta cảm nhận được pháp môn Thân Hành Niệm quan trọng như thế nào trong sự tu tập cầu giải thoát của chúng ta. Bởi vậy chúng ta phải cẩn thận nghiên cứu rất kĩ càng về pháp môn này để sau khi thực hành đều mang lại kết quả tốt đẹp.

Tại sao Đức Phật lại biết lấy Thân Hành làm pháp môn tu tập để dẫn đến kết quả làm chủ sinh, già, bệnh, chết?

Như chúng ta ai cũng biết mọi hành động trong thân chúng ta đều tạo ra nhân quả thiện ác, nếu do hành động thiện của chúng ta thì chúng ta hưởng phước báu, còn ngược lại hành động chúng ta tạo ác thì chúng ta phải gặt lấy những điều đau khổ.

Do xét thấy được những điều này nên Đức Phật lấy Thân Hành làm pháp môn tu tập, vì vậy mới có tên là pháp Thân Hành Niệm, tức là lấy Thân Hành làm niệm để tu tập, mà Thân Hành là niệm có sẵn rất tự nhiên trong thân của mọi người, do đó lấy Thân Hành tự nhiên làm niệm tu tập thì không bịức chế ý thức. Còn ngược lại những người không biết vận dụng Thân Hành làm niệm nên bịức chế ý thức, vì vậy rơi vào thiền Tưởng của ngoại đạo: Không Vô Biên Xứ Tưởng, Thức Vô Biên Xứ Tưởng, Vô Sở Hữu Xứ Tưởng và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

Khi bị rơi vào các loại định Tưởng này thì không bao giờ li dục li ác pháp. Cho nên tâm Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi cũng không bao giờ quét sạch được.

THỰC HÀNH PHÁP MÔN THÂN HÀNH NIỆM

Muốn chứng đạt chân lí Tâm Vô Lậu chúng ta hãy nghiên cứu kĩ pháp môn Thân hành Niệm, một pháp môn độc nhất vô nhị của Phật giáo mà không có một tôn giáo nào có. Pháp môn Thân Hành Niệm lấy thân hành làm đối tượng tu tập nhiếp tâm và an trú tâm.

Trong pháp môn Thân Hành Niệm có 13 pháp tu tập, nhưng trước khi muốn tu tập thì phải làm sao kết hợp 13 pháp này trở thành một pháp duy nhất, nhưng phải có sự tu tập kết hợp liên tục như trong kinh Thân Hành Niệm đã dạy:

“Này các Tỷ-kheo, Thân Hành Niệm được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như cỗ xe, được làm như thành căn cứ địa, được làm cho kiên trì, được làm cho tích tập”. (Kinh Trung Bộ tập I).

Theo như lời dạy trên đây thì 13 pháp này được làm như cỗ xe, được làm như căn cứ địa, được làm cho kiên trì, được làm cho tích tập thì chúng ta tu tập sẽ chứng đạt chân lí không khó khăn, không có mệt nhọc. Nói thì dễ nhưng làm như cỗ xe, như căn cứ địa, được làm cho kiên trì, được làm cho tích tập là phải làm sao? Làm như thế nào?

Theo kinh nghiệm của chúng tôi, muốn làm được những điều này thì phải có ý chí kiên cường; phải gan dạ, phải bền lòng không được chùng bước trước mọi khó khăn, trước mọi gian nan thử thách. Đó là một công phu bằng máu và nước mắt của chính mình. Đây là một cuộc chiến đấu với giặc sinh tử, vì chúng ta không muốn làm những người nô lệ cho giặc nên phải dốc cho hết sức lực ra chiến đấu tận cùng. Một đất nước muốn dân tộc nước đó sống được độc lập tự do hạnh phúc thì toàn dân nước đó đều phải ra chiến trường chiến đấu đuổi giặc.

Giặc sinh tử cũng vậy, nếu ai muốn làm chủ sự sống chết thì phải nhất định không đầu hàng, không làm nô lệ cho giặc sinh tử thì con đường tu tập mới có được kết quả tốt đẹp. Còn những người sợ khó, sợ cực nhọc, sợ chết nên bỏ cuộc không dám tu tập nữa. Những người này cũng giống như khi giặc ngoại bang sang xâm chiếm nước ta, có một số người Việt Nam chạy theo giặc làm tay sai cho chúng trở lại hại người Việt Nam. Đó là những kẻ cõng rắn cắn gà nhà mà lúc bấy giờ người ta gọi những người này là Việt gian.

Những người chiến đấu với giặc sinh tử cũng vậy có những người không chịu khó tu tập làm chủ sự sống chết, chỉ tu tập cho lấy có, thường thích sống chạy theo dục lạc thế gian, ăn ngủ phi thời, không chịu khó đi kinh hành, chỉ thích ngồi mà ngồi nhiều thì hôn trầm thùy miên vô kí sẽ tấn công, và như vậy họ ngồi giống như con gà mổ thóc. Do tâm niệm lười biếng này, có một số người trở lại chê Phật pháp. Cho Phật giáo là yếm thế tiêu cực, chớ họ đâu biết biết rằng Phật giáo là một tôn giáo tích cực trong cuộc sống để mang lại sự an vui cho mình cho người và tất cả chúng sinh.

Do hiểu biết những lời dạy của Đức Phật, chúng ta nên lưu ý qua các bài kinh mà Đức Phật giảng dạy, nhất là bài kinh Thân Hành Niệm được các Tỳ kheo trong thời Đức Phật khi gặp nhau thường ca ngợi pháp môn này hết mức:

“Thật vi diệu thay, chư Hiền giả! Thật hi hữu thay, chư Hiền giả! Thân Hành Niệm, khi được tu tập và làm cho sung mãn, có được quả lớn, có được công đức lớn, như đã được Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-La-Hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố.”

Khi chúng ta có tu tập mới thấy kết quả của pháp môn này thật là vi diệu, khiến cho hôn trầm, thùy miên, vô kí, ngoan không và loạn tưởng được dẹp sạch.

Bởi trong 13 pháp tu tập này, nếu chúng ta chọn lấy một pháp nào cho phù hợp với khả năng và đặc tướng của mình thì sự tu tập mới thấy kết quả ngay liền. Bằng không chọn kĩ sẽ tu tập sai pháp, sai đặc tướng và khả năng thì không có kết quả mà còn bị rối loạn hô hấp hay các cơ bắp, sinh ra đau nhức hay mệt mỏi và nhiều chứng bệnh khác nữa. Nhất là hôn trầm, thùy miên, vô kí lại tăng trưởng nhiều hơn. Cho nên tu tập không được tu tập quá sức, phải tu tập theo thời khóa biểu của người mới vào tu viện tu tập, không nên tu tập theo những người tu tập lâu năm. Tu tập không nên tranh hơn thua với bất cứ một người nào cả mà phải tu tập trong khả năng của mình, nhất là không nên tự tăng giờ tu tập theo ý muốn của mình, không nên tự kiến giải ra cách thức tu tập mà phải theo kinh nghiệm của người đã tu tập trước làm chủ sinh, già, bệnh, chết.

Pháp môn Thân Hành Niệm là một pháp môn đệ nhất phải giải thoát trong các pháp môn của Phật giáo, tu là có kết quả ngay liền nên Đức Phật dạy:

“Pháp Ta không có thời gian, đến để mà thấy.”

Vì vậy, pháp tu tập có kết quả ngay liền thì phải thưa hỏi kĩ lưỡng từng hành động tu  rồi mới tu. Pháp môn Thân Hành Niệm tuyệt vời trong lộ trình tu tập giải thoát. Vì vậy xin quí vị vui lòng cẩn thận, khi muốn tu tập pháp môn Thân Hành Niệm:

- Điều thứ nhất, quí vị nên chọn cho mình một vị thầy đã tu chứng đạo.

- Điều thứ hai, quí vị nên xin thân cận với người thiện hữu tri thức này.

- Điều thứ ba, mỗi hành động trước khi được tu tập đều được trình lên cho thiện hữu tri thức biết.

- Điều thứ tư, khi tu tập có kết quả hay không kết quả đều thưa hỏi kĩ lại với người thiện hữu tri thức.

- Điều thứ năm, khi tu tập có chướng ngại pháp gì đều phải thưa trình với người thiện hữu tri thức.

- Điều thứ sáu, khi tu tập có kết quả tốt đẹp nào thì cũng nên thưa trình với người thiện hữu tri thức.

- Điều thứ bảy, khi người thiện hữu dạy như thế nào thì tu tập như thế nấy, đừng nên tự kiến giải ra pháp tu hành mới mà lọt vào tà thiền của ngoại đạo.

- Điều thứ tám, lấy người thiện hữu làm thước đo sự tu tập của mình, đừng tự mãn cho mình tu là đúng, trong khi tu tập sai mình không thể nào biết mình tu sai mà chỉ có người thiện hữu tri thức mới biết mình tu sai.

- Điều thứ chín, khi mình tu tập sai mà người thiện hữu dạy mình sửa thì nên sửa ngay liền, không nên tu tập theo lối cũ mà phải tu tập theo người thiện hữu tri thức hướng dẫn.

– Điều thứ mười, khi tu tập chỉ cần tu hành đúng pháp, đừng cầu mong phải đạt pháp này pháp kia, nhất là đừng ngồi thiền nhập định một hai giờ hoặc biết chuyện quá khứ vị lai hoặc thị hiện thần thông biến hóa tàng hình, v.v… Trong khi tu hành chỉ cần biết tâm mình Bất Động hay đang Bị Động là đủ sức tỉnh giác làm chủ thân tâm mình.

Trước khi tu tập mình phải hiểu rõ thế nào là tâm Bất Động và như thế nào là tâm Bị Động?

Một người đang giữ gìn Tâm Bất Động, có người nói xấu hoặc chửi mắng mình. Mình nghe thấy không sót một lời nói nào nhưng mình vẫn thản nhiên, đó là tâm Bất Động. Tâm Bất Động là pháp giải thoát thực tế và cụ thể của Phật giáo mà Đức Phật thường dạy chúng ta tu tập: “Pháp Ta không có thời gian, đến để mà thấy.”

Thật là pháp giải thoát tuyệt vời và vi diệu, người nào tu tập có giải thoát ngay liền. Bởi vậy người có đầy đủ phước duyên mới gặp được chánh pháp này. Nếu gặp Chánh pháp này thì phải nói, đó là người đã gieo căn lành nhiều đời nên đời này mới gặp được Chánh pháp giải thoát của Phật như vậy.

Chúng ta hãy nhìn xem những người gặp được Chánh pháp và tu tập theo Phật giáo thì giống như một hạt nước của biển cả, còn những người chưa gặp Chánh pháp của Phật như cát sa mạc trùng trùng lớp lớp không biết bao nhiêu người kể sao cho hết.

Người giữ gìn được tâm Bất Động thì khổ đau biến mất, chỉ còn lại sự thanh thản, an lạc và vô sự trong tâm. Đó là cảnh giới Cực Lạc, Thiên Đàng mở cửa. Và như vậy cảnh giới Thiên Đàng và Cực Lạc không có ở trên Trời, cũng không có ở trong cõi Phật mà chỉở trong lòng con người.

Ngược lại người nào không muốn giải thoát lìa Tâm Bất Động thì ngay đó tâm tham lam, sân, si, giận hờn, phiền não nổi lên ngút ngàn, v.v…

Từ chỗ tâm tham, sân, si, mạn, nghi không làm chủ được nó thì muôn ngàn ác pháp bên ngoài tấn công vào thân tâm khiến tâm Bị Động. Khi tâm Bị Động thì chúng ta phải chịu biết bao nhiêu sự khổ đau. Và vì thế chúng ta đã rơi xuống các tầng địa ngục.

Cho nên địa ngục không phải ở bên ngoài hay dưới lòng đất mà ở ngay trong tâm của mọi người. Do hiểu biết như vậy nên Đức Phật dạy chúng ta hãy giữ gìn Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự.

Đối với Phật pháp chúng ta không tu tập thì không có giải thoát, mà hễ có tu tập là có giải thoát ngay liền. Pháp của Phật là pháp rất thực tế, cụ thể như vậy, nên chúng tôi xin khuyên quí vị hãy lo tu tập cứu mình trong biển khổ sinh tử luân hồi.

Nhất là các pháp trong thế gian này đều vô thường nó sẽ không chờ đợi một ai. Hôm nay chúng ta còn gặp nhau, nhưng ngày mai hay vĩnh viễn chúng ta sẽ không còn bao giờ gặp nhau nữa.

Do biết các pháp vô thường như vậy, nên trong cuộc sống chúng ta hãy thương yêu nhau hơn, đừng tìm cách hại nhau mà nhân quả không tha thứ cho một ai, nếu thời tiết nhân duyên đến thì có trốn đâu cũng không khỏi.


Page 18

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NLGPD, tập 4, TG. 2010, tr. 339-348)
link sách: NLGPD, tập 4

LỜI PHẬT DẠY

1- Thân thường thể hiện hạnh từ bi.

2- Miệng thường nói lời nhân từ.

3- Ý thường tâm niệm thương xót, không ôm lòng thù hận thêm bớt.

4- Chỉ nhận sự cúng dường vừa đủ.

5- Giữ gìn giới của Thánh hiền không tổn khuyết.

6- Nhận đạo Thánh hiền quyết dứt hết gốc khổ.

CHÚ GIẢI:

Ðức Phật dạy: “Thân thường thể hiện hạnh từ bi”. Lời dạy này đức Phật thường nhắc nhở chúng ta mỗi hành động nơi thân đều thể hiện lòng yêu thương sự sống của muôn loài. Vì thế, người đệ tử của Phật dù cư sĩ hay tu sĩ đều phải sống giữ gìn từng mỗi hành động của thân mình, làm bất cứ một việc gì đều phải cẩn thận, ý tứ, tỉnh thức để tránh những hành động vô tình hay hữu ý làm tổn thương đau khổ tất cả những loài vật đang sống quanh chúng ta. Vạn vật và chúng ta đang sống trên hành tinh này đều sinh ra từ một môi trường sống, cùng lớn lên trong môi trường ấy, nên chúng ta phải yêu thương nhau như anh em trong một nhà cùng cha cùng mẹ. Muốn được lòng yêu thương ấy đối với tất cả mọi người mọi loài trên hành tinh này thì chúng ta thường tác ý nhắc tâm: “Thân thường thể hiện hạnh từ bi, thân không được làm điều ác luôn luôn phải thực hiện điều thiện, phải chánh niệm tỉnh giác trong từng hành động, tránh làm đau khổ mình, đau khổ người và đau khổ các loài vật khác”. Khi nhắc tâm như vậy chúng ta thấm nhuần hạnh từ bi và tâm rất tỉnh thức. Nhờ đó cuộc sống của chúng ta lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự.

Nếu chúng ta quyết tâm thân thường thể hiện hạnh từ bi thì phải suy tư cho cặn kẽ về sự sống của muôn loài thì chúng ta hiểu rằng: “Tất cả những loài vật đang sống trên hành tinh này đều là anh em, chị em cùng cha, cùng mẹ chung trong một nhà nhân quả’’ như đã nói ở trên, chứ đâu phải vạn vật trên hành tinh này là xa lạ. Nhưng khi sinh ra, tùy theo duyên hợp mà có sự sai khác hình hài, tính tình. Do đó, chúng ta lầm chấp, phân chia ra nhiều loài khác nhau, rồi lại ăn thịt lẫn nhau, “con vật lớn giết con vật nhỏ, người mạnh ăn hiếp người yếu”. Vì thế, đức Phật thường răn nhắc chúng ta: “Thân thường thể hiện hạnh từ bi”.

Thân thường thể hiện hạnh từ bi, tức là thân thường hành động không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh. Nhất là không bao giờ ăn thịt lẫn nhau thì mới gọi là thân thường thể hiện hạnh từ bi.

Theo đúng như lời Phật đã dạy: “Thân thường thể hiện hạnh từ bi” tức là mỗi hành động phải thực hiện lòng yêu thương sự sống của muôn loài trên hành tinh này thì cuộc đời này sẽ hạnh phúc biết bao! Thế gian này là thiên đàng, cực lạc. Có đúng như vậy không quý vị?

Ðức Phật dạy: “Miệng thường nói lời nhân từ”. Vậy nói lời nhân từ như thế nào? Muốn hiểu rõ câu này thì nên hiểu hai chữ NHÂN TỪ. Vậy nhân từ là gì?

Nhân là con người; từ là lòng yêu thương. Cho nên: “Miệng thường nói lời nhân từ”, tức là nói lời yêu thương đến với mọi người và với mọi loài chúng sanh. Lời nói yêu thương là lời ái ngữ. Lời nói ái ngữ là lời nói ôn tồn, nhã nhặn, êm dịu, thanh lịch, lịch sự có văn hóa nhẹ nhàng, an ủi mọi người, mọi loài vật khi gặp tai nạn, bệnh tật khổ đau hoặc những điều làm cho khiếp đảm, sợ hãi.

Sống trong cuộc đời này người người đối xử với nhau đều dùng lời nói nhân từ thì hạnh phúc biết bao; thì làm sao có thù hận, có tị hiềm, ganh ghét, v.v...

Lời nói dối là lời nói không thật, nói không đúng sự thật là lời nói không nhân từ, lời nói không có ái ngữ, lời nói làm mất lòng tin của mọi người.

Lời nói li gián là lời nói khiến cho mọi người sống không hòa hợp, không đoàn kết, khiến cho mọi người thù hận ganh ghét nhau, đó là lời nói không nhân từ, lời nói hung ác, lời nói gây chia rẽ, gây đau khổ cho người khác.

Lời nói thêu dệt là lời nói trau chuốt, là lời nói lừa đảo người khác, lời nói như vậy là lời nói không nhân từ, lời nói không ái ngữ, lời nói mà mọi người đều chê trách, lời nói ác khẩu, lời nói hung ác mà người có đạo đức không bao giờ chấp nhận. Lời nói hung dữ là lời nói chưởi mắng, mạ lị, mạt sát, hăm dọa, dọa nạt người, làm cho người khác khiếp đảm sợ hãi. Ðó là những lời nói không nhân từ, không ái ngữ, ác khẩu, lời nói hung ác mà người có đạo đức không bao giờ chấp nhận. Lời nói hung dữ là lời nói chưởi mắng, mạ lị, mạt sát, hăm dọa, dọa nạt người, làm cho người khác khiếp đảm sợ hãi. Ðó là những lời nói không nhân từ, không ái ngữ. Làm người, chúng ta nên tránh xa và từ bỏ nói những lời hung ác, kém văn hóa, không đạo đức, v.v... luôn luôn thực hiện lời nói nhân từ, lời nói ái ngữ. Trong cuộc đời này vì lòng tham lam vô độ nên con người sanh tâm ganh đua hơn thiệt, thấy ai hơn mình thì sanh tâm ganh ghét, tị hiềm thường thêm bớt nói xấu người, nói lời li gián gây chia rẽ người này với người kia. Cho nên, ý thường tâm niệm thương xót người khác tức là lòng “BI”. Lòng bi là lòng thương xót chúng sanh, khi thấy chúng sanh trong cơn hoạn nạn hay bệnh tật khổ đau hoặc đứng trước cái chết sắp đến, chúng ta không thể làm ngơ được.

Cho nên, chúng ta luôn nhớ lời Phật dạy: “Ý thường tâm niệm thương xót, không ôm lòng thù hận thêm bớt”. Ðó là một tâm niệm thiện, tâm niệm giải thoát, tâm niệm khiến mình và tất cả chúng sanh được an vui giải thoát, tâm niệm không làm khổ đau mình, người, cả hai và tất cả chúng sanh; tâm niệm không hận thù; tâm niệm buông xả tất cả các ác pháp; tâm niệm của người có lòng từ, bi, hỷ, xả. Ðó là một tâm niệm cao thượng, một tâm niệm của những bậc Thánh Hiền.

“Ý thường tâm niệm thương xót, không ôm lòng thù hận thêm bớt”. Lời dạy này chúng con xin hằng ngày ghi nhớ để sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh; để đền đáp ơn chư Phật; ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha. Ðó là một tâm niệm đẹp đẽ và cao thượng tuyệt vời mà làm người ai ai cũng cần phải tu học.

Ðức Phật dạy: “Chỉ nhận sự cúng dường vừa đủ”. Ðây là lời khuyên của đức Phật đối với những đệ tử xuất gia. Khi đi khất thực thì nhận sự cúng dường vừa đủ, không nên tham nhiều, không nên đòi hỏi món này, món kia, ai cho gì mình ăn nấy, dở ngon không cần, chỉ ăn để sống, sống để tu hành, chứ không phải sống để ăn. Sống để ăn tức là chạy theo dục lạc về ăn uống. Vì thế, ăn không phải cần ngon; ăn không để mập, để béo, để hưởng thụ tất cả dục lạc trên cõi đời này. Ăn như vậy thì giống như người thế gian. Ăn uống mà giống như người thế gian thì còn nghĩa lý gì là người tu sĩ Phật giáo. Phải không quý Phật tử?

Người tu sĩ Phật giáo ăn để sống như uống một thứ thuốc đắng để trị bệnh đói. Vì thế, người tu sĩ Phật giáo “Chỉ nhận sự cúng dường vừa đủ”. Ðó là lời khuyên của Phật đối với những người đệ tử của Ngài, để những tu sĩ này đều sống ly dục ly ác pháp; để những tu sĩ này luôn luôn sống trong hạnh thiểu dục tri túc; để những tu sĩ này luôn luôn sống đúng phạm hạnh. Nhất là để những tu sĩ đang tu tập tại tu viện Chơn Như hãy lấy câu này làm lời răn nhắc cho mình khi ăn uống cũng như khi đi khất thực “Chỉ nhận sự cúng dường vừa đủ”. Phật dạy như vậy xin tất cả tu sĩ Phật giáo dù ở các hệ phái Bắc tông như: Ðại thừa, Thiền tông, Mật tông, Tịnh độ tông, v.v...

Các hệ phái Nguyên thủy như: Nam tông, Khất sĩ phải lấy câu này làm phương châm, làm các câu tác ý tự kỷ ám thị hằng ngày để nhắc nhở tâm mình ít muốn biết đủ (thiểu dục tri túc). Nhờ đó giới luật mới nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào; nhờ đó tâm mới ly dục ly ác pháp; nhờ đó tâm mới thanh thản, an lạc và vô sự; nhờ đó con đường tu hành của Phật giáo ngày một thêm sáng lạng nhờ đó mới chứng đạt chân lí.

Ðức Phật dạy: “Giữ gìn giới của Thánh hiền không tổn khuyết”. Muốn hiểu lời dạy này, trước tiên chúng ta nên hiểu giới của Thánh Hiền là gì? Không tổn khuyết là gì?

Giới của Thánh Hiền gồm có: Ngũ giới cư sĩ, Bát quan trai giới cư sĩ, Thập thiện giới cư sĩ, Thập giới Sa Di tăng ni, 250 giới tỳ kheo tăng, 348 giới tỳ kheo ni, kinh Phạm Võng, kinh Sa Môn Quả, kinh Giáo Giới La Hầu La, v.v...

Không tổn khuyết là không sức mẻ; là không bẻ vụn giới; là không phạm những giới nhỏ nhặt.

Nghĩa của toàn bộ câu “Giữ gìn giới của Thánh hiền không tổn khuyết” là giữ gìn giới luật nghiêm nhặt không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Tại sao lại phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh như vậy? Vì giới luật là pháp môn ly dục ly ác pháp; vì giới luật là đức hạnh nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai; vì giới luật là pháp môn đầu tiên để tu tập thiền định. Nhờ giới luật Thánh Hiền mà chúng ta tu tập mới có đủ Tứ Thần Túc; nhờ có Tứ Thần Túc mới nhập Bốn thiền và thực hiện Tam minh; nhờ thế chúng ta mới làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi.

Giới luật Thánh Hiền lợi ích lớn như vậy, thế mà người tu sĩ thời nay tu theo Phật giáo mà phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, xem thường giới, vì thế mà phí bỏ một đời tu tập chẳng đạt được gì, uổng thay! uổng thay!!!

Ðức Phật dạy: “Nhận đạo Thánh hiền quyết dứt hết gốc khổ”. Muốn hiểu lời dạy này chúng ta phải hiểu các từ Thánh Hiền, gốc khổ. Vậy Thánh Hiền gốc khổ nghĩa là gì? Như chúng ta đã biết đạo Phật có một nền đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Vì thế, Thánh ở đây có nghĩa là người đã sống trọn vẹn đức hạnh nhân bản – nhân quả không làm khổ mình, khổ người; còn Hiền ở đây có nghĩa là người đang tập sống đạo đức nhân bản – nhân quả không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai.

Cho nên, lời dạy: “Nhận đạo Thánh hiền quyết dứt hết gốc khổ” tức là chấp nhận học tập và rèn luyện đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì tất cả khổ của loài người trên hành tinh này đều dứt hết. Lời dạy này rất đúng, nhưng có những người còn nghi ngờ nên tự hỏi. Tại sao vậy? Vì không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì còn đâu nỗi khổ nữa. Phải không thưa quý vị?

Lời dạy tuy ngắn gọn, nhưng rất đầy đủ ý nghĩa của đạo giải thoát. Nếu ai hiểu mà không làm đúng theo nghĩa này thì lời dạy chỉ là lời nói suông. Vì thế, lời nói của đức Phật chỉ có những người muốn thoát ra bốn nỗi khổ của kiếp làm người và những người chứng đạt chân lí thì mới hiểu được nghĩa lý giải thoát này.


Page 19

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NLGPD I, TG. 2010, tr. 91-95; 107-117; 160-164 )
link sách: NLGPD I,

LỜI PHẬT DẠY

1- Ngăn ác

2- Diệt ác pháp

3- Sanh thiện

4- Tăng trưởng thiện pháp

CHÚ GIẢI:

Ðó là lời dạy tu tập thiền định của Ðạo Phật, một thứ thiền định ly dục ly ác pháp để khắc phục tâm tham ưu của hành giả, để đi đến cứu cánh giải thoát hoàn toàn, làm chủ sanh già bệnh chết, và chấm dứt tái sanh luân hồi.

Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp là pháp môn “Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh Cần tức là Tấn Lực, là Ðịnh Tư Cụ, là giới hành của Ðạo Phật”.

Ðây là pháp môn vô lậu đệ nhất của Ðạo Phật. Khi một hành giả bước chân vào Ðạo Phật mà được sự hướng dẫn tu tập ngay liền pháp môn này, thì chắc chắn phải thấy kết quả giải thoát không có thời gian chờ đợi. Người được hướng dẫn pháp môn này là người có duyên phước đầy đủ với đạo giải thoát sâu xa nhiều đời.

Chúng tôi không đủ nhân duyên, nên khi bước chân vào chùa lúc tám tuổi đời, không được dạy tu hành theo pháp này, mà chỉ được Thầy Tổ dạy cho hai thời công phu chiều và khuya rồi học thêm ứng phú đạo tràng, đánh đẩu, trống, mõ để tụng kinh, niệm Phật, tụng niệm đám ma chay, cầu siêu, cầu an, làm tuần làm tự, cúng vong tiễn linh, cúng sao giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu cất nhà, dựng vợ, gả chồng, xây mồ mả và những lúc rảnh rang thì lần chuỗi niệm Phật lục tự Di Ðà, v.v... Làm được những việc này các Thầy Tổ cho đó là những công phu tu tập.

Ðến bây giờ, chúng tôi mới hiểu ra Thầy Tổ của chúng tôi chỉ dạy cho chúng tôi một cái nghề để sống như bao nhiêu nghề khác trong xã hội. Nhưng những nghề khác thì lương thiện, còn nghề của chúng tôi thì không lương thiện chút nào cả, nó là một nghề mê tín chuyên lừa đảo, dối gạt người để ngồi mát ăn bát vàng. Chúng tôi ở trong chùa hằng ngày mang mõ, chuông, đẩu đi tụng niệm đám ma này hết, đến đám ma khác, không tụng đám ma thì lại tụng kinh cầu an, cầu siêu, làm tuần, làm tự, v.v...

Quanh năm suốt tháng chúng tôi hành nghề này, thấy sao mà giả dối... chúng tôi suy tư nghĩ lại rất buồn khổ trong lòng nhưng không dám nói với ai, mà nếu hỏi đến các Thầy Tổ thì bị la rầy mắng và còn bảo rằng nói bậy sẽ bị đọa địa ngục.

Mãi đến khi chúng tôi được về thành phố vì chiến cuộc ở nông thôn bất an và được học thêm giáo lý của Ðạo Phật, chừng đó chúng tôi nghiên cứu về Thiền Tông thì thấy Thiền Tông hay quá, không dạy làm những điều mê tín, lừa đảo, mà chỉ dạy tu tập ức chế tâm cho hết vọng tưởng để thành Phật hoặc giữ tâm không niệm thiện niệm ác thì kiến tánh thành Phật. Càng nghiên cứu sách kinh Thiền Tông thì lại càng thích thú. Những lời nói và hành động của các Tổ sao mà hay quá, nhất là những công án Thiền Tông lại tạo cho chúng tôi có một sức tò mò ghê gớm, cứ nghĩ rằng Thiền Tông có một cái gì bí ẩn ghê lắm không thể dùng tri kiến, ý thức mà hiểu được. Khi thấu hiểu Thiền Tông như thế, chúng tôi đặt trọn lòng tin ở pháp môn này. Từ đó, chúng tôi bỏ hết toàn bộ cuộc đời, quyết tâm theo tu tập thiền do HT Thanh Từ hướng dẫn. Suốt chín năm trời tu tập, đem hết sức tu tập để ức chế tâm không cho vọng tưởng. Trong đầu, niệm thiện niệm ác vắng bặt từ giờ này đến giờ khác. Lúc bấy giờ có 18 loại hỷ tưởng hiện ra (có thể gọi đó là thần thông), nhưng nhìn lại cũng không tìm thấy sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết, tâm tham, sân, si vẫn còn. Cái đặc biệt nhất là loại thiền này khi hết vọng tưởng thì tuệ tưởng xuất hiện. Khi nó xuất hiện thì tất cả các công án đều thông suốt, thấy tánh thì rất rõ ràng vì mỗi khi động tay, động chân đều là Phật Tánh nơi đó, nhưng lại có tật thường dùng ngôn ngữ công án, vì thếnên thường xảy ra những cuộc tranh luận hơn thua, dù ai nói một điều gì thì chúng tôi cũng đều dùng công án đối đáp và vấn nạn họ. Thấy những hiện tượng lạ lùng như vậy, nên chúng tôi đành bỏ, dù khi ấy chúng tôi đã nhập được Thức Vô Biên Xứ Ðịnh.

Khi tu tập không tìm được sự giải thoát nơi kinh sách Ðại Thừa và Thiền Tông, chúng tôi phải tìm pháp môn khác. Sau này nhờ giới luật, chúng tôi học tập và rèn luyện sống đúng giới đức làm Người, làm Thánh của Phật giáo Nguyên Thủy. Trong khi sống đúng giới luật như vậy, chúng tôi tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần và dùng pháp hướng tâm Như Lý Tác Ý: “Ly dục, ly ác pháp, tâm như cục đất, ly tham, sân, si cho thật sạch”. Chính nhờ sống đúng giới luật và tu tập như vậy chúng tôi cảm thấy tâm mình thanh thản, an lạc và vô sự, ít phóng dật, thường thích sống độc cư một mình. Và cũng chính nhờ tu tập như vậy tâm chúng tôi hết tham, sân, si và thường ở trong một trạng thái tâm bất động, an lạc vô cùng, không thể diễn tả cho các bạn hiểu được vì đó là trạng thái ly dục ly bất thiện pháp.

Sau khi tu xong chúng tôi mới hiểu Giới Hành của Ðạo Phật không phải là pháp môn nào khác hơn là “Tứ Chánh Cần”. Tứ Chánh Cần là pháp môn ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp, chỉ có pháp môn này tu tập trên Tứ Niệm Xứ mà chúng tôi làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Do thế, đức Phật dạy:

“Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo”.

2.- THIỀN XẢ TÂM

LỜI PHẬT DẠY

“Giữ thân được nhẹ nhàng

Giữ tâm khéo giải thoát

Không còn các sở hành

Chánh niệm không tham trước

Biết rõ được chánh pháp

Không tầm tu thiền định

Không phẫn nộ vọng niệm

Không thuỳ miên giải đãi

Như vậy vị tu sĩ

Sống giữa nhiều chướng ngại

Ðã vượt năm bộc lưu

Lại gắng vượt thứ sáu

Như vậy tu thiền tư (xả)”

CHÚ GIẢI:

Trong thời đại chúng ta nói đến tu thiền thì ai cũng đều hiểu là phải ngồi bán già hay kiết già rồi tập trung gom tâm, giữ tâm không vọng tưởng. Như Tịnh Ðộ Tông trong kinh Di Ðà dạy: “Thất nhật nhất tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A Di Ðà Phật”, tức là bảy ngày đêm niệm Phật A Di Ðà không có niệm vọng tưởng xen vào câu niệm Phật thì khi lâm chung được đức Phật A Di Ðà rước về cõi Cực Lạc Tây phương. Thiền Tông trong kinh Pháp Bảo Ðàn dạy: “chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền” tức là kiến tánh thành Phật. Trong kinh sách Ðại Thừa Kim Cang dạy: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, có nghĩa là đừng nên trụ tâm vào bất cứ một chỗ nào thì tâm kia là Phật. Pháp An Ban Thủ Ý, Lục Diệu Pháp Môn của các Tổ dạy đều đếm hơi thở hoặc tùy hơi thở ra vô để ức chế tâm không cho vọng tưởng xen vào. Từ xưa cho đến ngày nay, người ta đã tu tập thiền ức chế tâm như vậy, nhưng kết quả không thấy ai giải thoát cả, chỉ huyền thoại những câu chuyện lừa đảo chúng ta mà thôi, cho nên một Thiền sư Việt Nam, Ngài Thường Chiếu nói về Thiền Ðông Ðộ, Ngài cho đó là bọn đại bịp, một con chó sủa một bầy chó sủa theo. Biết tu không kết quả nhưng chẳng có Thầy Tổ nào dám nói thật cho chúng ta biết. Ðến ngày nay, chúng ta vẫn còn chịu ảnh hưởng quá sâu đậm, nên ngồi lại tu thiền người nào cũng gom tâm tập trung, chỉ mong diệt sạch vọng tưởng. Ðó là một tập khí thói quen, mọi người không thể bỏ được. Ngược lại, Ðạo Phật dạy thiền xả tâm “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp”, chứ không phải ngồi bán già, kiết già ức chếtâm như vậy.

Qua bài kệ trên đây chúng tôi xin hỏi quý vị, quý vị cứ thành thật mà trả lời.

Khi ngồi bán già, hoặc kiết già mà cố chịu đựng khi hai chân bị đau hoặc tê hoặc nóng, đólà ác pháp hay là thiện pháp? Ðây có phải là tự mình làm khổ mình chăng?

Khi tập trung gom tâm đầu nặng hay nhức đầu mà cố kéo dài chịu trận, đây là thiện pháp hay là ác pháp? Ðây có phải tự mình làm khổ mình chăng?

Ðức Phật dạy ngăn ác diệt ác pháp mà tự làm khổ mình thì có ngăn ác diệt ác pháp không? Xin quý vị trả lời.

Trong bài kệ đức Phật dạy: “giữ thân được nhẹ nhàng”, tức là thân khinh an, thân khinh an ở đây thân có đau, tê, nóng không quý vị?

Câu kệ thứ hai: “giữ tâm khéo giải thoát”. Ở đây tâm hữu sự hay vô sự? Nếu bảo rằng vô sự thì sao tâm Thiền Tông, Ðại Thừa lại làm việc quá nhiều (gom tâm tập trung vào hơi thở, dùng câu niệm Phật, đi kinh hành, khởi nghi tình đến nỗi nặng đầu, v.v...). Khéo giữ tâm giải thoát có nghĩa là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Câu kệ thứ ba: “Không còn các sở hành”. Ở đây, chúng ta cần phải hiểu nghĩa sở hành. Vậy sở hành nghĩa là gì? Sở hành nghĩa là bản tính thói quen của một con người.

Khi tu tập khéo giữ gìn tâm bằng cách dùng ý thức tri kiến ly dục, ly ác pháp thì tâm sẽ được thanh thản, an lạc và vô sự. Do tâm được thanh thản, an lạc và vô sự, nên không còn các sở hành tức là thói quen không còn, hay nói cách khác là tập khí không còn.

Thiền Tông hay Ðại Thừa khi tu hành kiến tánh thành Phật rồi mà tâm tham, sân, si, mạn, nghi vẫn còn thì họ bảo rằng “Bồ Tát vẫn còn tập khí”. Ðó cũng là lời nói lừa mình, lừa người của kinh sách Ðại Thừa. Còn Phật giáo Nguyên Thủy thì đức Phật xác định “Không còn các sở hành”, tức là không còn tập khí (thói quen).

Câu kệ thứ tư: “Chánh niệm không tham trước”. Vậy tham trước nghĩa là gì? Tham trước có nghĩa là do tâm tham muốn dính mắc các pháp. Toàn câu kệ“Chánh niệm không tham trước” có nghĩa là tu tập Tứ Niệm Xứ nên tâm đã khắc phục được những tham ưu trên thân, thọ, tâm, và pháp. Nhờ đó,mà tâm không còn phóng dật.

Câu kệ thứ năm: “Biết rõ được chánh pháp”. Biết rõ được chánh pháp tức là biết cách tu tập của pháp Tứ Niệm Xứ.

Câu kệ thứ sáu: “Không tầm tu thiền định”. Ở đây đức Phật dạy: Biết cách tu tập của pháp Tứ Niệm Xứ thì không cần phải đitìm pháp tu tập thiền định nào khác nữa.

Câu kệ thứ bảy: “Không phẫn nộ vọng niệm”. Người tu tập theo thiền xả tâm của Tứ Niệm Xứ thì vọng niệm đến càng tốt, vì có đối tượng dùng pháp tác ý trong chánh tư duy. Nhờ có tu tập như vậy tri kiến giải thoát sẽ hiện bày. Do tri kiến giải thoát hiện bày thì sởhành và tham trước không còn. Sở hành và tham trước không còn thì tâm không phóng dật; tâm không phóng dật thì thành chánh giác. “NhờTâm không phóng dật mà Ta thành Chánh Giác”, đây là lời di chúc của đức Phật đã xác định lúc sắp nhập Niết bàn.

Người tu hành hiện nay ngồi hoặc đi kinh hành thấy không vọng niệm là cho mình tu tập có kết quả tốt, còn có vọng niệm xen vào là cho tu tập xấu, không tốt. Ðó là một quan niệm hết sức sai lầm trong vấn đề tu tập để làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Ðối với Phật giáo thì vọng niệm là một đối tượng để tu tập Ðịnh Vô Lậu. Có tu tập Ðịnh Vô Lậu thì mới chứng quả A La Hán vô lậu. Phải không các bạn?

Bởi vậy câu kệ dạy: “Không phẫn nộ vọng niệm” xác định được pháp tu không ức chế tâm. Xin các bạn lưu ý câu kệ này, nó giúp các bạn tu tập đúng pháp.

Câu kệ thứ tám: “Không thuỳ miên giải đãi”. Vậy thuỳ miên, giải đãi nghĩa là gì? Thùy miên là buồn ngủ; giải đãi là lười biếng. Khi biết cách tu tập Tứ Niệm Xứ thì phải thiện xảo phá cho sạch buồn ngủ và lười biếng, vì trạng thái buồn ngủ và lười biếng thuộc về tâm si nên rất khó dẹp, phải kiên trì, bền chí đi kinh hành Chánh Niệm tỉnh giác hoặc tu tập pháp môn Thân Hành Niệm thì mới có hy vọng dẹp bỏ được.

Câu kệ thứ chín: “Như vậy vị tu sĩ”. Câu này đức Phật xác định nếu vị tu sĩ tu tập được như trên, thì dù bất cứ ở nơi đâu chẳng còn lo sợ các ác pháp, vì tu tập như vậy thì không có ác pháp nào tác động vào tâm được, tâm luôn luôn bất động.

Câu kệ thứ mười: “Sống giữa nhiều chướng ngại”. Câu này lại chỉ rõ hơn, không còn sợ chướng ngại nào tác động vào tâm tư họ được, có nghĩa là người tu sĩ tu tập được như vậy dù sống giữa nhiều chướng ngại pháp mà tâm vẫn thanh thản, an lạc và vô sự một cách tự nhiên.

Câu kệ thứ mười một: “Ðã vượt năm bộc lưu”. Khi người tu sĩ tu tập như vậy, dù sống giữa nhiều chướng ngại mà tâm vẫn bất động, đó là đã vượt những bộc lưu. Chúng ta cần phải hiểu nghĩa bộc lưu trong câu kệ thứ mười. Vậy bộc lưu là gì? Bộc lưu là dòng thác. Ở đây có năm bộc lưu, tức là năm dòng thác:

1- Dục bộc lưu

2- Hữu bộc lưu

3- Kiến bộc lưu

4- Vô minh bộc lưu

5- Ái bộc lưu.

Bộc lưu là dòng thác; dòng thác là chỉ cho sức mạnh của nước từ trên cao đổ xuống khó có ai vượt qua. Như vậy, người tu sĩ Ðạo Phật phải vượt qua năm dòng thác này mới tìm thấy sự chân thật giải thoát. Vậy nghĩa của năm dòng thác này là gì?

  • Dục bộc lưu: là dòng thác dục tức là sức mạnh của lòng tham muốn
  • Hữu bộc lưu: là dòng thác của các vật sở hữu tức là sức mạnh dính mắc của các vật sở hữu
  • Kiến bộc lưu: là dòng thác kiến chấp tức là sức mạnh của kiến chấp
  • Vô minh bộc lưu: là dòng thác ngu si không thấy như thật các pháp tức là sức mạnh của ngu si khiến cho chúng ta thấy các pháp không như thật
  • Ái bộc lưu: là dòng thác thất tình: hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục tức là sức mạnh của bảy thứ tình, người tầm thường không thể vượt qua được

Khi vượt qua năm bộc lưu này còn chưa đủ giải thoát rốt ráo, nên đức Phật dạy câu kệ thứ mười hai: “Lại gắng vượt thứ sáu”.

Câu kệ này xác định người tu sĩ phải vượt qua sáu bộc lưu. Vậy bộc lưu thứ sáu là gì? Bộc lưu thứ sáu là tưởng bộc lưu, tưởng bộc lưu là dòng thác tưởng tức là sức mạnh của tưởng dục (tưởng lực). Tưởng dục gồm có 18 loại hỷ tưởng và bốn định vô sắc, bốn định vô sắc gồm có: Không Vô Biên Xứ Tưởng, Thức Vô Biên Xứ Tưởng, Vô Sở Hữu Xứ Tưởng, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

Người vượt qua được sáu bộc lưu này là do tu thiền quán tức là Ðịnh Vô Lậu, chứ không phải thiền ức chế tâm cho hết vọng tưởng. Vì thế, đến câu kệ thứ mười ba đức Phật đã xác định cho chúng ta thấy: “Như vậy tu thiền tư”. Tu như vậy tức là tu thiền tư. Vậy thiền tư là gì? Thiền tư là thiền quán, quán bằng ý thức tri kiến. Thiền tư còn gọi là Ðịnh Vô Lậu, là thiền xả tâm, tu tập bằng sự tư duy quán xét.

Thiền tư phải tu tập bằng ý thức để ly dục ly ác pháp. Muốn tu tập Thiền tư thì phải dùng Ðịnh Vô Lậu, Ðịnh sáng suốt, Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác, Ðịnh Niệm Hơi Thở, Tứ Niệm Xứ, Thân Hành Niệm và pháp Như Lý Tác Ý.

Tóm lại, thiền xả tâm là một thứ thiền tu hành bất cứ trong oai nghi nào cũng đều giữ gìn thân được khinh an, an lạc và tâm được thanh thản và vô sự.

Thiền xả tâm là một thứ thiền, tu hành có giải thoát ngay liền, càng tu càng thấy thân tâm nhẹ nhàng, an ổn, sống một đời sống trọn đầy đạo đức làm người, không làm khổ mình, khổ người và cũng không làm nhữngđiều mê tín, lừa đảo người khác.

Xin quý vị đọc lại bài kệ thiền xả tâm của đức Phật trên đây rồi suy tư từng câuđã giảng thì quý vị sẽ rõ và không còn nghi ngờ gì nữa.

3.- TRÍ NGU

LỜI PHẬT DẠY

“Người ngu nghĩ mình ngu
Nhờ vậy thành có trí
Người ngu tưởng có trí
Thật xứng gọi chí ngu”.
Kinh Pháp Cú, 63

CHÚ GIẢI:

Con người ở đời thường hay thấy cái sai của người khác, ít khi thấy cái sai của mình. Ðó là những người ngu.

Người ngu thường hay nói xấu người khác và hay khoe khoang cái hay (ngu) của mình. Ở tu viện Chơn Như có một số người về đây tu tập, tu hành chưa tới đâu mà vội hội họp nói chuyện khoe khoang mình tu được thế này, thế khác, thậm chí có người còn khoe khoang mình nhập Tam Thiền, Tứ Thiền ... Rồi khoe khoang mình có đến 6, 7 cái Giác Chi ... Nếu có 6, 7 cái Giác Chi, thế sao đến bây giờ chưa nhập được Sơ Thiền? Ăn, ngủ, độc cư còn chưa giữ trọn vẹn,… hễ có chuyện gì không vừa ý là tức giận rồi xách gói ra đi... Vừa rồi có một người tu tập ở đây 3, 4 năm sống không đúng Phạm hạnh bị tu viện mời ra khỏi. Khi trở về thăm tu viện tuyên bố đã nhập được từ Sơ Thiền đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, nhưng xét qua giới luật là người sống phi Phạm hạnh, phá giới, phạm giới, đi đâu cũng có vợ con đi theo hộ tống thế mà bốn thiền hữu sắc và bốn định vô sắc đều nhập được cả. Như vậy các bạn có tin không?

Xét qua giới luật thì biết ngay người ấy nhập định được hay không rất dễ dàng. Mọi người cứ nghĩ rằng thiền định của Ðạo Phật không có tiêu chuẩn để xét duyệt hay sao? Dám tuyên bố một cách bừa bãi như vậy? Tưởng chưa có ai nhập các định này sao? Ðừng khinh rẻ mọi người thái quá. Nói như vậy, người ta không biết mình nói láo sao? Khi mình chưa nhập định được, nói như vậy là làm mất uy tín các bạn ạ! Nói như vậy là tự giết mình.

Những người mê mờ dám khoe khoang một điều mình chưa làm được với những người chưa biết, chưa tu, chứ những người đã biết đã nhập định thì đâu dễ gì lường gạt họ được.

Kinh sách Nguyên Thủy của Phật giáo đã xác định tiêu chuẩn và phương pháp nhập định như thế nào rất rõ ràng, tại sao các bạn không chịu khó nghiên cứu, để không bị những người háo danh lừa đảo. Cho nên, đức Phật dạy: “Nếu tu tập có đạo lý gì thì không được nói ra, chỉ nói ra khi thấy mình có lỗi lầm để phát lồ sám hối ăn năn chừa bỏ không tái phạm lại nữa”. Ðó là những điều đức Phật nhắc nhở chúng ta hằng ngày. Bởi vậy, kinh Pháp Cú dạy:

“Mình ngu nghĩ mình ngu
Nhờ vậy thành có trí”.

Ðúng vậy, hằng ngày chúng ta nên xét lại mình thấy có những điều làm cho mình khổ, làm cho người khác khổ thì hãy mau ngăn chặn và diệt chúng cho tận gốc, bằng cách tư duy quán xét. Và phải luôn luôn xấu hổ khi có một hành động, một lời nói hay một ý nghĩ làm cho mình khổ, làm cho người khác khổ hay tất cả chúng sanh khổ thì phải hối hận ăn năn từ bỏ.

Người biết tu tập những việc này là người biết mình ngu tức là người có trí đấy các bạn ạ!

Trong cuộc đời tu hành theo Phật giáo chỉ có trầm tư suy nghĩ tìm cái ngu của mình để lần lần khắc phục sửa sai những lỗi lầm. Ðấy là người có trí các bạn ạ.

Còn ngược lại, người ngu mà không biết mình ngu là người rất ngu. Tất cả các pháp trên thế gian này đều vô thường, không có vật gì thường hằng bất biến, không có vật gì là mình, là của mình, thế mà cứ lầm chấp là mình, là của mình. Do sự lầm chấp như vậy, mà lao đầu vào chốn dầu sôi nước bỏng để chịu lấy những sự khổ đau bất tận cũng giống như loài thiêu thân lăn mình vào ánh sáng của ngọn đèn. Ðó là những người ngu mà không biết mình ngu. Còn biết bao nhiêu sự ngu trong thế gian này nữa, như người chết là tan hoại hết không có tàn dư một chút xíu thức nào cả.

Vậy mà, từ trong các tôn giáo cho đến những người có học thức cùng những người không học thức, đều cho rằng người chết còn có linh hồn bất diệt, nên từ đó họ bỏ tiền bạc tiêu hao về vấn đề này một cách nhảm nhí rất đáng thương. Họ thường cầu siêu, đốt tiền, vàng mã... cho người chết, họ làm những điều mê tín lạc hậu. Ðó là những người ngu mà không biết mình ngu, thật là người chí ngu đáng thương vậy.

Thưa các bạn! Những điều chúng tôi vừa nói trên đây, có lẽ là lời nói quá thẳng thắn, dùng chữ ngu si quá nặng nề, khiến cho các bạn tự ái không vui lòng. Có phải vậy không các bạn? Xin các bạn vui lòng tha thứ cho. Nếu không dùng lời nói thẳng thiếu văn hóa, kém lịch sự như vậy thì mọi người cứ nghĩ mình là người khôn ngoan, thì tệ nạn mê tín lại còn tệ hại hơn nữa.

Xin các bạn cứ suy ngẫm lại thì xét thấy lời nói thẳng của chúng tôi là một lời chân thật, đầy lòng yêu thương của chúng tôi gửi đến các bạn, để trên đời này chúng ta không còn là người ngu nữa. Phải không hỡi các bạn?


Page 20

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích Lòng Yêu Thương, tập 1, TG. 2009, tr. 07-12)
link sách: Lòng Yêu Thương, tập 1

Trong cuộc sống hằng ngày, con người đối xử với con người bằng lòng yêu thương thì thế gian này là Thiên đàng, Cực lạc.

Nếu trên thế giới mọi người đều biết yêu thương nhau thì thế giới đâu còn chiến tranh, xã hội đâu còn có tranh chấp và gia đình đâu còn có cãi cọ hơn thua.

Cho nên, lòng yêu thương rất quan trọng đối với cuộc sống của con người, hơn ngàn vàng. LÒNG YÊU THƯƠNG không thể đổi bằng tiền bạc, của cải tài sản mà phải bằng cả trái tim; bằng cả một tâm hồn chân thật.

Bởi vậy, “Nơi Trở Về” của mọi người không phải là nơi giàu sang, danh lợi, tiền bạc, của cải, ruộng đất nhiều mà nơi LÒNG YÊU THƯƠNG. Chỉ có lòng yêu thương chân thật mới là nơi trở về của mọi người:

“Một cô bé mồ côi cha mẹ sống cùng bà ngoại trong một căn phòng nhỏ trên gác.

Một đêm, căn nhà bỗng bốc cháy và người bà đã thiệt mạng trong khi cố gắng cứu cháu gái của mình. Ngọn lửa lan nhanh, và cả tầng trệt của căn nhà nhanh chóng chìm vào biển lửa.

Những người hàng xóm gọi điện cho đội cứu hỏa, rồi đứng đó nhìn trong vô vọng, mà không thể xông vào nhà bởi ngọn lửa đã chặn kín mọi lối vào. Cô bé tuyệt vọng kêu khóc cầu cứu bên cửa sổ trên gác. Lúc ấy, trong đám đông lại có tin đồn rằng: “lực lượng cứu hỏa sẽ đến chậm vài phút vì họ đang bận chữa cháy ở nơi khác”.

Ðột nhiên người đàn ông xuất hiện cùng với chiếc thang. Ông dựng chiếc thang tựa vào chiếc tường của ngôi nhà, rồi nhanh chóng tiến vào bên trong. Và ông trở ra với cô bé ở trên tay mình. Ông trao cô bé cho những người đang dang tay chờ bên dưới rồi mất hút vào màn đêm.

Mọi người điều tra và thấy rằng cô bé chẳng còn người thân nào cả. Vài tuần sau, một cuộc họp được tổ chức để quyết định xem ai là người sẽ chăm sóc và nuôi nấng cô bé.

Một cô giáo muốn nhận nuôi cô bé. Cô đưa ra lý do rằng mình có thể bảo đảm cho em một nền giáo dục tốt. Một người nông dân nhận chăm sóc cô bé, vì ông cho rằng cô bé sẽ khỏe mạnh và thoải mái khi được sống ở nông trại. Những người khác cũng đưa ra những lý do thuận lợi để được nhận nuôi cô bé. Cuối cùng, một người dân giàu có nhất thị trấn đứng dậy và nói: “Tôi có thể mang đến cho cô bé này tất cả những điều kiện thuận lợi mà mọi người vừa đề cập, cộng với tiền bạc và tất cả những gì mà tiền có thể mua được”.

Trong suốt buổi thảo luận, cô bé vẫn im lặng, mắt nhìn xuống sàn nhà.

“Còn ai có ý kiến gì khác nữa không?” Ông chủ tịch lên tiếng.

Một người đàn ông từ cuối phòng bước lên phía trước. Bước đi của ông chậm chạp và có vẻ đau đớn. Khi đã đến trước mặt mọi người, ông bước thẳng đến chỗ cô bé và đưa đôi bàn tay ra. Mọi người vô cùng kinh ngạc. Bàn tay và cả hai cánh tay của ông đều bị phỏng trầm trọng.

Cô bé òa khóc:

“Ðây chính là người đã cứu cháu!”

Rồi cô bé quàng tay quanh cổngười đàn ông, như đang giữ chặt lấy cuộc sống thân thương, như em đã làm trong cái đêm định mệnh ấy. Rồi cô bé gục đầu vào vai ngườiđàn ông và khóc nức nở trong giây lát. Sau đó, em ngước nhìn lên và mỉm cười với ông. “Cuộc họp đến đây là kết thúc”, người chủ tọa tuyên bố”.

Khuyết Danh

Câu chuyện tuy đơn sơ, nhưng bằng những giọt nước mắt yêu thương mà không ai cầm được xúc động. Vì lòng yêu thương ông mới xông vào nhà lửa để cứu cháu bé thoát nạn, vì lòng yêu thương mà cháu bé chờ người đã cứu mình trong lửa đỏ và cuối cùng họ lại gặp nhau trong lòng yêu thương.

“Nơi Trở Về” đã khiến cho nhiều người phải rơi nước mắt trước LÒNG YÊU THƯƠNG không thể diễn tả bằng lời mà bằng trái tim của con người. Ðúng vậy, người đàn ông cứu cháu bé bằng trái tim yêu thương, và cháu bé chỉ nhận lòng yêu thương ấy bằng trái tim yêu thương của mình. Chúng ta đừng hiểu trái tim yêu thương chỉ có trai gái mới dùng danh từ này. Ðấy là hiểu một cách không cao thượng, không trong sạch, còn phàm phu tục tử, tâm còn bị chi phối giữa nam và nữ, tâm không có lối thoát ra khỏi tình nhục dục thấp hèn. Cho nên, hiện giờ nói đến lòng yêu thương từ trái tim thì mọi người đã hiểu lòng yêu thương từ trái tim một cách sai lầm. Trái tim yêu thương ở đây là lòng yêu thương chân thật từ trong tận đáy lòng sâu thẳm của con người.

Trên đời không có một vật gì đánh đổi LÒNG YÊU THƯƠNG được, dù tiền của, vàng bạc, ngọc ngà, châu báu như núi, như rừng cũng không đánh đổi được nó.

Trong cuộc đời chúng ta thường thấy, những người giả dối hay mượn lòng yêu thương để lợi dụng nhau. Nói yêu thương là để lợi dụng công sức của người khác; nói yêu thương là để chiếm đoạt tiền bạc, của cải, tài sản, ruộng vườn, đất đai; nói yêu thương là để lợi dụng tình dục, nói yêu thương là để lợi dụng bằng mọi thứ khác nữa. Khi lợi dụng những người khác được như vậy, để rồi họ giữ gìn được những gì?

Tất cả những gì trên thế gian này đều vô thường, ngay cả bản thân của mình còn giữ gìn không được thay, huống là những vật gì khác.

Hiện giờ chúng ta đang sống trong điên đảo tưởng nên chạy theo ảo ảnh, dục vọng của các pháp thế gian, để rồi tự chuốc lấy toàn những sự khổ đau. Có phải vậy không quý vị?

Ai cũng biết các pháp đều vô thường, đó là một sự thật đương nhiên, không ai dám phủ nhận lời nói này. Nhưng tại sao chúng ta cả tin đến nỗi mù quáng không thấy các pháp vô thường như thật, để đem sự sống cao quý của mình chạy theo ảo ảnh mà thọ lấy muôn ngàn sự khổ đau.

Trên thế gian này các pháp đều vô thường, nhưng có một pháp không vô thường, nó đang ngự trị trong lòng của chúng ta, nó mãi mãi không bao giờ mất. Vậy quý vị có biết nó là pháp gì không?

Ðó là lòng yêu thương của chúng ta đấy quý vị ạ! LÒNG YÊU THƯƠNG hơn tất cả mọi thứ trên đời, nó là một sức mạnh vô biên mà cuộc sống của con người không thể thiếu được. Nếu ai biết trao tặng lòng yêu thương của mình là biết đem lại sự bình an, yên vui, hạnh phúc cho mình, cho người khác.


Page 21

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP, tập 8, TG.2011, tr.280-302)
link sách: ĐVXP, tập 8

Hỏi: Kính thưa Thầy cho con được hỏi:

1. Theo bài báo này thì chuyện tái sanh của một người từ hành tinh khác tương ưng với Cha Mẹ trên trái đất vẫn có khả năng phải không thưa Thầy?

2. Tại sao đứa bé có khả năng nói những chuyện về các hành tinh khác trong vũ trụ và sự thật là trên sao Hỏa có sự sống không hay chỉ là một hành tinh chết thưa Thầy?

3. Những lời tiên tri của em bé về tương lai năm 2009 và 2013 có thể tin được điều này không?

4. Ý thức về các hành động xấu mà em bé biết rõ hậu quả của các hành động đó do đâu mà có vì em là một người chưa hề biết gì về đạo đức nhân bản - nhân quả?

5. Những vầng hào quang sáng xung quanh của một người có liên quan đến từ trường thiện và từ trướng ác hay không?

Kính xin Thầy khai thị cho chúng con được sáng tỏ. Nếu những câu hỏi của chúng con chỉ vì tò mò mà không có lợi ích thì xin Thầy tha lỗi cho chúng con. Chúng con xin thành kính cảm ơn Thầy

Ðáp:

Muốn trả lời những câu hỏi này của con và để mọi người cùng hiểu cho rõ ràng và cụ thể thì xin quý vị vui lòng đọc lại câu chuyện “Boriska – cậu bé từ sao Hỏa”.

Câu chuyện cậu bé từ sao Hỏa đã làm dư luận thế giới xôn xao. Chính vì thế mà chúng tôi có được những câu hỏi về cậu bé từ sao Hỏa, nếu không trả lời là phụ lòng mong đợi của mọi người. Và trả lời là vạch rõ cho mọi người biết tưởng uẩn trong mọi con người thật là kinh khủng, nó tạo ra thế giới siêu hình cũng giỏi, lý luận triết lý rất tuyệt vời, tạo ra thần thông phóng hào quang biết chuyện quá khứ, tiên tri chuyện tương lai thì ai cũng phải tin. Cho nên, quý vị hãy đọc thật kỹ câu chuyện về “Boriska - cậu bé từ sao Hỏa” để nghe những câu trả lời của chúng tôi: “Boriska sẵn sàng nói với các vị khách về những nền văn minh ngoài trái đất; về sự tồn tại của các chủng tộc loài người cổ, có chiều cao đến 3m, về khí hậu tương lai và những thay đổi toàn cầu...

Ngày 11/1/1996, một bé trai khác thường đã ra đời tại thành phố nhỏ Volzhsky, vùng Volgograd của Nga. Bà Nadezhda Kipriyanovich hạ sinh cậu bé vào một buổi sáng đẹp trời. “Tất cả diễn ra một cách nhanh chóng và tôi không cảm thấy đau đớn gì cả. Khi các nữ hộ sinh cho tôi xem đứa bé, nó nhìn tôi với ánh mắt của một người lớn. Là bác sĩ khoa Nhi, tôi biết rằng trẻ sơ sinh không thể tập trung ánh nhìn như thế. Nhưng đứa con của tôi nhìn tôi với cặp mắt nâu mở to. Ngoài điều đó ra, nó là một đứa bé bình thường như bao đứa bé khác”, bà nhớ lại.

Khi hai mẹ con từ bệnh viện phụ sản về, bà bắt đầu chú ý đến những điều kỳ lạ ở cậu con. Ðứa bé được đặt tên là Boris, hiếm khi khóc và hầu như không bị bệnh. Nó lớn lên như bao đứa trẻ khác, nhưng bắt đầu nói tròn câu khi mới được 8 tháng tuổi. Khi chơi trò xếp hình, Boris làm rất hoàn chỉnh với độ chính xác rất cao. “Tôi có một cảm giác kỳ lạ là chúng tôi như những người khách lạ với nó, trong khi nó đang cố gắng hình thành mối quan hệ tiếp xúc với mọi người”, bà mẹ nói.

Khi Boris hay Boriska, như cha mẹ cậu gọi một cách trìu mến, lên hai tuổi cậu bắt đầu vẽ tranh, đầu tiên là những bức vẽ trừu tượng trộn lẫn giữa màu xanh và màu tím. Xem xét các bức vẽ này, một số nhà tâm lý nói rằng cậu bé có thể tìm cách vẽ hào quang của những người mà cậu thấy xung quanh. Khi chưa tròn 3 tuổi, Boris bắt đầu nói chuyện với cha mẹ về vũ trụ.

Bà Nadezhda cho biết: “Nó có thể gọi tên tất cả các hành tinh trong hệ mặt trời và các vệ tinh của chúng. Nó cho tôi biết tên và số lượng ngân hà. Ðầu tiên, tôi tỏ ra sợ hãi và nghĩ rằng con mình bị thần kinh và quyết định kiểm tra xem các tên này có thật không. Tìm xem trong vài quyển sách thiên văn, tôi bị sốc khi phát hiện ra cậu con trai chưa đầy 3 tuổi của mình biết rất nhiều về môn khoa học này”.

Tiếng đồn về nhà thiên văn học tí hon lan nhanh khắp thành phố. Boris bỗng dưng trở thành người nổi tiếng. Nhiều người hiếu kỳ tìm đến và muốn biết vì sao cậu lại biết nhiều điều đến vậy. Boriska sẵn sàng nói với các vị khách về những nền văn minh ngoài trái đất; về sự tồn tại của các chủng tộc loài người cổ, có chiều cao đến 3m, về khí hậu tương lai và những thay đổi toàn cầu. Mọi người lắng nghe cậu bé nói với sự thích thú nhưng phần đông không tin tưởng mấy vào những câu chuyện này.

Cha mẹ Boriska quyết định làm lễ rửa tội cho con trai của mình. Qua những diễn biến trên, họ nghĩ rằng có một cái gì đó không ổn nơi Boriska.

Sau đó, Boriska bắt đầu nói với mọi người về tội lỗi của họ. Cậu nói với một chàng trai gặp trên đường rằng anh ta nên từ bỏ ma tuý, nói với một ông chồng không nên lừa dối vợ... Những lời tiên tri này thường cảnh báo mọi người về các rắc rối và tai họa sắp đến.

Nadezhda để ý rằng con trai của bà thường cảm thấy khó chịu về một thảm họa nghiêm trọng sắp đến. “Khi chiếc tàu ngầm Kursk sắp chìm, Boriska tỏ vẻ rất đau đớn. Nó cũng cảm thấy đau khổ trong cuộc khủng hoảng con tin ở Beslan và không chịu đi học trong những ngày diễn ra tấn thảm kịch này”, bà nhớ lại.

Khi được hỏi cảm giác về những ngày xảy ra thảm kịch ở Beslan, Boriska cho biết cậu như bị đốt nóng từ bên trong. “Giống như có một ngọn lửa đang cháy ở bên trong tôi. Tôi biết rằng câu chuyện ở Beslan sẽ có một kết cục khủng khiếp”.

Boriska hoàn toàn lạc quan về tương lai của nước Nga. “Tình hình trong nước dần được cải thiện. Tuy nhiên, hành tinh trái đất sẽ trải qua hai năm nguy hiểm là 2009 và 2013.

Những thảm họa này có liên quan đến nước” - cậu bé tiên đoán.

Gần đây, Boriska đã khiến các nhà khoa học Nga quan tâm. Các chuyên gia thuộc Viện nghiên cứu sóng vô tuyến và từ tính của trái đất, Viện hàn lâm khoa học Nga đã chụp ảnh quầng sáng phát ra mạnh mẽ một cách bất thường của cậu bé. Giáo sư Vladislav Lugovenko cho biết: “Cậu ta có ảnh phổ màu da cam- điều này cho thấy cậu là một người vui vẻ, rất thông minh. Có một lý thuyết, theo đó não của người có hai loại trí nhớ cơ bản: trí nhớ hoạt động và trí nhớ biệt lập. Một trong những khả năng đáng chú ý nhất của não người là lưu trữ thông tin về trải nghiệm, cảm xúc và những tư duy cả trong lẫn ngoài, từ không gian thông tin của vũ trụ.

Có một số cá nhân đặc biệt có thể thu thông tin từ khu vực này. Theo quan điểm của tôi, mỗi người được kết nối với không gian bằng những phương tiện kênh năng lượng”.

Theo Lugovenko, người ta có thể đo được năng lực ngoại cảm của con người với sự giúp đỡ của các thiết bị đặc biệt. Các nhà khoa học hiện đại trên khắp thế giới đã thực hiện các công trình nghiên cứu trong nỗ lực giải mã bí ẩn của những đứa trẻ phi thường. “Boriska là một trong những đứa trẻ phi thường đó. Dường như chúng có một sứ mệnh quan trọng nhằm thay đổi hành tinh chúng ta. Một số có chuỗi xoắn ốc ADN rất tốt, giúp chúng có hệ miễn dịch mạnh một cách đáng kinh ngạc, có thể đánh bại cả bệnh AIDS. Tôi đã gặp những trẻ em như vậy ở Trung Quốc, Ấn Ðộ. Tôi chắc rằng chúng sẽ thay đổi tương lai của nền văn minh chúng ta”, ông nói.

Trong khi các cơ quan không gian hàng đầu thế giới đang cố gắng tìm kiếm dấu vết sự sống trên sao Hoả, cậu bé Boriska, 9 tuổi đã kể với cha mẹ và bạn bè của cậu mọi thứ về nền văn minh trên đó.

Một nhà báo Nga gần đây đã trò chuyện với Boriska về kiến thức và trải nghiệm đặc biệt của cậu:

- Xin chào Boriska, cậu thực sự đã từng sống trên sao Hoả như mọi người đồn đại?

- Vâng, đó là sự thực. Tôi còn nhớ thời điểm khi tôi đã 14 hay 15 tuổi, những người sao Hoả lúc đó đang tiến hành chiến tranh cho nên tôi phải tham gia trong các cuộc đột kích từ trên không cùng các bạn tôi. Chúng tôi có thể du hành trong không gian bằng cách bay trong con tàu hình tròn. Tuy nhiên, chúng tôi quan sát cuộc sống trên trái đất từ con tàu hình tam giác. Tàu không gian của người sao Hoả rất phức tạp. Chúng có nhiều lớp và có thể bay khắp nơi trong vũ trụ.

- Hiện nay có sự sống trên sao Hoả không?

- Có. Nhưng nhiều năm qua hành tinh đã mất khí quyển vì thảm họa toàn cầu. Tuy nhiên, người sao Hoả vẫn sống dưới mặt đất. Họ thở bằng khí carbonic.

- Những người sao Hoả trông thế nào?

- Họ rất cao, cao hơn 7m. Họ sở hữu những năng lực lạ thường.

Bà Nadezhda Kipriyanovich cho biết: “Khi chúng tôi đưa cậu bé ra trước nhiều nhà khoa học, bao gồm các chuyên gia UFO, thiên văn, sử học, họ đồng ý rằng cậu bé không thể bịa ra những chuyện như vậy. Những thuật ngữ khoa học và ngoại ngữ mà Boriska nói thường được các chuyên gia nghiên cứu lĩnh vực này sử dụng”.

Các bác sĩ về y học cổ truyền thừa nhận năng lực phi thường của cậu bé, mặc dù họ không tin cậu từng sống trên sao Hoả từ kiếp trước”.

Quí vị đã đọc xong câu chuyện trên đây, Thầy xin giảng trạch: “Tại đất nước Nga là nơi thường hay xuất hiện những con người “TƯỞNG TRI”. Những con người tưởng tri thường hay tiên tri những sự việc xảy ra ở tương lai. Vì họ không theo qui luật của nhân quả, nên những lời tiên tri của họ không đúng sự thật về tương lai. Vì nhân quả chuyển biến thay đổi liên tục không ngừng, làm sao họ nói đúng được. Bởi vì con người hôm nay làm ác, nhưng ngày mai họ sẽ làm thiện và vì thế mà nhân quả phải được chuyển hóa như cây cam chua muốn cho trái ngọt, người ta chuyển đổi bằng cách bón phân hoặc lai ghép cành khiến cho cây cam chua trở thành cây cam ngọt.

Các nhà tiên tri không hiểu nhân quả, không biết các pháp trên hành tinh này là do duyên hợp tạo thành, là sự vô thường thay đổi từng phút giây, nên những lời tiên tri của họ chỉ đúng một phần nhỏ mọi sự việc xảy ra trên hành tinh này.

Do hiểu nhân quả, do biết các pháp duyên hợp vô thường nên chúng ta không tin những lời tiên tri của các thầy phù thủy sống trong ảo tưởng.

Cho nên, ai cũng biết nhân quả luôn theo qui luật vô thường của các pháp thường thay đổi biến chuyển không đứng yên một chỗ, một vị trí cố định nào cả. Vì thế, quý vị làm sao tiên tri đúng được mọi sự việc xảy ra trong tương lai trên hành tinh này hay hành tinh khác nói riêng hay nói chung là trong vũ trụ bao la này. Từ Ðông sang Tây thỉnh thoảng có một vài người bị thần kinh tưởng hoạt động nên không tự chủ phát ngôn tiên tri bừa bãi mọi sự việc xảy ra trên hành tinh sống của con người trong tương lai như thế này, như thế khác khiến cho mọi người không hiểu nhân quả và các pháp vô thường nên lo lắng ăn không ngon, ngủ không yên thật là tội nghiệp.

Câu bé Boriska là một nhà TƯỞNG TRI nói chuyện không đúng trên sao Hỏa. Ðây chúng ta hãy nghe nhà khoa học Trịnh Xuân Thuận. Trịnh Xuân Thuận là giáo sư Ðại học Virginia Hoa kỳ ngành vật lý thiên thể (Astrophysique) nói: “Khi tôi vừa mới đến Mỹ, công cuộc khám phá Thái dương hệ bằng các con tàu vũ trụ đang bộc phát nhộn nhịp. Tôi còn nhớ sự ngạc nhiên sững sờ trước những hình ảnh đầu tiên của sao Hỏa được truyền về trái đất bởi con tàu Mariner, trên màn hình lớp học của chúng tôi. Những hình ảnh về sa mạc cằn cỗi ở sao Hỏa cho nhân loại biết rằng không có đời sống tinh thần ở đó. Những kênh đào mà các nhà thiên văn ở thế kỷ 19 lầm tưởng đã nhìn thấy chỉ là ảo ảnh được tạo nên bởi những bão cát”. Vậy mà cậu bé Boriska đã trả lời những câu hỏi của phóng viên nhà báo bằng trong tưởng tri của mình như sau: “Một nhà báo Nga gần đây đã trò chuyện với Boriska về kiến thức và trải nghiệm đặc biệt của cậu:

- Xin chào Boriska, cậu thực sự đã từng sống trên sao Hoả như mọi người đồn đại?

- Vâng, đó là sự thực. Tôi còn nhớ thời điểm khi tôi đã 14 hay 15 tuổi, những người sao Hoả lúc đó đang tiến hành chiến tranh cho nên tôi phải tham gia trong các cuộc đột kích từ trên không cùng các bạn tôi. Chúng tôi có thể du hành trong không gian bằng cách bay trong con tàu hình tròn. Tuy nhiên, chúng tôi quan sát cuộc sống trên trái đất từ con tàu hình tam giác. Tàu không gian của người sao Hoả rất phức tạp. Chúng có nhiều lớp và có thể bay khắp nơi trong vũ trụ”.

Cậu bé Boriska trả lời phóng viên giống như những bài báo nói về đĩa bay thám hiểm Ðịa cầu trong những năm về trước. Như vậy cậu bé đã lập lại những gì của con người đã nghiên cứu, nhưng cậu đã sống trong ảo tưởng nên thêm thắt sao Hỏa có chiến tranh.

Trên hành tinh chúng ta đang sống có nhiều hiện tượng xảy ra như các sự việc xuất hiện những đĩa bay mà các nhà khoa học và các nhà hiểu biết chưa xác định rõ đĩa bay xuất phát từ hành tinh nào nên đều tưởng nghĩ, trong tưởng tri cho rằng đĩa bay là do người từ sao Hỏa đến hành tinh chúng ta thám hiểm.

Lúc bây giờ các nhà khoa học chưa thám hiểm sao Hỏa được nên đều nghĩ tưởng sao Hoả là một hành tinh sống như quả Ðịa cầu của chúng ta đang ở. Cậu bé này chỉ là một thầy phù thủy trong kiếp trước thường sống trong tưởng uẩn do tu luyện các pháp môn như: như Mật tông vẽ bùa, bắt ấn, niệm chú, hoặc tập luyện các loại thiền định ức chế tâm, nên lọt vào những trạng thái của thiền định tưởng. Vì thế, thường phát ngôn theo tưởng uẩn dẫn dắt nói mà ý thức không chủ động, không điều khiển tưởng thức, không làm chủ được lời nói. Nói nhưngười lên đồng nhập cốt.

Theo quy luật của nhân quả hiện tại thì những lời nói mơ hồ không chính xác của cậu khiến mọi người không đủ lòng tin nên mới có những câu hỏi về cậu bé.

Trong những lời nói của cậu có điều đúng nhưng cũng có điều không đúng. Vì thế, chúng ta biết chắc kiếp trước của cậu là một thầy phù thủy, là một chiêm tinh gia. Ðây, chúng ta hãy nghe tiếp cậu trả lời:

Phóng viên hỏi:

“- Hiện nay có sự sống trên sao Hoả không?

- Có. Nhưng nhiều năm qua hành tinh đã mất khí quyển vì thảm họa toàn cầu. Tuy nhiên, người sao Hoả vẫn sống dưới mặt đất. Họ thở bằng khí carbonic.

- Những người sao Hoả trông thế nào?

- Họ rất cao, cao hơn 7 m. Họ sở hữu những năng lực lạ thường.

Bà Nadezhda Kipriyanovich cho biết: “Khi chúng tôi đưa cậu bé ra trước nhiều nhà khoa học, bao gồm các chuyên gia UFO, thiên văn, sử học, họ đồng ý rằng cậu bé không thể bịa ra những chuyện như vậy. Những thuật ngữ khoa học và ngoại ngữ mà Boriska nói thường được các chuyên gia nghiên cứu lĩnh vực này sử dụng”. Các bác sĩ về y học cổ truyền thừa nhận năng lực phi thường của cậu bé, mặc dù họ không tin cậu từng sống trên sao Hoả từ kiếp trước”.

Những câu trả lời của câu bé Boriska nói về người sao Hỏa ở dưới lòng đất sống như chồn, thở bằng khí carbonic và cao 7m. Ðiều đó là nói trong tưởng của cậu nên không đúng sự thật. Trong khi giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã xác định sao Hỏa không có đời sống tinh thần.

Như vậy không có người sao Hỏa. Không có người sao Hỏa thì làm sao có chiến tranh trên sao Hỏa? Cậu bé nói trong tưởng, đã được ghi nhận những hình ảnh chiến tranh trong cõi thế gian của loài người.

Một người có Tam Minh trong vũ trụ này có những hành tinh nào xảy ra điều gì mà họ không biết. Cho nên, cậu chỉ nói trong tưởng mà thôi.

Mọi người trên hành tinh này cũng đang sống trong tưởng tri. Họ tưởng cảnh giới Thiên đàng có Ngọc Hoàng Thượng Ðế, có Nam Tào, Bắc Ðẩu, có thiên binh, thiên tướng. Ðó là cõi Trời được cai trị cũng giống như các nhà vua phong kiến cai trị cõi thế gian vậy. Cõi trời mà như vậy sao gọi là cõi Trời được? Con người thật là điên đảo sống trong ảo tưởng.

Ðã không có con người trên sao Hỏa thì làm sao có sự tương ưng với cha mẹ trên hành tinh này mà sinh ra cậu bé Boriska. Cậu bé Boriska chỉ là một con người trên hành tinh này có công phu tu tập Mật tông hoặc Thiền tông nên đã rơi vào trạng thái tưởng. Vì thế, khi sinh cậu ra đời là có những hiện tượng thần đồng tiên tri tưởng khiến mọi người xôn xao làm động cả thế giới, nhưng cậu bé tưởng này nói không đúng hoàn toàn vì nhân quả không ai nói về tương lai đúng cả. Cậu bé Boriska tự nói theo tưởng của cậu là tự cậu đã làm mất uy danh của cậu. Cho nên, ở đời ai muốn nói ra một điều gì thì phải nói đúng sự thật, đừng nói sai sự thật, đừng nói trong tưởng tức là đừng tiên tri một việc gì khi việc ấy chưa xảy ra. Ðây chúng ta hãy lắng nghe cậu bé Boriska nói về tên các hành tinh trong hệ mặt trời và các vệ tinh của chúng: “Bà Nadezhda cho biết: “Nó có thể gọi tên tất cả các hành tinh trong hệ mặt trời và các vệ tinh của chúng. Nó cho tôi biết tên và số lượng ngân hà. Ðầu tiên, tôi tỏ ra sợ hãi và nghĩ rằng con mình bị thần kinh và quyết định kiểm tra xem các tên này có thật không. Tìm xem trong vài quyển sách thiên văn, tôi bị sốc khi phát hiện ra cậu con trai chưa đầy 3 tuổi của mình biết rất nhiều về môn khoa học này”.

Ðọc xong đoạn này chúng tôi biết ngay tiền thân cậu bé Boriska là một giáo sư dạy về môn thiên văn học trên hành tinh này. Vì chỉ có trên hành tinh này con người mới đặt tên cho các hành tinh trong hệ mặt trời chứ làm gì người Hoả tinh mà biết tên các hành tinh của chúng ta đặt. Phải không quý vị? Nếu có người sao Hỏa thật sự thì họ phải đặt tên khác cho các hành tinh trong hệ mặt Trời này thì làm sao lại có tên giống như chúng ta đã đặt. Ví dụ: Chúng ta gọi mặt Trời, mặt Trăng, sao Chổi, sao Mai, sao Hôm, sao Vua, sao Bắc Ðẩu, sao Cày, Kim tinh, Mộc tinh, Thủy tinh, Hỏa tinh, Thổ tinh thì người Hỏa tinh phải đặt tên khác, sao lại dùng tên của chúng ta, như vậy cậu bé này không phải là người Hỏa tinh mà là người trên hành tinh của chúng ta chết đi tương ưng tái sinh làm con của bà Nadezhda.

Vả lại nếu có người sao Hoả thì thổ nhưỡng khí hậu thời tiết nóng lạnh, mưa, nắng, gió bão đâu giống như trên hành của chúng ta, vì thế con người trên sao Hỏa tính tình phải sai khác không giống như con người trên hành tinh của chúng ta thì làm sao mà tương ưng với con người trên trái đất mà sinh họ ra được.

Ví dụ: Trên một dải đất hình cong chữ S đất nước Việt Nam, từ Bắc chí Nam người dân ở miền Bắc tính tình giọng nói không giống người dân miền Nam và miền Trung. Ngược lại cũng vậy tính tình giọng nói của người dân mỗi miền đều khác nhau, còn xa hơn mỗi nước đều khác nhau từ màu da sắc tướng, từ tiếng nói, tính tình đều có sai khác, nhưng họ là loài người cùng sống chung nhau trên một hành tinh loài người mà còn sai khác như vậy huống là người ở hành tinh khác. Cho nên, chúng ta biết chắc sự sống trên hành tinh này còn sai khác huống là ở hành tinh khác thì sự sai khác còn gấp mấy trăm ngàn lần. Và như vậy làm sao có tươngưng với sự sống trên quả Ðịa cầu của chúng ta được. Phải không quý vị?

Môi trường sống ở đâu thì phải phù hợp với sự sống ở đó, cho nên sự tương ưng là phải tương ưng giống nhau thì mới hòa hợp được nhau.

Người ở hành tinh khác không thể tương ưng tái sinh vào hành tinh chúng ta được, vì ở đâu có sự sống riêng ở đấy. Chỉ khi nào có hai hành tinh có sự sống giống nhau thì mới tương ưng tái sinh. Vì thế, nhân quả cũng theo môi trường sống mà hoạt động thành, trụ, hoại, không theo qui luật các pháp vô thường sinh diệt.

CÂU HỎI 1:

Theo bài báo này thì chuyện tái sanh của một người từ hành tinh khác tương ưng với Cha Mẹ trên trái đất vẫn có khả năng phải không thưa Thầy?

Ðáp: Không, không thể tương ưng được. Thầy đã trả lời theo bài báo trên thì chuyện tái sinh của một người từ hành tinh khác tương ưng với cha mẹ trên trái Ðất thì không có khả năng tái sinh được. Vì hành tinh khác không thể tương ưng với hành tinh chúng ta được. Ở đâu có môi trường sống riêng ở đó.

CÂU HỎI 2a:

Sự thật là trên sao Hỏa có sự sống không hay chỉ là một hành tinh chết?

Ðáp: Thầy đã trả lời câu hỏi này của con qua lời xác định của Giáo Sư Trịnh Xuân Thuận “Sao Hỏa là một hành tinh chưa có người sao Hỏa sống ở đó”.

CÂU HỎI 2b:

Tại sao đứa bé lại có khả năng nói tên các hành tinh khác trong vũ trụ?

Ðáp: Ở trên Thầy đã trả lời câu hỏi của con: Cậu bé Boriska chỉ là hậu thân của một giáo sư trên hành tinh này dạy môn thiên văn học.

CÂU HỎI 3:

Những lời tiên tri của em bé về tương lai năm 2009 và 2013 có thế tin được không?

Ðáp: Những lời tiên tri của cậu bé Boriska về tương lai năm 2009 và 2013 đừng nên tin mà hãy tin vào nhân quả.

CÂU HỎI 4:

Ý thức về các hành động xấu mà em bé biết rõ hậu quả của các hành động đó do đâu mà có vì em là một người chưa biết gì về đạo đức nhân bản - nhân quả ?

Ðáp: Những điều cậu bé biết về người khác nói ra đúng nhân quả là do tưởng uẩn của cậu lưu xuất giao cảm như: “Sau đó, Boriska bắt đầu nói với mọi người về tội lỗi của họ. Cậu nói với một chàng trai gặp trên đường rằng anh ta nên từ bỏ ma tuý, nói với một ông chồng không nên lừa dối vợ... Những lời tiên tri này thường cảnh báo mọi người về các rắc rối và tai họa sắp đến”.

Tưởng cậu rất mạnh thường báo động vào thân cậu: “Nadezhdađể ý rằng con trai của bà thường cảm thấy khó chịu về một thảm họa nghiêm trọng sắp đến. “Khi chiếc tàu ngầm Kursk sắp chìm, Boriska tỏ vẻ rất đau đớn. Nó cũng cảm thấy đau khổ trong cuộc khủng hoảng con tin ở Beslan và không chịu đi học trong những ngày diễn ra tấn thảm kịch này”, bà nhớ lại.

Khi được hỏi cảm giác về những ngày xảy ra thảm kịch ở Beslan, Boriska cho biết cậu như bị đốt nóng từ bên trong. “Giống như có một ngọn lửa đang cháy ở bên trong tôi. Tôi biết rằng câu chuyện ở Beslan sẽ có một kết cục khủng khiếp”. Con người bình thường của chúng ta cũng có sự cảm nhận nhưng yếu hơn cậu bé này. Khi có điều gì hoặc tai nạn sắp xảy ra thì mắt giựt, tâm hồi hợp, cảm nhận nóng ruột hoặc chiêm bao. Tất cả những sự việc đó xảy ra đều do tưởng uẩn báo động tác dụng vào thân và tâm của chúng ta, không có gì lạ cả.

CÂU HỎI 5:

Những vầng hào quang sáng xung quanh của một người có liên quan đến từ trường thiện và từ trường ác hay không?

Ðáp: Cậu bé này tự xưng mình là người sao Hỏa mà lại phóng xuất hào quang như chư Phật Ðại Thừa: “Gần đây, Boriska đã khiến các nhà khoa học Nga quan tâm. Các chuyên gia thuộc Viện nghiên cứu sóng vô tuyến và từ tính của trái đất, Viện hàn lâm khoa học Nga đã chụp ảnh quầng sáng phát ra mạnh mẽ một cách bất thường của cậu bé”. Một người phóng xuất được hào quang là người ấy phải có tu tập thiền định. Ðọc câu chuyện cậu bé Boriska chúng ta nhận xét cậu dùng toàn thần thông tưởng: từ sự tiên tri, sự giao cảm và nói về nhân quả của người khác đến phóng hào quang toàn là tưởng uẩn, chứng tỏ cậu bé này chỉ là tiền thân một Thầy phù thủy có khả năng luyện tập huân tu nên cậu nhớ lại trong đời này.

Tất cả những việc làm của cậu không gây đau khổ cho người khác thì có liên quan đến từ trường thiện còn nếu những lời nói của câu gây hoang mang dao động xôn xao dư luận thế giới thì hào quang của cậu liên quan đến từ trường ác, và cậu cũng phải trả quả ấy.


Page 22

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NPTCB, tập 2, TG. 2011, tr. 93-98; .212-216)
link sách: NPTCB, tập 2

1.- CÁI TƯỞNG CỦA NGÀI LONG THỌ LÀ CÁI HAY CỦA ĐẠI THỪA

Hỏi: Trong một bài pháp, thầy Thông Huyễn (Chơn Quang) nói Ðại thừa cũng còn có những cái hay, cái hay đó là chỗ đức Phật chưa nói ra, sau này các Tổ triển khai trong kinh sách Ðại thừa.

Thầy Thông Huyễn lấy câu đức Phật nói: “Những pháp ta chứng như những lá cây trong rừng, còn những pháp Ta dạy cho các con biết như nắm lá trong tay”. Như vậy, phải chăng những gì đức Phật thuyết chỉ có một phần nhỏ mà thôi, và còn rất nhiều pháp mà đức Phật chưa nói ra?

Ðáp: Các nhà học giả tu hành chưa tới đâu, mà dám cả gan muốn hơn Phật, dám nói những gì đức Phật không cần nói. Trình độ tu chứng của các Tổ chỉ loanh quanh trong kiến giải, thiền định thì lọt vào thiền tưởng thì không thể nào hơn Phật được, mà dám nói những điều Phật đã không nói. Như vậy thì các Tổ sẽ nói sai hết phải không? Tại vì mình chưa chứng như Phật mà dám nói những điều Phật chứng, trong khi chính Phật còn chưa dám nói ra. Những điều Phật nói ra mà chúng ta chưa hiểu hết, chưa tu hết mà nói ra những điều Phật chưa nói thì thầy e rằng những người đó là Ma Ba Tuần. Nói ra những điều vô hạn đó có lợi ích gì cho con người. Trình độ kiến thức của con người hữu hạn, chưa hiểu được những điều vô hạn đó mà nói ra thì họ sẽ sống trong tưởng và như vậy là nói láo, nói không thật. Trong kinh Tương Ưng Phật dạy: “Ta nói những điều mà chúng sanh chưa hiểu được, như vậy là Ta nói láo. Còn chúng sanh hiểu được điều Ta nói thì ta không có nói láo”.

Như vậy, các nhà Ðại thừa triển khai những gì đức Phật chưa nói là sống trong tưởng, là nói láo mà thầy Thông Huyễn lại cho là hay, như vậy rõ ràng trí tuệ của thầy Thông Huyễn chỉ là trí tuệ học giả.

Phật nói không có thế giới siêu hình, các Tổ nói có thế giới siêu hình.

Phật nói thân ngũ uẩn hoại diệt không còn một uẩn nào cả, các Tổ nói thân ngũ uẩn hoại diệt nhưng vẫn còn có Phật tánh, thần thức.

Như vậy Phật nói láo hay Tổ nói láo? Như vậy Phật lừa đảo chúng sanh hay Tổ lừa đảo chúng sanh?

Thầy Thông Huyễn ở trong tưởng giải lừa đảo của Phật giáo phát triển mà cho rằng hay, chứ nào có hay gì đâu, chỉ sống trong ảo tưởng không thực tế. Nếu bảo rằng hay thì phải có sự tu chứng, có sự làm chủ sanh tử luân hồi thì mới hay như đức Phật chứ. Tại sao lý luận hay mà không có người nào tu chứng làm chủ sanh, già, bịnh, chết. Chỉ nói láo mà thôi... Sống phá giới, phạm giới để rồi nói những điều ảo tưởng, phi đạo đức như vậy.

Các Tổ nói được mà không làm được thì điều này không hay ho gì đâu! Nói ra được mà làm được thì đó mới hay.

Các Tổ đưa ra lý Bát Nhã và hằng ngày tu sĩ đều tụng niệm Bát Nhã: “Hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Da thời thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không...” Thử hỏi có ai tụng Bát Nhã Tâm Kinh mà ngũ uẩn đã không chưa?

Vì chưa có ai tụng Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật mà ngũ uẩn đã không thì đó là trí tuệ Bát Nhã tưởng của Ngài Long Thọ. Trí tuệ này chỉ có thể áp dụng cho thế giới tưởng, còn áp dụng vào thế giới con người làm sao con người tu được. Ai cũng nói ngũ uẩn giai không chứ không ai làm cho nó giai không được. Hằng ngày chùa nào cũng tụng Tâm Kinh Bát Nhã hết, nhưng chùa càng to, tháp càng lớn, xe honda, xe hơi, tủ lạnh đủ mọi thứ...Không thì chẳng thấy không, mà có thì có rất nhiều. Nếu nó không thì nó phải quét sạch hết, phải không? Lý luận của Tổ phải hay ở thế giới loài người. Chơn không diệu hữu là lý Bát Nhã của Long Thọ. Nhiều người cứ tu tập giữ không, tu mãi nó trở thành không ngơ như cây đá. Do cái tưởng không này mà đưa đến cái chết rất oan uổng của tổ Sư Tử, bị Vua Kế Tân giết.

Ðó là những chỗ các Tổ luận, còn thầy Thông Huyễn (Chơn Quang) cũng bắt chước dựa theo đó mà luận ra, sợ người không tin nên bảo rằng chỗ Phật chứng mà chưa thuyết ra. Thầy Thông Huyễn có ý muốn làm hơn Phật. Nhưng thử hỏi bây giờ thầy Thông Huyễn sống có đúng đời sống như Phật chưa? Nhìn lại đời sống giới luật của mình không ra gì. Mười giới sa di chưa trọn vẹn mà dám nói những gì Phật chưa nói. Chúng ta không sống đồng thời với các Tổ, nên không biết các Ngài giới luật có nghiêm túc không, hay cũng như thầy Chơn Quang bây giờ. Dù không sống đồng thời với các Tổ, nhưng xét qua tưởng giải của các Ngài là tưởng giải phá giới, như vậy các Ngài đều sống phi Phạm hạnh.

Riêng Thầy không dám giải thích những gì Phật chưa nói, mà chỉ giải thích những gì đức Phật đã dạy, khiến cho rõ ràng dễ hiểu, dễ hành. Thầy không dám dạy hơn những gì mà đức Phật đã dạy cho chúng ta. Ðọc trong sách của Thầy, Thầy không bao giờ có thêm cái gì mới mẻ cả. Ðức Phật nói hóa sanh, lời dạy này cô đọng quá chúng ta không hiểu hóa sanh như thế nào. Có người nói hoá sanh như một con tò vò. Sự thật đâu phải. Tò vò mẹ đẻ trứng, rồi bắt con sâu để vào tổ, cho con nó nở ra ăn thịt con sâu đó để sống lớn lên thành con tò vò. Chứ đâu phải con sâu hóa ra con tò vò. Các con không hiểu và hiểu như vậy không đúng sự thật, điều này có thể chứng minh bằng khoa học được. Nên giảng như vậy vô tình dẫn dắt người ta đã không hiểu lại càng không hiểu hơn.

Tóm lại, chỗ Phật tu chứng mà không dạy cho chúng ta tức là chỗ thừa, không ích lợi cho loài người, chỉ là hý luận suông của tưởng, nó không phải là chân lý của con người. Vì thế, trước khi nhập Niết Bàn, đức Phật đã nói: “Ta tự biết trong đại chúng này, dù có một vị Tỳ kheo nhỏ nhất cũng thấy được dấu đạo, không còn đọa vào đường ác”.

Lời nói này đức Phật đã xác định, Ngài dạy giáo pháp giải thoát vừa đủ, không thiếu, không thừa cho loài người. Với giáo pháp chân chánh này chúng ta tu tập còn chưa hết, sống còn phạm giới, phá giới. Thế mà các nhà học giả xưa và nay tưởng giải ra những pháp cao siêu trừu tượng ảo tưởng, khiến cho người tu hành đời sau lạc vào tà kiến, tà pháp. (Trích ở trang web: nguyenthuychonnhu.net  Phần Giáo án Tu Tập, tập 3)

2.- TU KHÔNG PHẢI TỤNG KINH, NIỆM PHẬT, NGỒI THIỀN, NIỆM CHÚ, CÚNG BÁI.

Hỏi: Con nghe những người tu Tịnh Ðộ nói: “Niệm Phật cũng là phương pháp xả tâm”. Có phải như vậy không thưa Thầy? Những người tu Tịnh Ðộ dẫn chứng rằng, khi đang giận, buồn, tức một điều gì đó, thì cứ nhớ niệm Phật là cơn tức giận buồn lo sẽ biến mất. Những người tu Tịnh Ðộ còn cho biết: “Cứ niệm Phật mãi, niệm mãi” đến một ngày nào đó nó sẽ “vỡ ra” thì sẽ được tâm rỗng rang sáng suốt.

Ðáp: Niệm Phật là một phương pháp ức chế tâm, chứ không phải niệm Phật là phương pháp xả tâm. Nhưng mọi người đã hiểu lầm ức chế và xả tâm. Chính ngay những vị Thầy dạy về pháp môn Tịnh Ðộ họ cũng chẳng biết pháp môn đó là pháp môn ức chế tâm huống là những tín đồ. Vậy ức chế tâm như thế nào? Và xả tâm như thế nào?Ức chế tâm có nghĩa là nén tâm, chịu đựng, ép buộc, hay bắt buộc làm cho tâm không khởi niệm (vọng tưởng), v.v...

Pháp ức chế tâm gồm có: Niệm Phật A Di Ðà, niệm thần chú, biết vọng liền buông, chẳng niệm thiện niệm ác, chăn trâu, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, Lục Diệu pháp môn, thiền Minh Sát tuệ, tham thoại đầu, tham công án, v.v... Những người tu Tịnh Ðộ hiểu lầm nên cho ví dụ: Khi đang giận, buồn, tức một điều gì đó thì cứ nhớ niệm Phật là cơn tức giận, buồn, lo sẽ biến mất. Ðó là cách thức ức chế tâm bằng câu niệm Phật mà người tu Tịnh Ðộ không biết, cho rằng xả tâm. Tu theo Tịnh Ðộ như vậy dù một ngàn kiếp cũng chẳng bao giờ hết tham, sân, si, chỉ vì ức chế tâm. Xả tâm có nghĩa là trước khi xả một niệm nào trong tâm, phải có sự tư duy suy nghĩ cho thấu đáo nghĩa lý của niệm đó, và còn phải biết áp dụng đức hạnh của giới luật vào niệm đó để chuyển hoá niệm. Sự chuyển hoá niệm gọi là xả tâm, cho nên đức Phật bảo: “Tri kiến ở đâu thì đức hạnh giới luật ở đó, đức hạnh giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh đức hạnh giới luật”.

Lời dạy trên đây là cách thức xả tâm rất tuyệt vời của kinh sách Nguyên Thuỷ, còn toàn bộ kinh sách phát triển đều dạy ức chế tâm, nên chẳng cần tư duy theo niệm, chỉ cố ức chế tâm vượt qua những lúc tâm giận hờn, phiền não mà thôi. Khi ức chế tâm, thấy tâm sân không còn tưởng là xả tâm, vì vậy tâm sân không bao giờ hết. Nếu bảo rằng niệm Phật xả tâm phiền não được, thì niệm Phật cũng xả được các cảm thọ, như khi bị bệnh đau nhức nơi thân thì niệm Phật phải hết đau. Hết đau sao người niệm Phật lại đi bác sĩ nằm nhà thương nhiều như vậy?

Các cảm thọ nơi thân là do bị bệnh đau nhức, đó là niệm thọ khổ của thân. Vậy niệm Phật có xả niệm thọ khổ của thân đó không? Hay lại phải đi bác sĩ, vào bệnh viện như trên đã nói.

Trong thân chúng ta có bốn chỗ để xả: 1- Thân; 2- Thọ; 3- Tâm; 4- Pháp. Nếu niệm Phật xả tâm được thì xả thân được; xả thân được thì xả thọ được; xả thọ được thì xả pháp được. Như vậy các bạn có làm được chưa? Nếu chưa làm được như vậy thì các bạn chỉ ức chế tâm mà thôi.

Trên đời ai nói gì cũng được, nhưng làm chođược thì không phải dễ, nhất là hiểu sai chữ nghĩa thì làm sao tu hành đúng được. Phải không các bạn?

Từ xưa đến nay người ta đã hiểu sai Phật pháp, nên chẳng có ai tu chứng làm chủ bốn sự đau khổ. Ðến giờ này các phật tử cũng còn hiểu sai là do các Thầy tổ khéo léo bưng bít che dậy, hướng dẫn một cách sai lầm. Người ta không biết pháp môn Tịnh Ðộ là một pháp môn ảo tưởng, nên bị các thầy lừa đảo như câu nói này: “Cứ niệm Phật mãi, niệm mãi, đến một ngày nào đó nó sẽ “vỡ ra” thì sẽ được tâm rỗng rang sáng suốt”. Theo lời dạy này thật là mơ hồ, trừu tượng, thiếu thực tế, không khoa học. Tôi xin hỏi các bạn, các bạn cứ thành thật trả lời. Vậy “vỡ ra” là vỡ ra cái gì? Tâm rỗng rang sáng suốt để làm gì? Những danh từ “vỡ ra” và “tâm rỗng rang sáng suốt”, là những danh từ của Thiền tông, mà Tịnh Ðộ tông đã chịu ảnh hưởng rồi vay mượn, chứ Tịnh Ðộ tông có biết vỡ ra là vỡ ra cái gì không? Như trên đã nói. Còn tâm rỗng rang là tâm như thế nào? Trong khi pháp môn Tịnh Ðộ dạy: “Thất nhật nhất tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A Di Ðà Phật”. Vậy thì làm sao mà rỗng rang được, thật là phi lý, bắt chước mà không hiểu nghĩa, cũng giống như người mù rờ voi, cũng giống như người ăn bánh mà không biết mùi vị.

Tu hành với mục đích là phải làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người: sanh, già, bệnh, chết, chứ tu hành đâu phải mục đích để tâm rỗng rang sáng suốt. Tâm rỗng rang sáng suốt để làm gì? Pháp môn Tịnh Ðộ là pháp môn ảo tưởng, nên tu hành không làm chủ sanh, già, bệnh, chết, nên các tổ Tịnh Ðộ chỉ còn biết cầu nguyện:

“Cầu cho tôi chết biết ngày,
Biết giờ, biết khắc, biết rày tánh linh
Cầu cho bệnh khổ khỏi mình”

Ðấy, các bạn có thấy những câu sám trên đây là một sự cầu nguyện và hy vọng, chứ không đủ niềm tin vào pháp niệm Phật của mình. Vậy mà bảo: “Niệm mãi, niệm mãi nó sẽ “vở ra” thì sẽ được tâm rỗng rang sáng suốt”. Bắt chước Thiền tông nói một cách mơ hồ không thực tế.

Ngược lại, pháp môn Tứ Niệm Xứ của Phật giáo Nguyên Thủy rất thực tế, đẩy lui các sự khổ đau trên bốn chỗ: thân, thọ, tâm, pháp: “Này các Tỳ kheo, ở đây này các Tỳ kheo, trú quán thân trên thân, nhiệt tâm tỉnh giácchánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục thamưu ở đời; trú quán tâm trên tâm, nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp nhục tham ưu ở đời; trú quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy, này các Tỳ kheo, là Tỳ kheo chánh niệm”.

Ðoạn kinh trên đây, chứng tỏ đạo Phật có những phương pháp để khắc phục những sự khổ đau của đời người, chứ không phải cầu nguyện.

So sánh giữa hai pháp môn Tịnh Ðộ và Tứ Niệm Xứ, chúng ta thấy pháp môn niệm Phật của Ðại thừa giống như một người mù dẫn một số người mù đi, thật là nguy hiểm, tốn công sức, tốn của cải tài sản một cách vô ích. Chỉ sống trong ảo tưởng, mộng mơ, làm gì có sự làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.

Tóm lại, pháp môn Tịnh Ðộ là một pháp môn ảo tưởng, pháp môn mê tín, pháp môn lừa đảo.


Page 23

(Trưởng lão Thích thông Lạc, trích Đạo Đức Hiếu Sinh, tập 1, TG. 2012, tr. 340-349)
link sách: Đạo Đức Hiếu Sinh, tập 1

Có lần, trong lúc vội bước lên xe lửa, Mahatma Gandhi đánh rơi một chiếc giầy xuống đường ray và không thể nào lấy lên được, vì xe lửa đã lăn bánh.

Ông Gandhi bèn cởi ngay chiếc giầy còn lại và ném xuống đường ray, gần nơi chỗ chiếc giầy đã rớt, trước sự ngạc nhiên của những hành khách trên xe. Một hành khách không kiềm được thắc mắc, đã lên tiếng hỏi ông:

- Tại sao lại làm như vậy?

Gandhi đáp:

- Một người nghèo nào đó tìm thấy chiếc giầy trên đường ray thì họ sẽ tìm thấy chiếc thứ hai, và như vậy họ sẽ có đủ cả đôi để dùng.

Vị hành khách bảo:

- Tuyệt vời! Ít ai nghĩ đến.

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI

Câu hỏi 1:

"Có lần, trong lúc vội bước lên xe lửa, Mahatma Gandhi đánh rơi một chiếc giầy xuống đường ray và không thể nào lấy lên được, vì xe lửa đã lăn bánh". Câu này dạy đạo đức gì?

Trả lời câu hỏi 1: "Có lần, trong lúc vội bước lên xe lửa, Mahatma Gandhi đánh rơi một chiếc giầy xuống đường ray, và không thể nào lấy lên được, vì xe lửa đã lăn bánh". Câu này nói lên THIẾU ÐẠO ÐỨC CẨN TRỌNG TỈNH GIÁC,

Người có đức hạnh cẩn trọng, tỉnh giác thì không bao giờ đánh rơi giày dép, bóp xách, của cải, tiền bạc. Ông Gandhi vì lật đật bước lên tàu hỏa đánh rơi chiếc giày, đó là nói lên ông Gandhi thiếu đức hạnh cẩn thận tỉnh giác thân hành. Chúng ta là những người tu hành theo Phật giáo, thì phải sống trong đức hạnh hiếu sinh thương mình, thương người, nên lúc nào cũng phải cẩn thận, tỉnh giác trong mọi tình huống. Người sống trong đức hiếu sinh thương mình, thương người thì không bao giờ thiếu đức hạnh cẩn trọng tỉnh giác thân hành. Vì thế người có đức hạnh cẩn trọng tỉnh giác là có đức hiếu sinh thương mình, thương người và thương tất cả chúng sinh. Trong cuộc đời này chỉ có đức hiếu sinh mới đem lại sự bình an cho hành tinh.

Ví dụ: Có một người đang chửi mắng mình, mình tức giận chửi mắng lại người ấy. Trước tiên mình nhận xét thấy mình thiếu đức hạnh cẩn trọng tỉnh giác, mà thiếu đức hạnh cẩn trọng tỉnh giác là mình đánh mất đức hiếu sinh thương mình, thương người. Do đó mình mới chửi lại người. Chửi lại người là mất cả hai đức.

Cho nên đức hiếu sinh thương mình, thương người thì phải có đức hạnh cẩn trọng tỉnh giác. Có đức cẩn trọng tỉnh giác là có tất cả đức hạnh khác, nhất là đức hiếu sinh.

Trong cuộc sống hằng ngày, nếu chúng ta rèn nhân cách đức hiếu sinh thành tựu thì đời sống lúc nào cũng biết thương yêu tất cả mọi người, mọi sự sống trên hành tinh này, thì chúng ta đều có đầy đủ các đức hạnh khác như đức cẩn trọng tỉnh giác, đức ly tham từ bỏ lấy của không cho, đức chung thủy, đức thành thật, đức minh mẫn, v.v...

Chúng ta chỉ cần thấm nhuần một đức hiếu sinh thì chúng ta sẽ trở thành người toàn thiện, không có đức hạnh nào mà chúng ta không có. Xưa ông Phú Lâu Na chỉ có đức hiếu sinh mà đã trở thành bậc A La Hán.

Hiểu biết Phật pháp như vậy, nên chương trình giáo dục đào tạo rèn nhân cách ra đời đem lại sự bình an cho loài người, cho muôn vật. Chỉ còn có một điều là chúng ta chuyên cần đến lớp học tập để tiếp thu những đức hạnh cao thượng tuyệt vời, mà con người từ lâu thờơ vì không hiểu biết sự lợi ích của nó. Ðến đỗi đức hạnh cẩn trọng tỉnh giác mà họ cũng chẳng biết, chẳng hiểu. Chỉ biết qua những lời khuyên PHẢI CẨN THẬN.

Câu hỏi 2:

"Ông Gandhi bèn cởi ngay chiếc giầy còn lại và ném xuống đường ray, gần nơi chỗ chiếc giầy đã rớt". Câu này dạy đạo đức gì?

Trả lời câu hỏi 2: "Ông Gandhi bèn cởi ngay chiếc giầy còn lại và ném xuống đường ray, gần nơi chỗ chiếc giầy đã rớt". Câu này dạy ÐẠO ÐỨC HIẾU SINH THÂN HÀNH thương người nghèo khó.

Hành động của thánh Gandhi ít có ai làm được, ít có ai nghĩ đến. Khi chiếc giày rơi không thể lấy lại được, nên ông nghĩ ngay sẽ có người nghèo lượm, nhưng có một chiếc không thể dùng được, vì thế ông ném chiếc còn lại cho người nghèo nào đó khi lượm được chiếc này thì sẽ lượm được chiếc kia, Và như vậy mới có đủ cả hai chiếc. Chiếc giày còn lại ông cũng không mang được, và người khác lượm chiếc giày kia cũng không mang được, vì chỉ có một chiếc. Với lòng yêu thương người, ông xét thấy: người ta mang cũng như mình mang, vì thế ông ném chiếc giày còn lại để người lượm sẽ có được hai chiếc giày. Do lòng yêu thương đã biến ra hành động ném lại chiếc giày khiến cho mọi người ngạc nhiên. Hành động ném chiếc giày xuống xe là đức hiếu sinh thân hành tuyệt vời, mang theo đức hạnh bố thí không phí bỏ vật chất.

Ở đời người ta cứ tưởng nghĩ kêu gọi mọi người đóng góp tiền của gạo thóc, rồi đem cho người nghèo mới gọi là bố thí. Bố thí như thánh Gandhi mới thật tâm bố thí, bố thí có tư duy suy nghĩ hẳn hòi, dù một chiếc giày không có giá trị nhưng có ý thức biết ném bỏ bố thí đúng lúc cho người nghèo lượm. Thánh Gandhi bố thí thật là tuyệt vời. Bố thí bằng ý thức thương người, bằng đức hiếu sinh ý hành.

Nếu đức hiếu sinh đã trở thành sự sống của một con người thì không còn một ác pháp nào tác động vào tâm họ được, thì ngay lúc đó họ là người chứng đạo.

Cho nên đạo Phật tu hành không khó, chỉ cần thấu triệt, thấm nhuần một đức hạnh trong năm đức NGŨ GIỚI này thì sự chứng đạo sẽở trong tay.

Một giới đức hiếu sinh thông suốt và thấm nhuần thì tất cả những giới đức khác đều thông suốt. Cho nên chúng ta chỉ học cho thấm nhuần một đức hiếu sinh khi đã trở thành như da thịt của chúng ta, thì lúc bấy giờ đụng đâu cũng là lòng thương yêu của chúng ta, chừng đó tâm chúng ta giải thoát hoàn toàn mà không cần phải tự tu tập một cách khó khăn như trước kia nữa. Trước kia tu tập thường hay phạm giới và bịức chế tâm sinh ra nhiều chướng ngại, nhiều tưởng giải.

Còn ở đây chỉ học đạo đức hiếu sinh để thấu triệt và thấm nhuần, để thân tâm trở thành một thói quen đạo đức, nhờ đó mà tâm thanh tịnh, hoàn toàn bất động không còn phóng dật. Ðây là một phương pháp tu học mới mẻ bằng một chương trình giáo dục đào tạo chứng quả A La Hán hơn là tự tu, tự chứng như từ xưa đã tu tập đến nay, kết quả dường như không đạt được mấy người.

Câu hỏi 3:

"Trước sự ngạc nhiên của những hành khách trên xe. Một hành khách không kiềm được thắc mắc đã lên tiếng hỏi ông: - Tại sao lại làm như vậy?" Câu này dạy đạo đức gì?

Trả lời câu hỏi 3:

"Trước sự ngạc nhiên của những hành khách trên xe. Một hành khách không kiềm được thắc mắc, đã lên tiếng hỏi ông: - Tại sao lại làm như vậy?" Câu này nói lên những hành động THIẾU ÐỨC TỈNH GIÁC SÁNG SUỐT, nên mới có những thắc mắc.

Thường những người không có trí thông minh sáng suốt thường có những thắc mắc để tìm hiểu, nhưng lại có một số người muốn tỏ ra mình là người thông minh sáng suốt nên dùng tưởng giải nói không đúng nghĩa của đề tài bài học đạo đức, nói sai sự thật, biến họ trở thành con người vọng ngôn nói dối, nói không đúng sự thật, đưa ra nhiều ý kiến phi đạo đức, phản lại đạo đức.

Mục đích của chúng ta tu học ở đây là triển khai đạo đức hiếu sinh, để tâm thấm nhuần lòng yêu thương, nhờ đó mới diệt ngã xả tâm, quét sạch lòng tham, sân, si, mạn, nghi. Sự thắc mắc cũng là một đạo đức hiếu học, có đạo đức hiếu học mới thưa hỏi để hiểu biết, có hiểu biết mới trở thành người thông suốt, nhờ thông suốt mới thấm nhuần mọi đạo đức hiếu sinh, ly tham, chung thủy, thành thật và minh mẫn.

Cho nên những người hay thắc mắc thưa hỏi là những người có đức hiếu học. Ðức hiếu học cũng rất cần cho tri kiến giải thoát. Vì thế câu dạy trên đây để chúng ta hiểu thêm một đức hạnh mới, đó là đức hiếu học.

Câu hỏi 4:

"Một người nghèo nào đó tìm thấy chiếc giầy trên đường ray thì họ sẽ tìm thấy chiếc thứ hai, và như vậy họ sẽ có đủ cả đôi để dùng". Câu này dạy đạo đức gì?

Trả lời câu hỏi 4:

"Một người nghèo nào đó tìm thấy chiếc giầy trên đường ray thì họ sẽ tìm thấy chiếc thứ hai, và như vậy họ sẽ có đủ cả đôi để dùng". Câu này dạy ÐẠO ÐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH, nghĩa là tất cả mọi sự việc luôn luôn phải tư duy suy nghĩ thương những người nghèo khổ: thiếu phước cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc; thiếu phước sống nay đau, mai ốm; thiếu phước sống trong tật nguyền, khuyết tật, câm ngọng, cụt tay, cụt chân, đui mù, rối loạn thần kinh, không bình thường.

Làm một việc gì chúng ta cũng cần phải tư duy suy nghĩ cho kỹ lưỡng. Ðó là đức hiếu sinh cẩn trọng tỉnh thức. Bởi vậy, người tư duy suy nghĩ kỹ lưỡng là người có đức cẩn trọng tỉnh thức. Ðức cẩn trọng tỉnh thức trợ giúp cho đức hiếu sinh thương mình, thương người không lầm lạc, không sai lệch. Nên người có đức cẩn trọng là sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Có như vậy đức hiếu sinh mới trọn vẹn.

Lời nói của thánh Gandhi có tư duy, suy nghĩ kỹ lưỡng: "Một người nghèo nào đó tìm thấy chiếc giầy trên đường ray thì họ sẽ tìm thấy chiếc thứ hai, và như vậy họ sẽ có đủ cả đôi để dùng". Lời nói đầy đủ đức hiếu sinh thương người mà tất cả hành khách trên xe đều kính trọng con người có lời nói như vậy.

Lời nói tuy tầm thường nhưng mang tính tâm hồn cao thượng. Ðúng là lời nói của một bậc Thánh. Trong cuộc đấu tranh bất bạo động để giành độc lập cho quê hương đất nước, ông là người nêu cao ngọn đuốc đức hiếu sinh sáng chói tuyệt vời.


Page 24

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NLGPD 2, TG. 2010, tr. 117-121; 208-219)
link sách: NLGPD 2

1.- DÙNG TƯỞNG TU TẬP

LỜI PHẬT DẠY:

“Này các Tỳ Kheo, có mười sáu tưởng này được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến quả lớn, lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh. Thế nào là mười sáu tưởng?

1- Tưởng bất tịnh

2- Tưởng vô thường

3- Tưởng chết

4- Tưởng khổ trên vô thường

5- Tưởng vô ngã trên khổ

6- Tưởng đoạn tận

7- Tưởng ly tham

8- Tưởng đoạn diệt

9- Tưởng vô ngã

10- Tưởng nhàm chán trong các món ăn

11- Tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới

12- Tưởng xương trắng

13- Tưởng trùng ăn

14- Tưởng xanh bầm

15- Tưởng nứt nẻ

16- Tưởng trương phồng

Này các Tỳ Kheo, mười sáu tưởng này được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến quả lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh”. (Tăng Chi Kinh tập 4 trang 380)

CHÚ GIẢI:

Trong pháp tu hành của Phật, chúng ta được phép dùng tưởng để tu tập. Nhưng chúng ta phải hiểu khi dùng tưởng có ích lợi về việc ly dục ly ác pháp trên thân tâm của chúng ta, chứ không phải dùng tưởng xuất hồn, tưởng hào quang, ánh sáng, tưởng Nhân điện, tưởng Khinh công, Khí công, Nội công, tưởng Phật Tánh, tưởng Cực Lạc, Thiên Ðàng, tưởng thế giới siêu hình, tưởng trí tuệ Bát Nhã tánh không, tưởng Chân Không diệu hữu...

Pháp tưởng của Phật dạy là một loại tưởng có như thật. Ý thức không thể thấu suốt quá khứ và vị lai, nó chỉ xác định được trong hiện tại. Vì thế, nó không thể chỉ có lấy thời gian hiện tại mà xác định được vô thường của các pháp. Muốn xác định được sự vô thường của các pháp, thì phải lấy thời gian hiện tại và quá khứ của mọi vật mà so sánh. Cho nên, muốn biết được thân vô thường thì chúng ta nhớtưởng về thân quá khứ (bằng tưởng thức) mà so sánh lại thân hiện tại (bằng Ý thức). Nhờ đó chúng ta mới nhận ra thân chúng ta có nhiều sự thay đổi. Sự thay đổi ấy là sự vô thường. Cho nên, mới gọi là tưởng thân vô thường. Có nghĩa là ngay trong hiện tại thân chúng ta thường thay đổi liên tục từng sát na đi qua (trong từng giây). Tưởng vô ngã, tưởng chết... tưởng xương trắng, tưởng trùng ăn, v.v... đều dùng tưởng uẩn mà quán xét như trên đức Phật đã dạy thì chúng ta sẽ thấy các pháp vô thường, vô ngã, bất tịnh, ... như thật.

Những loại quán tưởng đức Phật đã dạy trên đây là những loại quán tưởng các pháp thấy như thật, chứ không phải là những loại quán tưởng mơ hồ, ảo giác, trừu tượng như kinh sách Ðại Thừa và Thiền Tông phát triển dạy.

Những loại quán tưởng này dùng tưởng uẩn để quán xét sự thật của kiếp người, khiến cho chúng ta thấu suốt và thấy rõ bản chất thật của các pháp trên thế gian này. Nhờ đó, chúng ta không bị chúng lừa đảo và mê hoặc.

Mười sáu đề mục quán tưởng trên đây, nếu chúng ta chịu khó tu tập, làm cho tích tập, làm cho sung mãn thì có lợi ích rất lớn cho cuộc sống của chúng ta, nó giúp cho thân tâm được an lạc và hạnh phúc. Và cuối cùng, tâm có thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh.

Trên đây là lời Phật dạy, các bạn có tin chăng? Nếu các bạn tin thì các bạn cứ quán tưởng theo từng đề mục, khi đề mục này có kết quả thì các bạn quán tưởng đến đề mục khác và cứ tu tập như thế cho đến viên mãn 16 đề mục thì các bạn sẽ thấy tâm tham, sân, si của các bạn không còn nữa, chừng đó các bạn đã nhập vào bất tử tâm định.

Sự quán tưởng 16 đề mục trên đây là để tu tập Ðịnh Vô Lậu. Ðịnh Vô Lậu là một loại định quán tưởng tuyệt vời để đi đến chứng Thánh quả A La Hán.

Xin các bạn lưu ý: Vì pháp quán tưởng này dùng để tâm nhàm chán các pháp thế gian và nhờ đó mới diệt ngã xả tâm, ly dục ly bất thiện pháp hoàn toàn, chứ không nhưpháp môn của Ðại Thừa và Thiền Tông dùng tưởng pháp (thấy các pháp như mộng, như huyễn) để tránh né và đểức chế tâm cho hết vọng tưởng, cuối cùng rơi vào định tưởng (chẳng niệm thiện niệm ác), mà tâm chẳng ly tham đoạn ác pháp.

Qua 16 đề mục quán tưởng để tâm nhàm chán, nhờ có nhàm chán tâm mới xa lìa tham, sân, si mạn, nghi. Theo pháp quán tưởng này các bạn cứ suy ngẫm lại có đúng không? Chúc các bạn thành công tốt đẹp trên pháp hành này.

2.- BỜ BÊN NÀY, BỜ BÊN KIA

LỜI PHẬT DẠY:

“1- Tà kiến, này Bà La Môn, là bờ bên này, Chánh kiến là bờ bên kia.

2- Tà tư duy là bờ bên này, Chánh tư duy là bờ bên kia.

3- Tà ngữ là bờ bên này, Chánh ngữ là bờ bên kia.

4- Tà nghiệp là bờ bên này, Chánh nghiệp là bờ bên kia.

5- Tà mạng là bờ bên này, Chánh mạng là bờ bên kia.

6- Tà tinh tấn là bờ bên này, Chánh tinh tấn là bờ bên kia.

7- Tà niệm là bờ bên này, Chánh niệm là bờ bên kia.

8- Tà định là bờ bên này, Chánh định là bờ bên kia.

9- Tà trí là bờ bên này, Chánh trí là bờ bên kia.

10- Này Bà La Môn, Tà giải thoát là bờ bên này, Chánh giải thoát là bờ bên kia.

Này Bà La Môn, đây là bờ bên này, đây là bờ bên kia”.

“Ít người giữa nhân loại,
Ðến được bờ bên kia
Còn số người còn lại
Xuôi ngược chạy bờ này
Những ai hành trì pháp
Theo Chánh pháp khéo dạy
Sẽ đến bờ bên kia…”. (Tăng Chi Bộ, Chương Mười Pháp, Phẩm Đi Xuống, Kinh (IV) (117) Sangàrava)

CHÚ GIẢI:

Theo Phật giáo xác định cho chúng ta thấy hai lộ trình:

1- Lộ trình đau khổ.

2- Lộ trình hết đau khổ.

Lộ trình đau khổ là bờ bên này, lộ trình hết đau khổ là bờ bên kia. Tà là đau khổ, chánh là hết khổ đau; ác là đau khổ, thiện là hết khổ đau.

Ðọc đoạn kinh trên đây, chúng ta xét thấy sự giải thoát của Phật giáo rất rõ ràng và dễ dàng không có khó khăn. Bởi vì cần có chánh tri kiến hiểu biết thiện và ác là giải thoát ở ngay đó, như bờ bên này và bờ bên kia.

v Đức Phật dạy: “Tà kiến, này Bà La Môn, là bờ bên này, Chánh kiến là bờ bên kia”. Vậy, Tà kiến và Chánh kiến là gì?

Tà kiến là thấy đúng, thấy sai, thấy phải, thấy trái, thấy trắng, thấy đen, thấy tốt, thấy xấu, v.v.. do đó, thường ở bờ bên này chịu nhiều khổ đau.

Chánh kiến là thấy nhân, thấy quả. Do thấy nhân quả như thật nên ở bờ bên kia không còn khổ đau. Chúng tôi thường khuyên mọi người: “Chớ nhìn mọi việc đúng sai phải trái mà hãy nhìn nó là thiện ác thì cuộc đời các bạn sẽđược an vui và hạnh phúc ngay liền”.

v Đức Phật dạy: “Tà tư duy là bờ bên này, Chánh tư duy là bờ bên kia”. Vậy, Tà tư duy và Chánh tư duy nghĩa là gì?

Muốn hiểu rõ lời dạy này thì phải hiểu nghĩa tư duy. Tư duy là sự suy nghĩ.

Tà tư duy là suy nghĩ một điều gì, điều đó làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Nói cho rõ ràng hơn là sự suy nghĩ làm cho chúng ta buồn khổ, phiền não, tức giận căm ghét, thương nhớ, lo sợ, âu sầu, v.v.. Sự suy nghĩ như vậy là không giải thoát mà đức Phật dạy: “Tà tư duy là bờ bên này”. Bờ bên này là bờ đau khổ, địa ngục. Vì thế, Ðạo Phật không chấp nhận những sự tư duy như vậy, đó là những tư duy của người không có trí còn sống trong mê mờ ngu si.

Chánh tư duy là sự suy nghĩ một điều gì mà điều đó không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai. Chánh tư duy là một sự suy nghĩ làm cho chúng ta không buồn phiền, không làm cho ta tức giận, không làm cho ta lo lắng sợ hãi, không làm cho ta bất toại nguyện, v.v… Sự suy nghĩ như vậy, mang đến cho chúng ta một tâm hồn an vui và hạnh phúc biến cảnh thế gian thành cõi Cực Lạc, Thiên Ðàng. Cho nên, đức Phật dạy: “Chánh tư duy là bờ bên kia”. Bờ bên kia tức là bờ giải thoát.

Nếu cuộc sống mà chúng ta khéo Chánh tưduy như vậy, thì lúc nào tâm hồn cũng thanh thản, an lạc và vô sự, không còn một ác pháp nào tác động được thân tâm thì chúng ta đã chứng quả A La Hán, đâu còn gì mà tu tập nữa.

Phải không các bạn? Cho nên, bờ bên kia là bờ của những bậc A La Hán ở.

v Ðức Phật dạy: “Tà ngữ là bờ bên này, Chánh ngữ là bờ bên kia”. Vậy, Tà ngữ và Chánh ngữ nghĩa là gì?

Tà ngữ là lời nói ác. Lời nói ác có bốn:

1- Nói lời hung dữ

2- Nói lời đâm thọc

3- Nói lời lật lọng

4- Nói lời không thật

Người nào còn nói những lời ác ngữ là còn ở bờ bên này, bờ bên này là bờ đau khổ. Chính lời ác khẩu là sự đau khổ của người có lời nói ấy, khi ta nói lời tà ngữ ấy là địa ngục mở cửa đón ta.

Chánh ngữ là những lời nói thiện. Lời nói thiện có bốn:

1- Không nói lời hung dữ

2- Không nói lời đâm thọc

3- Không nói lời lật lọng

4- Không nói lời không thật

Lời nói không làm khổ mình, khổ người là lời nói thiện, lời nói ấy là chánh ngữ, nếu ai đã từng nói những lời nói này là người ở bờ bên kia, bờ giải thoát, như vậy chứng quả A La Hán đâu phải khó. Phải không các bạn?

v Ðức Phật dạy: “Tà nghiệp là bờ bên này, Chánh nghiệp là bờ bên kia”. Vậy, Tà nghiệp và Chánh nghiệp là gì?

Tà nghiệp là những hành động làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai. Nếu ai có những hành động như vậy là người ấy đang mở cửa địa ngục, đang ở bờ bên này, bờ khổ đau.

Chánh nghiệp là những hành động không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai. Chánh nghiệp là những hành động mở cửa Thiên Ðàng cho chúng ta bước vào. Ai từng có những hành động này là ở bờ bên kia. Bờ bên kia là bờ giải thoát, bờ giải thoát là bờ vô lậu. Như vậy, chứng quả A La Hán đâu phải khó khăn. Phải không các bạn?

v Ðức Phật dạy: “Tà mạng là bờ bên này, Chánh mạng là bờ bên kia”. Vậy, Tà mạng và Chánh mạng nghĩa là gì?

Tà mạng là nuôi mạng sống không chân chánh có nghĩa là ăn uống và ngủ nghỉ phi thời, ăn uống không tiết độ, ăn uống những thức ăn độc vào thân, ăn uống thích món ngon vật lạ, cao lương mỹ vị. Người ăn uống phi thời như vậy là mở cửa địa ngục, là ở bờ bên này. Ở bờ bên này là bờ đau khổ.

Chánh mạng là ăn uống không phi thời, ăn uống có tiết độ, ăn để sống chứkhông phải ăn cho ngon, ăn cho bổ mập, ăn những cao lương mỹ vị. Chánh mạng không bao giờ ăn thịt chúng sanh. Chánh mạng là nuôi mạng sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Chánh mạng là ở bờ bên kia, bờ giải thoát, bờ vô lậu. Như vậy chứng quả A La Hán đâu phải khó. Phải không các bạn?

v Ðức Phật dạy: “Tà tinh tấn là bờ bên này, Chánh tinh tấn là bờ bên kia”. Vậy, Tà tinh tấn và Chánh tinh tấn nghĩa là gì? Tinh tấn có nghĩa là siêng năng. Tà tinh tấn là siêng làm điều ác, luôn luôn làm khổ mình, khổ người, khổ tất cả chúng sanh. Người siêng năng làm điều ác là người mở cửa địa ngục cho mình là người ở bờ bên này, bờ đau khổ.

Chánh tinh tấn là hằng ngày siêng ngăn ác diệt ác pháp, luôn luôn sinh thiện tăngtrưởng thiện pháp. Người nào luôn luôn sống Chánh tinh tấn như vậy là người mở cửa Thiên Ðàng, là người ở bờ bên kia, bờ giải thoát, bờ không còn khổ đau. Như vậy, chứng quả A la Hán không có khó khăn, không có mệt nhọc. Phải không các bạn?

v Ðức Phật dạy: “Tà niệm là bờ bên này, Chánh niệm là bờ bên kia”. Vậy, Tà niệm và Chánh niệm nghĩa là gì?

Tà niệm là pháp môn của ngoại đạo, người tu tập theo pháp của ngoại đạo như: tụng kinh, niệm chú, niệm Phật bắt ấn, ngồi thiền ức chế tâm, tụng kinh cầu siêu, cầu an, cúng sao giải hạn, trừ tà yểm quỷ, v.v… Người nào chuyên tu hành những pháp môn ấy là mở cửa địa ngục, sẽ lọt vào thế giới tưởng, sẽ bị bệnh thần kinh điên khùng, là người ở bờ bên này, bờ bên này là bờ đau khổ, bờ không giải thoát.

Chánh niệm là pháp môn Tứ Niệm Xứ, người nào tu pháp môn này sẽ có giải thoát ngay liền, họ đang ở bờ bên kia, bờ không còn đau khổ, bờ không còn lậu hoặc, chỉ trong vòng 7 ngày, 7 tháng, 7 năm là viên mãn. Như vậy, chứng quả A La Hán đâu có gì khó khăn. Phải không các bạn?

v Ðức Phật dạy: “Tà định là bờ bên này, Chánh định là bờ bên kia”. Vậy, Tà định và Chánh định nghĩa là gì?

Tà định là những thiền định của ngoại đạo, như Bốn Thiền Vô Sắc: Không Vô Biên Xứ Tưởng, Thức Vô Biên Xứ Tưởng, Vô Sở Hữu Xứ Tưởng, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Tưởng, Thiền Tri Vọng, Thiền Công Án, Thiền Minh Sát Tuệ, v.v... những loại thiền định này không làm chủ sanh, già, bệnh, chết, không chấm dứt tái sanh luân hồi. Nó là những Tà định là ở bờ bên nay, bờ đau khổ, bờ địa ngục không giải thoát.

Chánh định là Tứ Thánh Ðịnh, pháp môn thiền định của Phật giáo. Người nào tu tập Tứ Thánh Ðịnh là đang ở bờ bên kia, bờ giải thoát. Tứ Thánh Ðịnh là pháp môn làm chủ sanh, già, bệnh, chết, nhưng muốn nhập được Tứ Thánh Ðịnh là phải có Tứ Như Ý Túc. Người có Tứ Như Ý Túc là người ở bờ bên kia. Như vậy, chứng quả A La Hán đâu phải khó khăn. Phải không các bạn?

Ðức Phật dạy: “Tà trí là bờ bên này, Chánh trí là bờ bên kia”. Vậy, Tà trí và Chánh trí nghĩa là gì?

Tà trí là tri kiến không có giới luật, tri kiến không có giới luật là tri kiến ác, ác với mình, với người và ác cả hai, tri kiến không giới luật là tri kiến làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Người có tri kiến này là người khổ đau, người ở bờ bên này, người ở trong địa ngục.

Chánh trí là tri kiến có giới luật như đức Phật đã dạy: “Tri kiến ở đâu thì giới luật ở đó, giới luật ở đâu thì tri kiến ở đó. Giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật”. Nếu một người sống có tri kiến và giới luật như vậy, là ở bờ bên kia, bờ giải thoát. Như vậy, chứng quả A La Hán đâu phải khó khăn như mọi người nghĩ. Phải không các bạn?

Ðức Phật dạy: “Này Bà La Môn, Tà giải thoát là bờ bên này, Chánh giải thoát là bờ bên kia”. Vậy, Tà giải thoát và Chánh giải thoát là gì?

Tà giải thoát là tu tập cầu mong gặp Tổ, gặp Phật, có thần thông biến hóa tàng hình, biết chuyện quá khứ vị lai, ngồi thiền sinh hỷ lạc, ngồi thiền thấy xuất hồn, ngồi thiền thấy hào quang ánh sáng, nghe âm thinh trong tai, nghe mùi hương thơm ngào ngạt, nghe vị ngọt trong cổ, v.v.. Ðó là Tà giải thoát, nên tâm còn tham sân si ngút ngàn, vì thế luôn luôn lúc nào cũng ở bên bờ bên này, bờ đau khổ.

Chánh giải thoát là tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ, tâm thanh thản, an lạc và vô sự, tâm không phóng dật đó là ở bờ bên kia, bờ giải thoát, tâm vô lậu. Như vậy, tu chứng quả A La hán đâu phải khó khăn.Phải không các bạn?

Ðoạn kinh này xác định có 10 pháp ở bờbên kia hay nói cách khác là đoạn kinh này dạy chúng ta nên chọn lấy một pháp trong 10 pháp này để sống đúng lời dạy thì luôn luôn ở bờ bên kia tức là chứng quả A La Hán. Cho nên, tóm lược bài pháp này bằng những câu kệ xác định bờ bên này và bờ bên kia. Ðức Phật dạy: “Này Bà La Môn, đây là bờ bên này, đây là bờ bên kia”.

“Ít người giữa nhân loại
Ðến được bờ bên kia
Còn số người còn lại
Xuôi ngược chạy bờ này
Những ai hành trì pháp
Theo Chánh pháp khéo dạy
Sẽ đến bờ bên kia…”

Người ở đời vì vô minh lầm chấp cho các pháp thế gian là thật có, nên không dám buông bỏ, vì thế mà chạy xuôi, chạy ngược, chịu khổđau vô cùng vô tận, chứ không phải chứng quả A La Hán của Phật là khó. Khó là do không buông xả dục và các pháp.


Page 25

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NLGPD 2, TG. 2010, tr. 117-121; 208-219)
link sách: NLGPD 2

1.- DÙNG TƯỞNG TU TẬP

LỜI PHẬT DẠY:

“Này các Tỳ Kheo, có mười sáu tưởng này được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến quả lớn, lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh. Thế nào là mười sáu tưởng?

1- Tưởng bất tịnh

2- Tưởng vô thường

3- Tưởng chết

4- Tưởng khổ trên vô thường

5- Tưởng vô ngã trên khổ

6- Tưởng đoạn tận

7- Tưởng ly tham

8- Tưởng đoạn diệt

9- Tưởng vô ngã

10- Tưởng nhàm chán trong các món ăn

11- Tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới

12- Tưởng xương trắng

13- Tưởng trùng ăn

14- Tưởng xanh bầm

15- Tưởng nứt nẻ

16- Tưởng trương phồng

Này các Tỳ Kheo, mười sáu tưởng này được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến quả lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh”. (Tăng Chi Kinh tập 4 trang 380)

CHÚ GIẢI:

Trong pháp tu hành của Phật, chúng ta được phép dùng tưởng để tu tập. Nhưng chúng ta phải hiểu khi dùng tưởng có ích lợi về việc ly dục ly ác pháp trên thân tâm của chúng ta, chứ không phải dùng tưởng xuất hồn, tưởng hào quang, ánh sáng, tưởng Nhân điện, tưởng Khinh công, Khí công, Nội công, tưởng Phật Tánh, tưởng Cực Lạc, Thiên Ðàng, tưởng thế giới siêu hình, tưởng trí tuệ Bát Nhã tánh không, tưởng Chân Không diệu hữu...

Pháp tưởng của Phật dạy là một loại tưởng có như thật. Ý thức không thể thấu suốt quá khứ và vị lai, nó chỉ xác định được trong hiện tại. Vì thế, nó không thể chỉ có lấy thời gian hiện tại mà xác định được vô thường của các pháp. Muốn xác định được sự vô thường của các pháp, thì phải lấy thời gian hiện tại và quá khứ của mọi vật mà so sánh. Cho nên, muốn biết được thân vô thường thì chúng ta nhớtưởng về thân quá khứ (bằng tưởng thức) mà so sánh lại thân hiện tại (bằng Ý thức). Nhờ đó chúng ta mới nhận ra thân chúng ta có nhiều sự thay đổi. Sự thay đổi ấy là sự vô thường. Cho nên, mới gọi là tưởng thân vô thường. Có nghĩa là ngay trong hiện tại thân chúng ta thường thay đổi liên tục từng sát na đi qua (trong từng giây). Tưởng vô ngã, tưởng chết... tưởng xương trắng, tưởng trùng ăn, v.v... đều dùng tưởng uẩn mà quán xét như trên đức Phật đã dạy thì chúng ta sẽ thấy các pháp vô thường, vô ngã, bất tịnh, ... như thật.

Những loại quán tưởng đức Phật đã dạy trên đây là những loại quán tưởng các pháp thấy như thật, chứ không phải là những loại quán tưởng mơ hồ, ảo giác, trừu tượng như kinh sách Ðại Thừa và Thiền Tông phát triển dạy.

Những loại quán tưởng này dùng tưởng uẩn để quán xét sự thật của kiếp người, khiến cho chúng ta thấu suốt và thấy rõ bản chất thật của các pháp trên thế gian này. Nhờ đó, chúng ta không bị chúng lừa đảo và mê hoặc.

Mười sáu đề mục quán tưởng trên đây, nếu chúng ta chịu khó tu tập, làm cho tích tập, làm cho sung mãn thì có lợi ích rất lớn cho cuộc sống của chúng ta, nó giúp cho thân tâm được an lạc và hạnh phúc. Và cuối cùng, tâm có thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh.

Trên đây là lời Phật dạy, các bạn có tin chăng? Nếu các bạn tin thì các bạn cứ quán tưởng theo từng đề mục, khi đề mục này có kết quả thì các bạn quán tưởng đến đề mục khác và cứ tu tập như thế cho đến viên mãn 16 đề mục thì các bạn sẽ thấy tâm tham, sân, si của các bạn không còn nữa, chừng đó các bạn đã nhập vào bất tử tâm định.

Sự quán tưởng 16 đề mục trên đây là để tu tập Ðịnh Vô Lậu. Ðịnh Vô Lậu là một loại định quán tưởng tuyệt vời để đi đến chứng Thánh quả A La Hán.

Xin các bạn lưu ý: Vì pháp quán tưởng này dùng để tâm nhàm chán các pháp thế gian và nhờ đó mới diệt ngã xả tâm, ly dục ly bất thiện pháp hoàn toàn, chứ không nhưpháp môn của Ðại Thừa và Thiền Tông dùng tưởng pháp (thấy các pháp như mộng, như huyễn) để tránh né và đểức chế tâm cho hết vọng tưởng, cuối cùng rơi vào định tưởng (chẳng niệm thiện niệm ác), mà tâm chẳng ly tham đoạn ác pháp.

Qua 16 đề mục quán tưởng để tâm nhàm chán, nhờ có nhàm chán tâm mới xa lìa tham, sân, si mạn, nghi. Theo pháp quán tưởng này các bạn cứ suy ngẫm lại có đúng không? Chúc các bạn thành công tốt đẹp trên pháp hành này.

2.- BỜ BÊN NÀY, BỜ BÊN KIA

LỜI PHẬT DẠY:

“1- Tà kiến, này Bà La Môn, là bờ bên này, Chánh kiến là bờ bên kia.

2- Tà tư duy là bờ bên này, Chánh tư duy là bờ bên kia.

3- Tà ngữ là bờ bên này, Chánh ngữ là bờ bên kia.

4- Tà nghiệp là bờ bên này, Chánh nghiệp là bờ bên kia.

5- Tà mạng là bờ bên này, Chánh mạng là bờ bên kia.

6- Tà tinh tấn là bờ bên này, Chánh tinh tấn là bờ bên kia.

7- Tà niệm là bờ bên này, Chánh niệm là bờ bên kia.

8- Tà định là bờ bên này, Chánh định là bờ bên kia.

9- Tà trí là bờ bên này, Chánh trí là bờ bên kia.

10- Này Bà La Môn, Tà giải thoát là bờ bên này, Chánh giải thoát là bờ bên kia.

Này Bà La Môn, đây là bờ bên này, đây là bờ bên kia”.

“Ít người giữa nhân loại,
Ðến được bờ bên kia
Còn số người còn lại
Xuôi ngược chạy bờ này
Những ai hành trì pháp
Theo Chánh pháp khéo dạy
Sẽ đến bờ bên kia…”. (Tăng Chi Bộ, Chương Mười Pháp, Phẩm Đi Xuống, Kinh (IV) (117) Sangàrava)

CHÚ GIẢI:

Theo Phật giáo xác định cho chúng ta thấy hai lộ trình:

1- Lộ trình đau khổ.

2- Lộ trình hết đau khổ.

Lộ trình đau khổ là bờ bên này, lộ trình hết đau khổ là bờ bên kia. Tà là đau khổ, chánh là hết khổ đau; ác là đau khổ, thiện là hết khổ đau.

Ðọc đoạn kinh trên đây, chúng ta xét thấy sự giải thoát của Phật giáo rất rõ ràng và dễ dàng không có khó khăn. Bởi vì cần có chánh tri kiến hiểu biết thiện và ác là giải thoát ở ngay đó, như bờ bên này và bờ bên kia.

v Đức Phật dạy: “Tà kiến, này Bà La Môn, là bờ bên này, Chánh kiến là bờ bên kia”. Vậy, Tà kiến và Chánh kiến là gì?

Tà kiến là thấy đúng, thấy sai, thấy phải, thấy trái, thấy trắng, thấy đen, thấy tốt, thấy xấu, v.v.. do đó, thường ở bờ bên này chịu nhiều khổ đau.

Chánh kiến là thấy nhân, thấy quả. Do thấy nhân quả như thật nên ở bờ bên kia không còn khổ đau. Chúng tôi thường khuyên mọi người: “Chớ nhìn mọi việc đúng sai phải trái mà hãy nhìn nó là thiện ác thì cuộc đời các bạn sẽđược an vui và hạnh phúc ngay liền”.

v Đức Phật dạy: “Tà tư duy là bờ bên này, Chánh tư duy là bờ bên kia”. Vậy, Tà tư duy và Chánh tư duy nghĩa là gì?

Muốn hiểu rõ lời dạy này thì phải hiểu nghĩa tư duy. Tư duy là sự suy nghĩ.

Tà tư duy là suy nghĩ một điều gì, điều đó làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Nói cho rõ ràng hơn là sự suy nghĩ làm cho chúng ta buồn khổ, phiền não, tức giận căm ghét, thương nhớ, lo sợ, âu sầu, v.v.. Sự suy nghĩ như vậy là không giải thoát mà đức Phật dạy: “Tà tư duy là bờ bên này”. Bờ bên này là bờ đau khổ, địa ngục. Vì thế, Ðạo Phật không chấp nhận những sự tư duy như vậy, đó là những tư duy của người không có trí còn sống trong mê mờ ngu si.

Chánh tư duy là sự suy nghĩ một điều gì mà điều đó không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai. Chánh tư duy là một sự suy nghĩ làm cho chúng ta không buồn phiền, không làm cho ta tức giận, không làm cho ta lo lắng sợ hãi, không làm cho ta bất toại nguyện, v.v… Sự suy nghĩ như vậy, mang đến cho chúng ta một tâm hồn an vui và hạnh phúc biến cảnh thế gian thành cõi Cực Lạc, Thiên Ðàng. Cho nên, đức Phật dạy: “Chánh tư duy là bờ bên kia”. Bờ bên kia tức là bờ giải thoát.

Nếu cuộc sống mà chúng ta khéo Chánh tưduy như vậy, thì lúc nào tâm hồn cũng thanh thản, an lạc và vô sự, không còn một ác pháp nào tác động được thân tâm thì chúng ta đã chứng quả A La Hán, đâu còn gì mà tu tập nữa.

Phải không các bạn? Cho nên, bờ bên kia là bờ của những bậc A La Hán ở.

v Ðức Phật dạy: “Tà ngữ là bờ bên này, Chánh ngữ là bờ bên kia”. Vậy, Tà ngữ và Chánh ngữ nghĩa là gì?

Tà ngữ là lời nói ác. Lời nói ác có bốn:

1- Nói lời hung dữ

2- Nói lời đâm thọc

3- Nói lời lật lọng

4- Nói lời không thật

Người nào còn nói những lời ác ngữ là còn ở bờ bên này, bờ bên này là bờ đau khổ. Chính lời ác khẩu là sự đau khổ của người có lời nói ấy, khi ta nói lời tà ngữ ấy là địa ngục mở cửa đón ta.

Chánh ngữ là những lời nói thiện. Lời nói thiện có bốn:

1- Không nói lời hung dữ

2- Không nói lời đâm thọc

3- Không nói lời lật lọng

4- Không nói lời không thật

Lời nói không làm khổ mình, khổ người là lời nói thiện, lời nói ấy là chánh ngữ, nếu ai đã từng nói những lời nói này là người ở bờ bên kia, bờ giải thoát, như vậy chứng quả A La Hán đâu phải khó. Phải không các bạn?

v Ðức Phật dạy: “Tà nghiệp là bờ bên này, Chánh nghiệp là bờ bên kia”. Vậy, Tà nghiệp và Chánh nghiệp là gì?

Tà nghiệp là những hành động làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai. Nếu ai có những hành động như vậy là người ấy đang mở cửa địa ngục, đang ở bờ bên này, bờ khổ đau.

Chánh nghiệp là những hành động không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai. Chánh nghiệp là những hành động mở cửa Thiên Ðàng cho chúng ta bước vào. Ai từng có những hành động này là ở bờ bên kia. Bờ bên kia là bờ giải thoát, bờ giải thoát là bờ vô lậu. Như vậy, chứng quả A La Hán đâu phải khó khăn. Phải không các bạn?

v Ðức Phật dạy: “Tà mạng là bờ bên này, Chánh mạng là bờ bên kia”. Vậy, Tà mạng và Chánh mạng nghĩa là gì?

Tà mạng là nuôi mạng sống không chân chánh có nghĩa là ăn uống và ngủ nghỉ phi thời, ăn uống không tiết độ, ăn uống những thức ăn độc vào thân, ăn uống thích món ngon vật lạ, cao lương mỹ vị. Người ăn uống phi thời như vậy là mở cửa địa ngục, là ở bờ bên này. Ở bờ bên này là bờ đau khổ.

Chánh mạng là ăn uống không phi thời, ăn uống có tiết độ, ăn để sống chứkhông phải ăn cho ngon, ăn cho bổ mập, ăn những cao lương mỹ vị. Chánh mạng không bao giờ ăn thịt chúng sanh. Chánh mạng là nuôi mạng sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Chánh mạng là ở bờ bên kia, bờ giải thoát, bờ vô lậu. Như vậy chứng quả A La Hán đâu phải khó. Phải không các bạn?

v Ðức Phật dạy: “Tà tinh tấn là bờ bên này, Chánh tinh tấn là bờ bên kia”. Vậy, Tà tinh tấn và Chánh tinh tấn nghĩa là gì? Tinh tấn có nghĩa là siêng năng. Tà tinh tấn là siêng làm điều ác, luôn luôn làm khổ mình, khổ người, khổ tất cả chúng sanh. Người siêng năng làm điều ác là người mở cửa địa ngục cho mình là người ở bờ bên này, bờ đau khổ.

Chánh tinh tấn là hằng ngày siêng ngăn ác diệt ác pháp, luôn luôn sinh thiện tăngtrưởng thiện pháp. Người nào luôn luôn sống Chánh tinh tấn như vậy là người mở cửa Thiên Ðàng, là người ở bờ bên kia, bờ giải thoát, bờ không còn khổ đau. Như vậy, chứng quả A la Hán không có khó khăn, không có mệt nhọc. Phải không các bạn?

v Ðức Phật dạy: “Tà niệm là bờ bên này, Chánh niệm là bờ bên kia”. Vậy, Tà niệm và Chánh niệm nghĩa là gì?

Tà niệm là pháp môn của ngoại đạo, người tu tập theo pháp của ngoại đạo như: tụng kinh, niệm chú, niệm Phật bắt ấn, ngồi thiền ức chế tâm, tụng kinh cầu siêu, cầu an, cúng sao giải hạn, trừ tà yểm quỷ, v.v… Người nào chuyên tu hành những pháp môn ấy là mở cửa địa ngục, sẽ lọt vào thế giới tưởng, sẽ bị bệnh thần kinh điên khùng, là người ở bờ bên này, bờ bên này là bờ đau khổ, bờ không giải thoát.

Chánh niệm là pháp môn Tứ Niệm Xứ, người nào tu pháp môn này sẽ có giải thoát ngay liền, họ đang ở bờ bên kia, bờ không còn đau khổ, bờ không còn lậu hoặc, chỉ trong vòng 7 ngày, 7 tháng, 7 năm là viên mãn. Như vậy, chứng quả A La Hán đâu có gì khó khăn. Phải không các bạn?

v Ðức Phật dạy: “Tà định là bờ bên này, Chánh định là bờ bên kia”. Vậy, Tà định và Chánh định nghĩa là gì?

Tà định là những thiền định của ngoại đạo, như Bốn Thiền Vô Sắc: Không Vô Biên Xứ Tưởng, Thức Vô Biên Xứ Tưởng, Vô Sở Hữu Xứ Tưởng, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Tưởng, Thiền Tri Vọng, Thiền Công Án, Thiền Minh Sát Tuệ, v.v... những loại thiền định này không làm chủ sanh, già, bệnh, chết, không chấm dứt tái sanh luân hồi. Nó là những Tà định là ở bờ bên nay, bờ đau khổ, bờ địa ngục không giải thoát.

Chánh định là Tứ Thánh Ðịnh, pháp môn thiền định của Phật giáo. Người nào tu tập Tứ Thánh Ðịnh là đang ở bờ bên kia, bờ giải thoát. Tứ Thánh Ðịnh là pháp môn làm chủ sanh, già, bệnh, chết, nhưng muốn nhập được Tứ Thánh Ðịnh là phải có Tứ Như Ý Túc. Người có Tứ Như Ý Túc là người ở bờ bên kia. Như vậy, chứng quả A La Hán đâu phải khó khăn. Phải không các bạn?

Ðức Phật dạy: “Tà trí là bờ bên này, Chánh trí là bờ bên kia”. Vậy, Tà trí và Chánh trí nghĩa là gì?

Tà trí là tri kiến không có giới luật, tri kiến không có giới luật là tri kiến ác, ác với mình, với người và ác cả hai, tri kiến không giới luật là tri kiến làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Người có tri kiến này là người khổ đau, người ở bờ bên này, người ở trong địa ngục.

Chánh trí là tri kiến có giới luật như đức Phật đã dạy: “Tri kiến ở đâu thì giới luật ở đó, giới luật ở đâu thì tri kiến ở đó. Giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật”. Nếu một người sống có tri kiến và giới luật như vậy, là ở bờ bên kia, bờ giải thoát. Như vậy, chứng quả A La Hán đâu phải khó khăn như mọi người nghĩ. Phải không các bạn?

Ðức Phật dạy: “Này Bà La Môn, Tà giải thoát là bờ bên này, Chánh giải thoát là bờ bên kia”. Vậy, Tà giải thoát và Chánh giải thoát là gì?

Tà giải thoát là tu tập cầu mong gặp Tổ, gặp Phật, có thần thông biến hóa tàng hình, biết chuyện quá khứ vị lai, ngồi thiền sinh hỷ lạc, ngồi thiền thấy xuất hồn, ngồi thiền thấy hào quang ánh sáng, nghe âm thinh trong tai, nghe mùi hương thơm ngào ngạt, nghe vị ngọt trong cổ, v.v.. Ðó là Tà giải thoát, nên tâm còn tham sân si ngút ngàn, vì thế luôn luôn lúc nào cũng ở bên bờ bên này, bờ đau khổ.

Chánh giải thoát là tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ, tâm thanh thản, an lạc và vô sự, tâm không phóng dật đó là ở bờ bên kia, bờ giải thoát, tâm vô lậu. Như vậy, tu chứng quả A La hán đâu phải khó khăn.Phải không các bạn?

Ðoạn kinh này xác định có 10 pháp ở bờbên kia hay nói cách khác là đoạn kinh này dạy chúng ta nên chọn lấy một pháp trong 10 pháp này để sống đúng lời dạy thì luôn luôn ở bờ bên kia tức là chứng quả A La Hán. Cho nên, tóm lược bài pháp này bằng những câu kệ xác định bờ bên này và bờ bên kia. Ðức Phật dạy: “Này Bà La Môn, đây là bờ bên này, đây là bờ bên kia”.

“Ít người giữa nhân loại
Ðến được bờ bên kia
Còn số người còn lại
Xuôi ngược chạy bờ này
Những ai hành trì pháp
Theo Chánh pháp khéo dạy
Sẽ đến bờ bên kia…”

Người ở đời vì vô minh lầm chấp cho các pháp thế gian là thật có, nên không dám buông bỏ, vì thế mà chạy xuôi, chạy ngược, chịu khổđau vô cùng vô tận, chứ không phải chứng quả A La Hán của Phật là khó. Khó là do không buông xả dục và các pháp.


Page 26

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích NLGPD, tập 4, TG. 2010, tr. 05-14)
link sách: NLGPD, tập 4

Bộ sách “Văn Hóa Phật Giáo Những Lời Phật Dạy” từ tập 1, 2, 3 đã tạm đủ các pháp hành từ thấp đến cao, nhưng khi tu tập mỗi pháp còn tùy theo đặc tướng của các bạn, nếu đặc tướng của các bạn hợp với pháp nào thì ôm ngay pháp đó mà tu tập cho đến khi giải thoát hoàn toàn.

Hôm nay “Lời Phật Dạy” tập 4 ra đời là để cùng các bạn hiểu biết rõ ràng những danh từ, những ý nghĩa trong những bài kinh Phật thuyết thuộc kinh Nguyên thủy mà những người tu tập chưa chứng đạo, cứ dựa vào tưởng giải của mình, của những học giả xưa, rồi luận ra lý này lẽ kia, thành hiểu sai ý Phật, biến giáo pháp chân chánh của Phật thành giáo pháp ảo tưởng của ngoại đạo Bà La Môn, khiến cho người đời sau tu hành chẳng ly dục ly ác pháp, nên giới luật đức hạnh của bậc chân tu không còn nữa.

Trong tập 4 này chúng tôi chọn một số các bài kinh mà đức Phật đã chỉ dạy như: kinh Tam minh, kinh Niết bàn, kinh Tiểu không, kinh Ðại không, kinh Canki, v.v... mà một số hệ phái đã hiểu sai nghĩa. Nên buộc lòng chúng tôi phải chú giải một cách tường tận làm sáng nghĩa giáo pháp thực hành và đạo đức của Phật giáo để các nhà học giả không còn tưởng giải sai lệch khiến cho giáo pháp của đức Phật mâu thuẫn lại lời dạy của đức Phật.

Sự hiểu lầm Chánh pháp của Phật đã có hơn 2000 năm từ khi đức Phật nhập Niết bàn. Những sự hiểu lầm này khiến cho con đường chánh pháp của đạo Phật nhiều lúc bị lu mờ.

Do sự tu hành của các tu sĩ đời sau không đúng Chánh Pháp, chưa đạt kết quả đến nơi đến chốn, cho nên cứ dựa trên chữ nghĩa mà giải bằng tưởng tri thì làm sao hiểu đúng nghĩa chánh pháp để hành trì cho được! Phải không các bạn? Phật pháp không khó hiểu nhưng vì không có ngưới tu hành chứng đạo khai thị nên người ta hiểu sai nghĩa. Hiểu sai nghĩa nên rất khó tu. Vì hiểu sai nghĩa nên người ta nghĩ rằng Phật giáo là tôn giáo có thần thông pháp thuật cao siêu, chứ người ta đâu biết rằng Phật giáo chỉở chỗ tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ; Phật giáo chỉở chỗ sống không làm khổ mình, khổngười và khổ cả hai; Phật giáo chỉ ở chỗ thiện pháp, vô lậu tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Những trạng thái tâm này là tâm buông xả ly dục ly ác pháp, là tâm không phóng dật.

Người tu hành chỉ có nhất tâm quyết buông xả tất cả các ác pháp thì các bạn đã thành tựu viên mãn ngay liền tức khắc, chứ đâu phải tu tập khó khăn mệt nhọc. Có người bảo rằng: tu tập phải có đạo lực để làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi, phải nhập được Bốn thiền, phải có Tam Minh, phải có Niết bàn, phải có cõi Cực Lạc, phải có Phật tánh, phải biết ngày giờ chết, sống chết phải tự tại, v.v…

Nghĩ như vậy các bạn đã đi lạc đề. Đối với Phật giáo các bạn không nên nghĩ như vậy. Nghĩ như vậy vô tình các bạn biến Phật giáo thành một tôn giáo thần thông; nghĩ như vậy vô tình các bạn biến Phật giáo thành một tôn giáo để làm gạch nối giữa con người và thế giới siêu hình; nghĩ như vậy vô tình các bạn biến Phật giáo thành một bản thể thường hằng vĩ đại của vạn hữu; nghĩ như vậy nên vô tình các bạn đưa ra những lý luận, những triết lý cao siêu tuyệt đỉnh của trí tuệ như trí tuệ Bát Nhã (Tánh không); nghĩ như vậy vô tình các bạn biến Phật giáo thành một tôn giáo mê tín, v.v... Do những sự nghĩ sai lệch ấy, biến Phật giáo thành một triết học vi diệu cao siêu để tranh luận hơn thua với các hệ phái khác, với tôn giáo khác và cũng chính để lý luận đánh lừa mình và mọi người.

Kính thưa các bạn! Phật giáo không phải là tôn giáo, không phải là đảng phái chánh trị, không phải một đế quốc lợi dụng thần quyền cai trị thế giới. Phật giáo chỉ là một nền đạo đức nhân bản -nhân quả của loài người. Lời Phật dạy là những ngôn ngữ bình dân, giản dị. Phật chỉ có nhắc lại những gì của con người đã có sẵn, chứ không sáng tạo ra cái gì mới cả và cũng không bịa đặt, thêu dệt những chuyện ảo tưởng, hư cấu, và cũng không sử dụng quyền năng siêu việt của bản thân mình để lừa đảo mọi người theo mình. Nếu hiểu Phật giáo theo cách cao siêu ảo tưởng thì sẽ sai nghĩa.

Khi tu tập ly dục ly ác pháp, tâm trở thành bất động trước các ác pháp và các cảm thọ thì tâm thanh tịnh hoàn toàn. Tâm thanh tịnh hoàn toàn thì tự có bảy năng lực Giác Chi xuất hiện. Bảy năng lực Giác Chi xuất hiện tức là Tứ Thần Túc. Khi có Tứ Thần Túc bấy giờ các bạn muốn sử dụng như thế nào tùy ý.

Kính thưa các bạn! Người tu sĩ Phật giáo không bao giờ thị hiện thần thông, chỉ thị hiện một đời sống đức hạnh giải thoát làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà thôi.

Tập 4 Những Lời Phật Dạy này chúng tôi cố gắng giải thích để các bạn hiểu đúng nghĩa của Lời Phật Dạy. Trong khi chú giải nghĩa lý này chúng tôi đứng trên cương vị một người đã từng tu tập những lời Phật dạy, đã làm chủ được 4 sự đau khổ: sanh, già, bệnh, chết mà chú thích chứ không bịảnh hưởng những kinh sách tưởng giải của các hệ phái khác.

Nếu ai bảo rằng chúng tôi chú thích sai thì hãy tu tập làm chủ được sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi thì mới luận bàn, còn nếu chưa làm chủ được THÂN – TÂM – CẢNH còn bị trôi lăn trong lục đạo thì xin quý vị hãy nên lắng nghe để suy ngẫm.

Tóm lại, đạo Phật chỉ khơi lại nền đạo đức của loài người bằng chương trình giáo dục đào tạo ba cấp Giới, Ðịnh, Tuệ và tám lớp học Bát Chánh Ðạo.

Tám lớp học này để đào tạo thành những người có đủ đức hạnh: Sống không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh, tức là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ hay nói cách khác là “ Tâm thanh thản, an lạc và vô sự”.

Cho nên, mục đích của Phật giáo là đạo đức nhân bản – nhân quả; là tâm bất động, chứ không phải đào tạo thành ông Thánh, ông Thần nào mà chỉ đào tạo con người thực là con người có đạo đức sống trong cảnh thế gian nhưng luônđược an lạc hạnh phúc, chớ chẳng phải tu hành để cầu mong khi chết được sanh lên cõi Cực lạc hay Thiên đàng gì cả.

Kính thưa các bạn! Tập sách nhỏ này ra đời nhằm chỉnh đốn những điều xưa nay hiểu sai lầm về những lời dạy của Phật, để mọi người hiểu cho đúng nghĩa của Phật giáo mà không bịảnh hưởng sai lệch làm mất đi ý nghĩa những lời nguyên thủy của đức Phật đã dạy.

Sau cùng, với tập sách nhỏ này chúng tôi ước mong nó sẽ mang laị sự lợi ích lớn cho quý vị trong cuộc sống hiện tại.

Kính ghi,
Thích Thông Lạc.