Kỹ thuật bào chế thuốc tiêm truyền

Bài giảng Kỹ thuật bào chế và phương pháp kiểm nghiệm thuốc tiêm

Bài giảng Kỹ thuật bào chế và phương pháp kiểm nghiệm thuốc tiêm bao gồm những nội dung về đại cương thuốc tiêm, thành phần thuốc tiêm, kĩ thuật pha chế thuốc tiêm, yêu cầu chất lượng đối với thuốc tiêm, sinh khả dụng của thuốc tiêm, kiểm nghiệm thuốc tiêm, thuốc tiêm truyền. » Xem thêm

» Thu gọn

Chủ đề:

  • Kỹ thuật pha chế thuốc tiêm
  • Phương pháp kiểm nghiệm thuốc tiêm
  • Yêu cầu chất lượng thuốc tiêm
  • Sinh khả dụng của thuốc tiêm
  • Thuốc tiêm truyền
  • Thành phần thuốc tiêm

Download

Xem online

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Kỹ thuật bào chế và phương pháp kiểm nghiệm thuốc tiêm
  2. ĐẠI CƯƠNG VỀ THUỐC TIÊM Định nghĩa: Thuốc tiêm là dạng thuốc vô khuẩn, có thể ở dạng lỏng(dung dịch, hỗn dịch hay nhũ tương) hoặc có thể ở dạng bột được đóng cùng với một ống chất lỏng thích hợp dùng để pha chế thành dung dịch hay hỗn dịch ngay trước khi tiêm, để tiêm vào cơ thể theo nhiều đường tiêm khác nhau. Các đường đưa thuốc Thuốc được tiêm vào cơ thể theo các đường tiêm khác nhau. Đối với mỗi đường tiêm thuốc vào cơ thể chỉ dung nạp được một thể tích thuốc nhất định. Các đường tiêm thuốc khác nhau có yêu cầu về đẳng trương, chất gây sốt, độ trong, các chất được thêm vào trong công thức thuốc rất khác nhau…
  3. Do vậy, các nhà bào chế cần phải biết được yêu cầu, đặc điểm của từng đường tiêm thuốc để vận dụng khi nghiên cứu xây dựng công thức, trong sản xuất cũng như hướng dẫn sử dụng các chế phẩm thuốc tiêm một cách có hiệu quả và an toàn nhất. Các đường tiêm thường gặp:  Tiêm trong da.  Tiêm dưới da.  Tiêm bắp.  Tiêm tĩnh mạch.  Tiêm động mạch.  Tiêm trực tiếp vào cơ tim.  Tiêm cột sống.  Tiêm vào khớp hoặc túi bao khớp  Tiêm vào mắt
  4. Phân loại thuốc tiêm  Dựa theo đường tiêm thuốc:  Dựa theo hệ phân tán  Dựa theo bản chất của dung môi dùng pha thuốc tiêm  Dựa theo nguồn gốc và mục đích sử dụng  Dựa theo liều dùng Những ưu điểm và hạn chế của dạng thuốc tiêm Ưu điểm:  Tiêm trực tiếp vào mạch máu hoặc cơ quan đích thì dược chất không phải tham gia vào quá trình hấp thu mà được đưa thẳng tới nơi tác dụng của thuốc nên có thể gây ra đáp ứng sinh học tức thì.
  5.  Thuốc tiêm là dạng thuốc thích hợp với nhiều dược chất không thể dùng theo đường uống.  Thuốc tiêm cho phép khu trú tác dụng của thuốc tại nơi tiêm nhằm tăng cường tác dụng tại đích và hạn chế hoặc tránh những tác dụng độc đối với cơ thể.  Tiêm là đường dùng thuốc tốt nhất trong các trường hợp: người bệnh bị ngất, không kiểm soát được bản thân hoặc không thể dùng theo đường uống…  Thuốc tiêm cho phép thiết lập lại sự mất cân bằng về nước, chất điện giải, cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể trong trường hợp người bệnh không ăn được trong thời gian dài.  Dùng thuốc theo đường tiêm cho phép kiểm soát được liều lượng một cách chính xác hơn, dự đoán được mức độ và độ lặp lại của quá trình hấp thu dược chất tốt hơn so với khi dung thuốc theo đường uống.
  6. * Hạn chế:  Thuốc tiêm được tiêm trực tiếp vào các mô, bỏ qua hàng rào bảo vệ tự nhiên của cơ thể nên thuốc tiêm phải là những chế phẩm vô khuẩn, tinh khiết, ổn định để không gây tai biến khi sử dụng.  Phải thực hiện nghiêm ngặt các yêu câù vệ sinh vô khuẩn khi tiêm thuốc.  Dùng thuốc theo đường tiêm thường mất nhiều thời gian hơn so với các đường dùng thuốc khác và đòi hỏi phải theo dõi trong suốt thời gian tiêm( tiêm truyền tĩnh mạch).  Giá thành của các chế phẩm thuốc tiêm thường đắt hơn so với các dạng thuốc khác.
  7. Thành phần thuốc tiêm Dượcchất Dungmôihaychấtdẫn Cácthành Baobìtiếpxúc phầnkhác trựctiếpvớithuốc
  8. II. Thành phần thuốc tiêm 1/Dược chất  Dược chất là thành phần quyết định tác dụng điều trị hay phòng bệnh trong một công thức thuốc. Dược chất dùng để pha thuốc tiêm phải đạt độ tinh khiết về mặt vật lý, hoá học và sinh học cao hơn so với cùng dược chất đó nhưng dùng trong các dạng thuốc khác. Để tránh bị ô nhiễm tạp chất từ môi trường, dược chất dùng để pha thuốc tiêm thường được đóng gói thành những đơn vị có khối lượng đủ dùng cho một mẻ pha chế.
  9.  Dược chất để pha thuốc tiêm mạch máu nhất thiết phải tan hoàn toàn trong nước. Đối với các thuốc tiêm dưới da hay tiêm bắp thịt, thể tích tiêm một lần thường hạn chế từ 1 đến vài ml, do vậy cần chọn dược chất ở dạng có khả năng hoà tan tốt trong dung môi. Nếu dược chất có độ tan thấp trong dung môi thì nên pha dưới dạng thuốc tiêm hỗn dịch, do vậy độ tan của dược chất vẫn là yếu tố quyết định dược chất có được hấp thu hay không từ liều thuốc đã tiêm.  Một dược chất có thể tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau. Các dạng khác nhau của cùng một dược chất thường có độ tan trong nước khác nhau, độ ổn dịnh dưới tác động của môi trường cũng rất khác nhau. Do đó, phải chọn dược chất ở dạng vừa có độ tan thích hợp, vừa ổn định trong dạng thuốc
  10. Trong trường hợp dược chất không ổn định khi ở dạng dung dịch thì có thể chuyển thành thuốc tiêm ở dạng bột vô khuẩn bằng phương pháp đông khô hay phun sấy vô khuẩn. 2/Dung môi hay chất dẫn  Là những chất lỏng dùng để hoà tan hay phát tán dược chất tạo thành các dung dịch, hỗn dịch hay nhũ tương tiêm.  Dung môi dùng để pha chế thuốc tiêm phải là những chất có tác dụng dược lý riêng, tương đồng với máu, không độc, không kích ứng mô tại nơi tiêm thuốc, không ngăn cản tác dụng điều trị của thuốc, duy trì được độ tan, độ ổn định của dược chất ngay cả khi diệt khuẩn ở nhiệt độ cao cũng như trong suốt quá trình bảo quản chế phẩm thuốc, không ảnh hưởng do sự thay đổi pH và đạt độ tinh khiết cần thiết để pha thuốc tiêm.
  11.  Dung môi thường dùng: nước, dầu thực vật, hay hỗn hợp các dung môi đồng tan với nước như glycerin, ethanol, propylen glycol, polyetylen glycol… 2.1. Nước cất:  Nước là một dung môi lý tưởng được dùng để pha phần lớn các thuốc tiêm có chứa các dược chất khác nhau. Do nước tương đồng rất cao với các mô của cơ thể, bởi thế các thuốc tiêm thường dùng nước làm dung môi vừa dễ sử dụng lại vừa an toàn hơn so với các loại dung môi khác. Đồng thời, nước có hằng số điện môi và khả năng tạo liên kết hydro cao nên nước có khả năng hoà tan nhiều loại dược chất. Tuy nhiên, nước lại là dung môi gây thuỷ phân nhiều loại dược chất tạo ra các sản phẩm phân huỷ không có tác dụng điều trị, thậm chí độc với cơ thể. Nước dùng để pha thuốc tiêm được ghi trong Dược điển của các nước là nước cất.
  12. Theo dược điển Việt Nam nước cất để pha thuốc tiêm là nước tinh khiết, vô khuẩn và không có chất gây sốt. Nước cất pha tiêm phải đạt các yêu cầu như ghi trong chuyện luận “ Nước cất để pha thuốc tiêm” ( Dược điển Việt Nam II, tập 3 ).  Dược điển Mỹ 24 cho phép dùng cả nước cất và nước thẩm thấu ngược làm cho dung môi để pha thuốc tiêm nhưng không được thêm chất sát khuẩn hay chất bảo quản.  Để đánh giá độ tinh khiết hoá học của nước cất có thể dựa trên điện trở cảu mẫu nước cất đó. Nước cất tốt không dẫn điện.  Để xác định giới hạn acid- kiềm của nước có thể dùng máy đo pH nhưng khi đo phải thêm dung dịch KCl bão hoà tỷ lệ 0,3ml/ 100ml nước cất để tăng độ dẫn điện.
  13.  Để kiểm tra chất gây sốt trong nước cất, dùng phương pháp thử trên thỏ và tiêm với liều 10ml nước cất/1kgP ( mẫu nước cất trước khi đem thử phải được đẳng trương bằng NaCl mới nung).  Để đảm bảo nước cất không có chất gây sốt tốt nhất nên dùng nước mới cất hoặc là dùng nước cất được bảo quản liên tục ở nhiệt độ 80o C hoặc 5oC, chứa trong các bình thuỷ tinh hay thép không gỉ và phải đậy kín để tránh ô nhiễm từ môi trường bên ngoài.
  14.  Nước cất thường có chứa một lượng nhất định khí CO2 hoà tan. Khí CO2 này có thể gây kết tủa một số dược chất. Ví dụ các barbiturat, các sulphonamid là các acid yếu rất ít tan trong nước, nên thường được dùng ở dạng muối Natri có khả năng hoà tan tốt trong nước, nhưng khi hoà tan các muối này trong nước cất có khí CO2 hoà tan sẽ có hiện tượng kết tủa xảy ra trong dung dịch do dạng muối bị chuyển thành dạng acid tự do rất ít tan. Trong những trường hợp này, nước cất để pha thuốc tiêm không có CO2 hoà tan. Có thể loại khí CO2 hoà tan trong nước cất pha tiêm bằng cách đun sôi nước trong 10 phút ngay trước khi pha hoặc đun sục khí N2.
  15.  Để pha thuốc tiêm có dược chất dễ bị oxy hóa ( clopheniramin, clopromazin, adrenalin, apomorphin, acid ascorbic….) nên dùng nước cất pha tiêm không có O2 hoà tan. Dung môi đồng tan với nước: Gồm các dung môi như: ethanol, alcol benzylic, glyxerin, propylen glycol, polyethylen glycol 300 hoặc 400 thường được dùng phối hợp với nước cất tạo ra hỗn hợp dung môi dùng trong một số công thức thuốc tiêm. Hỗn hợp dung môi được dùng để: + Làm tăng độ tan của dược chất đối với các dược chất ít tan trong nước ( các glycozid tim như digoxin, các barbiturat, các kháng histamin…).
  16. +Hạn chế quá trình thuỷ phân dược chất dễ bị thuỷ phân trong nước, nhất là khi diệt khuẩn chế phẩm ở nhiệt độ cao như các barbiturat. Tuy nhiên các dung môi đồng tan với nước có thể gây kích ứng chỗ tiêm hoặc làm tăng độc tính của thuốc, đặc biệt khi dùng với lượng lớn hoặc với nồng độ cao, do đó phải thử nghiệm cẩn thận khi lựa chọn các dung môi này trong một công thức thuốc tiêm.  Hạn chế quá trình thuỷ phân dược chất dễ bị thuỷ phân trong nước, nhất là khi diệt khuẩn chế phẩm ở nhiệt độ cao như các barbiturat.
  17.  Tuy nhiên các dung môi đồng tan với nước có thể gây kích ứng chỗ tiêm hoặc làm tăng độc tính của thuốc, đặc biệt khi dùng với lượng lớn hoặc với nồng độ cao, do đó phải thử nghiệm cẩn thận khi lựa chọn các dung môi này trong một công thức thuốc tiêm. Ethanol:  Dùng làm dung môi pha thuốc tiêm là loại mới cất và trung tính  Có tác dụng sinh học riêng, một dung dịch tiêm có nồng độ ethanol cao sẽ gây đau và có thể gây hoại tử mô tại nơi tiêm.Vì vậy hàm lượng alcol etylic dùng trong hỗn hợp dung môi trong một công thức thuốc tiêm không nên vượt quá 15%. Một vài dung dịch tiêm ( digoxin, ergotmin, phenytoin) có chứa ethanol với nồng độ thấp.
  18. Propylen glycol:  Propylen glycol có khả năng hoà tan nhiều dược chất ít tan hoặc không tan trong nước, có tác dụng ổn định dung dịch tiêm, hạn chế thuỷ phân dược chất khi tiệt khuẩn thuốc ở nhiệt độ cao, hơn nữa Propylen glycol tương đối ít độc do được chuyển hoá và thải trừ nhanh ra khỏi cơ thể, vì vậy Propylen glycol được dùng phối hợp làm dung môi trong khá nhiều công thức thuốc tiêm. Nhưng cũng cần lưu ý là Propylen glycol có thể gây kích ứng mạnh chỗ tiêm, đặc biệt là khi tiêm bắp hoặc tiêm dưới da. Glycerin  Glyerin thường được dùng phối hơp với alcol và nước để làm tăng độ tan của các dược chất ít tan trong nước và dẽ bị thuỷ phân trong môi trường nước. Thường dùng với tỷ lệ dưới 15%.
  19. Polyethylen glycol  Một số Polyethylen glycol phân tử lượng thấp như PEG 300, PEG 400 được dùng phối hợp làm dung môi để pha thuốc tiêm cho một số dược chất như thuốc tiêm erytromycin ethylsuccinat hay một số hỗn hợp dung môi gồm 18% Polyethylen glycol 400, 80% Propylen glycol và 2% alcol benzilic được dùng làm dung môi để pha thuốc tiêm Iorazepam nhằm cả 2 mục đích tăng độ tan của dược chất và độ ổn định của chế phẩm.  Một số điểm cần lưu ý khi dùng PEG lam dung môi pha thuốc tiêm là PEG có thể bị phân huỷ tạo ra formaldehyd trong quá trình tiệt khuẩn chế phẩm ở nhiệt độ cao.
  20. Dung môi không đồng tan với nước:  Nhiều dược chất như các hormon steroid, vitamin A, vitamin D, vitamin E …không tan trong nước hay trong các hỗn hợp dung môi đồng tan với nước nhưng tan tốt trong dầu thực vật  Để pha dung dịch thuốc tiêm có dược chất thực tế không tan trong nước nhưng tan trong dầu người ta dùng dầu thực vật, ethyl oleat, ỉsoppyl myristat hay benzyl benzoat ( dùng riêng rẽ hay kết hợp và đôi khi có thêm một tỷ lệ alcol nhất định) làm dung môi pha thuốc tiêm.  Ngoài ra việc dùng dầu làm dung môi còn góp phần tạo ra các chế phẩm thuốc tiêm có tác dụng kéo dài do dược chất được khuyếch tán từ từ xang pha nước của mô tại nơi tiêm. Dùng dầu làm dung môi trong thuốc tiêm còn làm giảm đáng kể số lượng các thuốc tiêm hỗn dịch nước, do thuốc tiêm dầu ít gây kích ứng hơn.

Video liên quan

Chủ đề