LCĐT - … Quê nhà còn đĩa dầu hao/Dập dềnh hoa ѕúng ướt ѕao cuối trời… Hai câu thơ của nhà thơ Nguуễn Thế Vinh luôn ám ảnh tôi ᴠề tuổi thơ, ᴠề ᴠùng quê nghèo khó. Huуện Thanh Liêm là cái rốn đồng chiêm trũng của tỉnh Hà Nam, ᴠùng tôi lại là cái rốn của huуện Thanh Liêm. Những câu tục ngữ, thành ngữ lột tả cuộc ѕống của người dân ᴠùng chiêm như “ѕống ngâm da, chết ngâm хương”, “chiêm thối mùa khê”, “cưỡi trâu đi họp huуện”… là ᴠiết ᴠề ᴠùng đất chiêm trũng quê tôi. Bạn đang хem: Lúa chiêm là gì, nghĩa của từ lúa chiêm trong tiếng ᴠiệt ᴠì ѕao gọi là lúa ᴠụ chiêm Định nghĩa ᴠề ᴠùng chiêm, nhà bác học Lê Quý Đôn cho rằng: “Người Nam giao tiếp ᴠới người Chiêm Thành nên trồng được thứ lúa chín ᴠề mùa hè gọi là chiêm”, ѕong người quê tôi lại cho rằng chiêm bắt nguồn từ chằm có nghĩa là đồng lầу mà ra. Nhà bác học nói thì đúng rồi, nhưng người quê tôi nói cũng rất đúng, bởi trước đâу khi chưa có hệ thống ѕông ngòi như hiện naу, cứ mỗi khi mùa mưa đến là cả ᴠùng lại mênh mông trắng nước. Đồng đất quê tôi lại không bằng phẳng thẳng cánh cò baу mà gập ghềnh chỗ cao chỗ trũng, chỗ cấу lúa được, chỗ là đầm lầу nuôi cỏ năn cỏ lác. Đồng đất như ᴠậу nên trước đâу quê tôi luôn chỉ có hai mùa trồng cấу rõ rệt, đó là ᴠụ lúa chiêm ᴠà ᴠụ lúa mùa. Trước đâу, ѕau khi gặt lúa mùa ᴠào tháng Mười хong, các cánh đồng ᴠào mùa khô hạn. Để tránh đất gan gà khô cứng, đồng ruộng nhanh chóng được càу ᴠỡ, rồi cuối kỳ heo maу, khi những tảng đất càу lên ѕe trắng mép là cả nhà, cả làng ra đồng хếp ải. Mẹ tôi bảo một hòn đất ải bằng một nải phân. Tôi nghe không hiểu, mẹ bảo đồng ruộng quê mình thuần thứ đất gan gà, ѕục хuống nửa gang taу là gặp đất ѕét, muốn câу lúa tốt được ngoài phân chuồng phân хanh bón ruộng, ông bà đã nghĩ ra cách хếp ải. Tức là хếp những hòn đất càу chồng chéo nhau thành hàng thành lối. Nắng gió làm cho những luống đất хếp khô trắng, ải ra, đến mùa cấу dẫn nước ᴠào ruộng, những luống đất ải khô хốp ấу đổ хuống liền tơi nhuуễn, ᴠừa làm tốt đất, ᴠừa đỡ công càу bừa, rễ lúa mà bén ᴠào đất ải thì chẳng gì ѕánh bằng. Xem thêm: Tuổi Ất Hợi Hợp Màu Gì Năm 2021? Tuổi Ất Hợi 1995 Hợp Màu Gì Năm 2021
Dưới đây là những mẫu câu có chứa từ "lúa chiêm", trong bộ từ điển Từ điển Tiếng Việt. Chúng ta có thể tham khảo những mẫu câu này để đặt câu trong tình huống cần đặt câu với từ lúa chiêm, hoặc tham khảo ngữ cảnh sử dụng từ lúa chiêm trong bộ từ điển Từ điển Tiếng Việt 1. “Rồi lại thấy điềm chiêm-bao khác, là bảy ghé lúa chắc tốt-tươi mọc chung trên một cộng rạ. 2. Lúa mì, lúa mạch, táo. 3. “Lúa mì, lúa mạch” Dù cả lúa mì và lúa mạch được gieo vào mùa thu nhưng lúa mạch chín trước một tháng. 4. Hãy chiêm ngưỡng! 5. Thuật chiêm tinh 6. Nhiều nhà chiêm tinh cho rằng chiêm tinh học chính là khoa học. 7. Vì cớ lúa mì và lúa mạch; 8. Hoa lúa cũng chính là quả lúa đồng thời trở thành hạt lúa sau này 9. Tiếng gọi chiêm bao!! 10. Chiêm hậu sinh 11. Đây, chiêm ngưỡng đi. 12. Không biết Châu chiêm bao là bướm, hay bướm chiêm bao là Châu? 13. Lúa mì và lúa mạch chỉ có rất ít. 14. Các nhà chiêm tinh Babylon cũng đã xếp nền tảng cho chiêm tinh học phương Tây. 15. Lúa mạch 16. Chúng ta đều chiêm bao 17. Chiêm bốc sư Marvin Miller... 18. Hãy tới và chiêm ngưỡng. 19. Astrologer (Nhà chiêm tinh học 20. Trong chiêm tinh học của người Hindu, có chín đối tượng chiêm tinh, gọi là Navagraha. 21. Mấy nhà chiêm tinh 22. Chiêm Thành không nhận. 23. Tôi thấy chiêm bao!’. 24. Vãi lúa. 25. Hãy chiêm ngưỡng mẹ người!
Vụ lúa chiêm thường được gieo cấy vào cuối năm âm lịch và thu hoạch vào hè năm sau. Đầu vụ thường gặp rét, từ giữa vụ nóng dần lên và có mưa rào. Lúa chiêm kỳ làm đòng rất cần các yếu tố dưỡng chất thiên nhiên, trong đó có chất được tạo nên nhờ tác nhân sấm chớp cơn giông. Vì thế, dân gian có câu: “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên!” Ngày xưa, Bắc bộ chỉ có giống lúa cần nhiều nước nên hàng năm gieo cấy mỗi một vụ lúa vào mùa mưa nhiều (hè thu), gọi là vụ mùa. Vụ chiêm xuất hiện khi có giống lúa xuất xứ từ đất Chiêm Thành quen chịu khí hậu khô của Trung bộ, được đưa ra Bắc gieo cấy vào mùa ít mưa (đông xuân) rất thích hợp. Thành ngữ “Chiêm Nam mùa Bắc” ý là vậy. >> Cánh đồng ven làng vàng óng ả mùa lúa chín “Đất tổ” của lúa chiêm - Chiêm Thành hay còn gọi Chăm Pa, là miền đất chạy dài từ nam đèo Ngang (Quảng Bình) đến Biên Hòa (Đồng Nai). Đây là một “cựu vương quốc” tồn tại từ thế kỷ 2 đến đầu thế kỷ 19, chịu ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Ðộ giáo, Phật giáo và văn hóa Hồi giáo… Tổ tiên người Chiêm đã có một nền văn hóa phát triển rực rỡ là văn hóa Sa Huỳnh. Từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 10 là thời hoàng kim của vương quốc Chiêm Thành, thời kỳ mà văn hóa Chăm nở rộ, phong phú nhất. Chính thời kỳ này đã hình thành nên Thánh địa Mỹ Sơn - một trong những trung tâm đền đài chính của Ấn Độ giáo ở khu vực Đông Nam Á và là một di sản văn hóa thế giới của Việt Nam hôm nay. Nguyễn Bình Trong kho tàng tục ngữ Việt Nam, theo thống kê của chúng tôi, có tới gần 40 tổ hợp có cấu trúc “chiêm + X, mùa + Y”(*). Chẳng hạn: chiêm ba giá, mùa ba mưa; chiêm bơ bải, mùa phải thì; chiêm to tẽ, mùa nhẻ con; chiêm cuối năm, mùa rằm tháng sáu; chiêm khê, mùa thối; chiêm nam, mùa bắc; chiêm chấp chới, mùa đợi nhau; chiêm rũ ngay, mùa ủ vào; v.v… Trong kho tàng tục ngữ Việt Nam, theo thống kê của chúng tôi, có tới gần 40 tổ hợp có cấu trúc “chiêm + X, mùa + Y”(*). Chẳng hạn: chiêm ba giá, mùa ba mưa; chiêm bơ bải, mùa phải thì; chiêm to tẽ, mùa nhẻ con; chiêm cuối năm, mùa rằm tháng sáu; chiêm khê, mùa thối; chiêm nam, mùa bắc; chiêm chấp chới, mùa đợi nhau; chiêm rũ ngay, mùa ủ vào; v.v… Tuy nhiên, khi đưa các câu tục ngữ này ra hỏi sinh viên (những người đã có năng lực tiếng Việt cơ bản, thuần thục) thì không ít sinh viên ngơ ngác không thể giải nghĩa, hoặc giải nghĩa nghe chưa thấu đáo. Các sinh viên xuất thân từ nông thôn có khá hơn nhưng với những học trò thành thị và nhất là ở các tỉnh phía Nam thì họ gần như không hiểu. Cũng không thể trách được những người sinh trưởng ở miền Nam vì những tục ngữ này vốn là kinh nghiệm sản xuất của nông thôn miền Bắc. Bạn đang xem: Lúa chiêm là gì Chiêm và mùa là hai khái niệm trong một cặp trái nghĩa. Chiêm là tính từ, chỉ “lúa hay hoa màu gieo cấy vào khoảng đầu mùa lạnh (quãng tháng mười, tháng mười một âm lịch) và thu hoạch và đầu mùa nóng (tháng tư, tháng năm)”. Còn mùa, chỉ “thời vụ lúa má gieo cấy vào đầu hay giữa mùa mưa (tháng năm, tháng sáu), thu hoạch vào đầu mùa khô, mùa lạnh (tháng chín, tháng mười)”: Năm nay cày cấy vẫn chân thua/ Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa (Nguyễn Khuyến). Như vậy, hai vụ chiêm/mùa nằm trong hai khoảng thời gian khác nhau, có thời tiết và nhiệt độ khác nhau. Thời tiết nông vụ như vậy chỉ xảy ra ở các tỉnh phía Bắc và một phần miền Trung. Điều này thể hiện rõ nhất trong câu: chiêm bóc vỏ, mùa xỏ tay. Hàm ý của câu này là: Lúa chiêm thu hoạch thường bắt đầu vào mùa nóng (bóc vỏ: cởi bỏ lớp vỏ ngoài (bóc vỏ quả chuối, vỏ củ sắn...), ý nói bỏ áo ngoài ra khi tiết trời nóng bức; xỏ tay: động tác để mặc áo vào, khi trời lạnh). Ngoài ra, có rất nhiều câu, nếu ta không tiếp xúc với những người làm ruộng, đặc biệt là những người được coi là “lão nông tri điền” ta rất khó đưa ra lời giải nghĩa chính xác. Ví dụ Chiêm đùa, mùa sâu: Với lúa chiêm, khi làm cỏ, xới xáo, chỉ cần đùa nhẹ quanh gốc là được. Nhưng với lúa mùa thì phải xới, sục sâu quanh gốc thì mới làm đứt rễ phụ giúp lúa đẻ nhánh khỏe, nhiều cây (còn nói: chiêm yên gốc, mùa trốc rễ). Chiêm đi đơn, mùa đi kép: Khi trục lúa, với lúa chiêm thì chỉ cần đi qua một lần là có thể trở (vì hạt đã rụng gần hết), nhưng với lúa mùa thì phải đi vài lần mới được (vì gié lúa dai, hạt bám rất chắc vào cuống). Chiêm chấp chới (cập cợi), mùa đợi nhau: Lúa chiêm hễ cấy trước là trổ trước (“chấp chới” giữa những thửa chưa trổ). Trong khi đó, lúa mùa dù cấy sớm hay muộn lại chờ đến dịp mới đồng loạt trổ cờ (cứ như là đợi nhau vậy). Chiêm khê, mùa thối: Tình trạng thời tiết không thuận hòa trong việc chuẩn bị đất canh tác. Việc đổ ải cho vụ chiêm không đạt, ải thâm nên khi tháo nước vào ải không bở tơi mà vón cục (chiêm khê). Trong khi đó, ruộng để cấy vụ mùa cần cạn (để cấy) thì lại còn quá nhiều nước, phải để cảnh ruộng dầm sâu quá lâu, không cày bừa được (mùa thối), v.v... Xem thêm: Bạn Phải Truyền Nước Biển Tiếng Anh Là Gì, Truyền Nước Biển Tiếng Trung Là Gì Tôi dẫn ra mấy ví dụ như thế để nói rằng, việc giải nghĩa một số thành ngữ, tục ngữ liên quan đến nghề nghiệp (ở đây là ruộng đồng, nhà nông) là không đơn giản. Và đương nhiên, điều này dẫn đến việc cảm thụ và giảng dạy chúng là khó khăn. Trong bài viết “Một câu tục ngữ, bốn nhà lao đao” trước đây (Giáo dục & Thời đại, 2006), tôi đã lên tiếng về một câu hỏi (đưa vào ô chữ) SGK lớp 6. Yêu cầu câu hỏi là tìm “ô chữ gồm hai câu với 25 chữ cái, là tục ngữ về kinh nghiệm làm đất của ông cha ta, cho biết chữ cái mở đầu là M và B” (Vở bài tập Công nghệ, phần Nông nghiệp, lớp 7, tr. 14). Trong sách cũng chia ô chữ thành 2 hàng. Hàng trước là 11 ô (tương ứng 11 chữ cái), hàng sau 14 ô (14 chữ cái). Là người chuyên lập ô chữ thế mà tôi cũng chịu. Để giúp con trai (đang học), tôi gọi điện hỏi thêm 3 chuyên gia ngữ văn nữa (trong đó có cả giáo sư về văn học dân gian), họ cũng đành chịu không trả lời chính xác được. Hì hục mãi rồi cũng tìm ra đúng đáp án: Một cục đất nỏ / Bằng một giỏ phân. Câu hỏi quá khó với học sinh lớp 6, nếu là “dân thành phố” thì chịu bó tay. Việc lĩnh hội các sản phẩm văn học dân gian rõ ràng là phụ thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó không thể không kể đến tri thức nền của mỗi người. Tri thức đó, nhiều khi phải từ kinh nghiệm và vốn sống đem lại. Khi đưa các kiến thức vào sách vở giảng dạy trong nhà trường, chúng ta phải tính đến điều đó.(*) lúa chiêm, lúa mùa giờ đã thành quá khứ khi từ nhiều năm nay với các giống lúa mới, đồng bằng Bắc bộ không chỉ còn hai vụ lúa chiêm, mùa (BT). |