Mâu thuẫn triết học là phần nội dung quan trọng trong môn triết học, được coi là hạt nhân của phép biện chứng. Bởi nó vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển và vận động của chính sự vật hiện tượng đó. Vậy mâu thuẫn triết học là gì? Bài viết này sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này. Show Mâu thuẫn là phạm trù triết học được dùng để chỉ sự thống nhất, đấu tranh và sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập của sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Trong phép biện chứng duy vật thì khái niệm mặt đối lập là sự khái quát về những mặt, thuộc tính, khuynh hướng và phát triển ngược chiều nhau, tồn tại trong cùng một sự vật, hiện tượng tạo nên sự vật và hiện tượng đó. Tìm hiểu về mâu thuẫn trong triết họcTheo quan niệm siêu hình, mâu thuẫn triết học được hiểu là cái đối lập phản logic, không có sự thống nhất, không có sự chuyển hóa biện chứng giữa các mặt đối lập với nhau. Nhân tố để tạo nên mâu thuẫn biện chứng chính là mặt đối lập. Mặt đối lập là từ được dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính và những khuynh hướng vận động trái ngược với nhau nhưng lại là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau. Mỗi mâu thuẫn sẽ luôn có hai mặt đối lập với nhau, trong đó chúng vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh qua lại với nhau. Sau khi hiểu rõ về mâu thuẫn triết học là gì? Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về đặc điểm của mâu thuẫn. Mâu thuẫn triết học có những đặc điểm cụ thể sau đây. Những tính chất nổi bật của mâu thuẫnTheo chủ nghĩa biện chứng duy vật khẳng định thì tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thực tại khách quan đều có chứa đựng mâu thuẫn. Sự hình thành và phát triển của mâu thuẫn là do cấu trúc vốn có ở bên trong của sự vật, hiện tượng đã quy định. Mâu thuẫn tồn tại không hề phụ thuộc vào bất cứ một lực lượng siêu nhiên nào, kể cả ý chí của con người. Sự tác động qua lại, đấu tranh chuyển hóa, bài trừ và phủ định lẫn nhau đều tạo thành động lực bên trong của mọi quá trình vận động và phát triển khách quan của chính sự vật, hiện tượng đó. Mâu thuẫn là hiện tượng có mặt trong tất cả các lĩnh vực. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật, hiện tượng đó xuất hiện cho đến khi kết thúc. Trong mỗi sự vật, hiện tượng mâu thuẫn hình thành không phải chỉ có một mà có thể có rất nhiều mâu thuẫn. Bởi lẽ trong cùng một lúc chúng có rất nhiều sự đối lập với nhau. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác sẽ lại hình thành. Vật chất tồn tại ở hình thức vận động cao hơn thì mâu thuẫn sẽ thể hiện càng rõ nét hơn và gắn liền với sự vật xuyên suốt quá trình phát sinh, phát triển của sự vật. Từ hai đặc điểm bên trên các bạn có thể thấy được mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến; được hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có của tất cả các sự vật, hiện tượng. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn cần phải biết phân tích từng mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được khuynh hướng vận động và phát triển của chính sự vật, hiện tượng. Sau khi đã hiểu kỹ về mâu thuẫn triết học là gì? Tại phần này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về sự vận động của mâu thuẫn triết học. Mâu thuẫn triết học vận động, tồn tại được bằng sự thống nhất và đấu tranh trong chính bản thân nó. Mâu thuẫn trong cuộc sống hằng ngày
Sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập chính là hệ quả tất yếu của cả hai quá trình trên, đây là lúc mà các mâu thuẫn sẽ được giải quyết. Nhưng khi mâu thuẫn mới được hình thành thì quá trình thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa sẽ lại lặp lại và cứ thế không ngừng vận động. Giải quyết mâu thuẫn
Bên trên là những thông tin chúng tôi chia sẻ cho các bạn về mâu thuẫn triết học là gì? Nếu các bạn có thắc mắc gì về nội dung bài viết hãy comment ngay ở bên dưới để cùng nhau giải đáp nhé! Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập hay còn gọi là quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và là quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin, là hạt nhân của phép biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển, theo đó nguồn gốc của sự phát triển chính là mâu thuẫn và việc giải quyết mâu thuẫn nội tại trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng. Các nhân tố chínhCác mặt đối lậpMặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là phổ biến trong thế giới. Theo triết học duy vật biện chứng của Engels thì tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Ví dụ như: Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân hay trong sinh vật thì có sự đồng hoá và dị hoá, trong kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và tiền. Những mặt trái ngược nhau đó trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập. Mâu thuẫn biện chứngCác mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau theo hướng trái ngược nhau, xung đột lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Theo triết học duy vật biện chứng của Engels thì mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức. Mâu thuẫn biện chứng không phải là ngẫu nhiên, chủ quan, cũng không phải là mâu thuẫn trong lôgic hình thức. Mâu thuẫn trong lôgich hình thức là sai lầm trong tư duy.
Sự thống nhấtHai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự "đồng nhất" của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó," sự thống nhất của các mặt đối lập" còn bao hàm cả sự " đồng nhất" của các mặt đó. Engels đã đưa ra ví dụ:
Do có sự "đồng nhất" của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng. Song đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập. Sự đấu tranhCác mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn "đấu tranh" với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tuỳ thuộc vào tính chất, vào mối liên hệ qua lại giữa các mặt đối lập và tuỳ điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng. Nội dung quy luậtMọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân nó, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi cái mới ra đời. Thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa
Sự phát triểnPhát triển là sự đấu tranh của các mặt đối lập: Sự phát triển của sự vật, hiện tượng gắn liền với quá trình hình thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là 2 xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy, mâu thuẫn biện chứng cũng bao hàm cả "sự thống nhất" lẫn "đấu tranh" của các mặt đối lập. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập không tách rời nhau, trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, tạm thời; sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối. Việc hình thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn là một quá trình đấu tranh rất phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng của nó:
Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mâu thuẫn mới xuất hiện mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng ngày càng phát triển đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế. Tuy nhiên, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh giữa chúng. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Khi mâu thuẫn đã được giải quyết thì sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời lại bao hàm mâu thuẫn mới, mâu thuẫn mới lại được triển khai, phát triển và lại được giải quyết làm cho sự vật mới luôn luôn xuất hiện thay thế sự vật cũ. Do vậy, chính sự đấu tranh của các mặt đối lập dẫn đến sự chuyển hóa của các mặt đối lập (giải quyết mâu thuẫn) là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển. Nếu mâu thuẫn không được giải quyết (các mặt đối lập không chuyển hóa) thì không có sự phát triển. Tính chấtMâu thuẫn là sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau của các mặt đối lập bên trong một sự vật, một hiện tượng. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến. Mâu thuẫn có tính chất khách quan vì nó là cái vốn có trong sự vật, hiện tượng, là bản chất chung của mọi sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn có tính phổ biến vì nó tồn tại trong tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi giai đoạn, mọi quá trình, tồn tại trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Vì mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến nên mâu thuẫn rất đa dạng và phức tạp. Trong các sự vật, hiện tượng khác nhau thì tồn tại những mâu thuẫn khác nhau, trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng cũng chứa đựng nhiều mâu thuẫn khác nhau, trong mỗi giai đoạn, mỗi quá trình cũng có nhiều mâu thuẫn khác nhau. Mỗi mâu thuẫn có vị trí, vai trò và đặc điểm khác nhau đối với sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Phân loại mâu thuẫnMâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng, cũng như trong tất cả các giai đoạn phát triển của chúng. Mâu thuẫn hết sức phong phú, đa dạng. Tính phong phú đa dạng được quy định một cách khách quan bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi điều kiện tác động qua lại của chúng, bởi trình độ tổ chức của hệ thống (sự vật) mà trong đó mâu thuẫn tồn tại. Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, có thể phân biệt thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Việc phân chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là sự tương đối, tuỳ theo phạm vi xem xét. Cùng một mâu thuẫn nhưng xét trong mối quan hệ này là mâu thuẫn bên ngoài nhưng xét trong mối quan hệ khác lại là mâu thuẫn bên trong. Để xác định một mâu thuẫn nào đó là mâu thuẫn bên trong hay mâu thuẫn bên ngoài trước hết phải xác định phạm vi sự vật được xem xét. Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Còn mâu thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật. Tuy nhiên mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng có tác động qua lại lẫn nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài; việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong. Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:
Theo Hồ Chí Minh thì:
Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, có thể chia mâu thuẫn trong xã hội thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Tham khảo
Chú thích
Xem thêm
|