Một dân tộc không biết giữ gìn và phát huy truyền thống của dân tộc mình thì như thế nào

Nghị luận về việc giữ gìn bản sắc dân tộc của giới trẻ

  • Dàn ý nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa
    • Dàn ý mẫu 1
    • Dàn ý mẫu 2
  • Nghị luận giữ gìn bản sắc dân tộc ngắn gọn
    • Bài văn mẫu 1
    • Bài văn mẫu 2
    • Bài văn mẫu 3
    • Bài văn mẫu 4
    • Bài văn mẫu 5
    • Bài văn mẫu 6
    • Bài văn mẫu 7
  • Nghị luận giữ gìn bản sắc dân tộc đầy đủ
    • Bài văn mẫu 1
    • Bài văn mẫu 2
    • Bài văn mẫu 3
    • Bài văn mẫu 4
    • Bài văn mẫu 5

Dàn ý nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa

Dàn ý mẫu 1

I. Mở bài

Đất nước đang trong quá trình hội nhập quốc tế, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là vấn đề quan trọng. Và ý thức của thanh thiếu niên Việt Nam trong vấn đề này là điều rất đáng quan tâm suy nghĩ.

II. Thân bài

- Ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc của thanh thiếu niên Việt Nam được biểu hiện ở nhiều phương diện: cách sống, lối sống, quan niệm, suy nghĩ, hoạt động, nói năng, ăn mặc, ứng xử….

- Qua những biểu hiện trên, có thể thấy rõ ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc của thanh thiếu niên Việt Nam là như thế nào?

- Xem xét nguyên nhân của vấn đề này phải nhìn ở cả 2 mặt: khách quan và chủ quan. Khách quan là sự tác động của môi trường sống, của bối cảnh thời đại. Chủ quan là bản thân sự vận động trong tư duy của đối tượng: các thanh niên, thiếu niên đã quan tâm, suy nghĩ ở mức độ nào về vấn đề này.

- Với một ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc như vậy, thanh thiếu niên Việt Nam đang tác động như thế nào đến bộ mặt văn hoá dân tộc, đang để lại một kết quả ra sao cho tương lai, đặc biệt là trong bối cảnh quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra sôi động.

- Xã hội, gia đình, bản thân mỗi thanh niên, thiếu niên nên làm gì để góp phần khẳng định bản sắc văn hoá Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.

III. Kết bài

Bản sắc văn hoá là cái riêng của mỗi dân tộc. Giữ gìn cái riêng đó là trách nhiệm của mỗi công dân, trong đó có phần quan trọng của thế hệ trẻ.

Dàn ý mẫu 2

I. Mở bài

II. Thân bài

a. Giải thích vấn đề

- Văn hóa là tất cả những yếu tố vật chất tinh thần đặc trưng cho một cộng đồng xã hội, được cộng đồng đó chấp nhận, sử dụng và gìn giữ nó theo thời gian.

Ví dụ: văn hóa ứng xử, văn hóa cổ truyền Việt Nam,….

- Giữ gìn văn hóa là giữ gìn những giá trị tinh thần tốt đẹp đã được hình thành và lưu truyền từ xa xưa đến ngày nay.

b. Bàn luận: Giữ gìn văn hóa là điều tốt đẹp và cần thiết

- Nếu chúng ta biết giữ gìn văn hóa:

- Nếu chúng ta không biết giữ gìn văn hóa:

c. Làm thế nào để giữ gìn văn hóa dân tộc?

+ Đầu tiên cần phải nói đến ý thức của mỗi cá nhân. Mỗi người dân, từ người già đến trẻ nhỏ, đều cần ý thức được vai trò to lớn của bản sắc văn hóa dân tộc. Từ đó, biết bảo vệ giữ gìn chúng không bị mai một đi theo thời gian.

Ví dụ như, hiện nay có rất nhiều bạn trẻ theo đuổi những loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian như: ca trù, cải lương, chèo…

d. Bài học nhận thức

- Hiện nay, nhiều người, nhất là những người trẻ đang dần quên mất những giá trị văn hóa tốt đẹp. (Ví dụ: không biết cách cư xử có văn hóa, sử dụng những từ ngữ, cách nói, cách viết làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt ...)

- Nhiều nền văn hóa khác nhau đã và đang du nhập vào Việt Nam: văn hóa châu u, văn hóa Hàn quốc,..... Nhiều bạn trẻ bị ảnh hưởng quá nặng nề, dẫn đến những hành động quá mức, thậm chí là lệch lạc, sai trái (sính ngoại, sống quá “thoáng”, đua đòi...)

- Tất nhiên thì việc tiếp thu những văn hóa mới lạ là điều cần thiết, nhưng hơn tất cả phải giữ gìn và phát triển văn hóa dân tộc, không được để mất đi những giá trị tốt đẹp của cha ông để lại, nhất là trong bối cảnh hiện nay, có rất nhiều những mối đe dọa đang rình rập xung quanh ta mọi lúc mọi nơi.

III. Kết bài

- Đánh giá chung. Giữ gìn văn hóa dân tộc không phải là trách nhiệm của riêng ai mà nó là của cả một dân tộc, một quốc gia và trong đó đóng vai trò quan trọng của các thế hệ trẻ mai sau.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc

07/06/2021 | 08:29

Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa truyền thống riêng biệt, độc đáo, việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc thể hiện tính đoàn kết cộng đồng, sự gắn bó, hài hòa giữa con người với các yếu tố tự nhiên đã dần trở thành món ăn tinh thần độc đáo của dân tộc.

Trong suốt hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã học hỏi, tìm kiếm những gì tốt đẹp nhất của các nền văn hóa trên thế giới, để từ đó tiếp thu có chọn lọc, làm phong phú thêm cho giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc đó là:

1. Giữ gìn và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc

Văn hóa dân tộc Việt Nam chứa đựng giá trị lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và được nhìn nhận qua hai lớp quan hệ. Về nội dung, đó là lòng yêu nước, thương nòi, tinh thần độc lập, tự cường, tự tôn dân tộc... về hình thức, đó là cốt cách văn hóa dân tộc được biểu hiện ở phong tục, tập quán, ngôn ngữ, lễ hội, cách cảm và nghĩ.. Nó phản ánh những nét độc đáo, đặc tính dân tộc. Trong buổi gặp gỡ nhà văn Đức, Irênê Phabe (người dịch Truyện Kiều), Hồ Chí Minh có nói: “Những người cộng sản chúng ta rất quý trọng cổ điển. Có nhiều dòng suối tiến bộ chảy từ những ngọn núi cổ điển đó”(1). Vì vậy, trách nhiệm của mỗi người Việt Nam là phải trân trọng, khai thác, giữ gìn, phát huy những giá trị của văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn lịch sử.

Dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước, tạo nên một nền văn hóa riêng, với những giá trị truyền thống tốt đẹp và cao quý. Ngay từ buổi đầu lập nước, người Việt Nam đã tự ý thức về cộng đồng dân tộc, tinh thần độc lập, tự chủ, ý thức tự hào, tự tôn của dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Giở sử nước ta ra mà xem, mi sẽ thấy tổ tiên đã treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn”(2). Lòng tự hào, tự tôn dân tộc luôn là nền tảng tinh thần để mỗi người Việt Nam có trách nhiệm với vận mệnh của dân tộc mình. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến lịch sử dân tộc và tự hào với truyền thống văn hóa dân tộc. Để giáo dục lòng yêu nước, kêu gọi đoàn kết cứu nước và khẳng định ở triều đại nào cũng có người anh hùng mưu trí, sáng tạo trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước, Người viết bài “Lịch sử nước ta” (tháng 2 năm 1942), trong đó có đoạn:

“Dân ta phải biết sử ta,

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.

Kể năm hơn bốn ngàn năm,

Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hòa”(3).

Lòng yêu nước, tình cảm gắn bó máu thịt và trách nhiệm của người dân Việt Nam, đã đúc kết thành truyền thống yêu nước và được nâng lên thành chủ nghĩa yêu nước. Chính tinh thần dân tộc và chủ nghĩa yêu nước là động lực vĩ đại giúp nhân dân Việt Nam, đứng lên đấu tranh giành và giữ độc lập dân tộc trước kẻ thù xâm lược. Tổng kết về phong trào yêu nước Việt Nam, trong bài “Nên học sử ta”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát: “Đời nào cũng có người anh hùng mưu cao võ giỏi đứng ra đoàn kết nhân dân đuổi giặc cứu nước.

Đời Trần, quân Nguyên đánh đâu được đấy, chiếm nước Tàu và nửa châu Âu, thế mà ba lần bị ông Trần Hưng Đạo đánh tan. Bình dân như ông Lê Lợi và ông Nguyễn Huệ đã đánh đuổi quân Tàu làm cho nước ta độc lập.

Người già như ông Lý Thường Kiệt quá 70 tuổi mà vẫn đánh đông dẹp bắc, bao nhiêu lần đuổi giặc cứu dân.

Thiếu niên như Đổng Thiên Vương chưa đến 10 tuổi mà đã ra tay cứu nước, cứu nòi. Trần Quốc Toản mới 15, 16 tuổi đã giúp ông Trần Hưng Đạo đánh phá giặc Nguyên.

Phụ nữ thì có bà Trưng, bà Triệu ra tay khôi phục giang san.

Những vị anh hùng ấy vì nước, vì dân mà làm nên sự nghiệp kinh thiên động địa. Nhờ những vị dân tộc anh hùng ấy mà nước ta được tự do, độc lập, lừng lẫy ở Á Đông”(4).

Hồ Chí Minh kết luận: “Nhờ ý chí độc lập và lòng khát khao tự do hơn là nhờ quân đông sức mạnh, nước Nam đã thắng”(5). Chính ngọn nguồn giá trị văn hóa tư tưởng truyền thống, ý chí độc lập và khát vọng tự do đã trở thành nền tảng văn hóa tinh thần, là động lực vĩ đại của sự trường tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam.

Tinh thần bất khuất, dũng cảm, kiên cường, dù khó khăn, gian khổ, dù phải hy sinh nhưng vẫn quyết giữ vững lòng trung thành với Tổ quốc, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, đã tạo nên sức mạnh to lớn giúp nhân dân Việt Nam chiến thắng kẻ thù. Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(6). Mỗi khi vận nước bị đe dọa, ngoại bang nhòm ngó và xâm lăng, cả nước đồng tâm, toàn dân tụ họp nêu cao quyết tâm bảo vệ nền độc lập. Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ nhân dân miền ngược đến miền xuôi, từ những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm cho đến những kiều bào ở nước ngoài, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc. Giá trị tinh thần truyền thống ấy đã được giữ gìn và phát huy từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Từ cuối thế kỷ XIX, dân tộc Việt Nam sống trong cảnh lầm than tủi nhục vì thực dân Pháp thống trị, lớp lớp sĩ phu và đồng bào yêu nước đã đứng lên chống quân xâm lược. Các phong trào cứu nước và các cuộc khởi nghĩa đều lần lượt thất bại và bị đàn áp khốc liệt là do gặp bế tắc về lý luận, đường lối và phương thức đấu tranh. Sứ mệnh lịch sử đặt ra cho dân tộc, cho mỗi người yêu nước lúc bấy giờ là tìm phương sách cứu nước, cứu dân; giải phóng dân tộc là nguyện vọng thiết tha của nhân dân Việt Nam. Chứng kiến thất bại của các phong trào yêu nước và cảnh lầm than cực khổ của nhân dân, đã thôi thúc Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm đường cứu dân, cứu nước khỏi cảnh nô lệ, áp bức. Người hiểu rõ và thấm thía nỗi đau của cả một dân tộc không chỉ là sự cảm thông, chia sẻ mà còn phải đấu tranh giành lấy độc lập. Ý chí độc lập cho dân tộc và khát vọng tự do cho nhân dân là xuất phát điểm của Hồ Chí Minh, cùng hành trang là những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử, và cả quyết tâm “sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi”, ngày 05/6/1911 Hồ Chí Minh đã xuống con tàu đô đốc La-tút-xơ Tơ-rê-vin tại cảng Sài Gòn, bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc.

2. Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa trong phong tục, tập quán và các lễ hội truyền thống của dân tộc

Việt Nam là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc anh em, các dân tộc gắn bó với nhau trên một lãnh thổ và cùng nhau giữ nước, cùng nhau chống giặc ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc của mình. Trong Thư gửi đại hội các dân tộc thiểu số tại Plâycu, Người nói: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt”(7). Giữ gìn và phát huy bản sắc của mỗi dân tộc sẽ phát huy được sức mạnh của cả dân tộc, đồng thời những nét văn hóa riêng của mỗi dân tộc anh em gồm tín ngưỡng, phong tục tập quán, lễ hội... bổ sung cho nhau và làm phong phú cho nền văn hóa dân tộc Việt Nam.

Đối với tín ngưỡng truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh nhận định: “Người dân An Nam không có linh mục, không có tôn giáo theo cách nghĩ của Châu Âu. Việc cúng bái tổ tiên hoàn toàn là một hiện tượng xã hội. Những người già trong gia đình hay các già bản là người thực hiện những nghi lễ tưởng niệm”(8). Người không bao giờ phản đối, bài xích các tôn giáo mà luôn luôn tỏ thái độ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng. Người không hề có sự phân biệt đối xử giữa tôn giáo này và tôn giáo khác, giữa người có đạo và người không có đạo. Hồ Chí Minh chỉ rõ đã là người Việt Nam dù là lương hay giáo đều có chung cội nguồn sâu xa cùng nòi giống “con Rồng cháu Lạc”, cùng chung vận mệnh dân tộc và gắn bó với nhau bởi truyền thống đoàn kết. Nhân các dịp lễ như lễ Nô-en của Công giáo hay ngày Đức Phật Thích Ca thành đạo của Phật giáo, Người thường gửi thư chúc mừng các chức sắc tôn giáo cũng như các tín đồ. Điều đó làm cho họ rất phấn khởi vì Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước mặc dù rất bận song vẫn quan tâm đến ngày vui của họ. Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm đến đời sống tâm linh của họ mà trên cương vị Chủ tịch nước, Người đặc biệt quan tâm đến đời sống hằng ngày của người dân có tôn giáo. Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ cấp cơ sở phải thường xuyên chăm lo đời sống mọi mặt của đồng bào, từ ăn, mặc, ở, đi lại, học hành đến khi ốm đau phải được chữa bệnh.

Phong tục tập quán của mỗi dân tộc không chỉ là thói quen, lối sống của một cộng đồng dân tộc mà còn là sự biểu hiện của triết lý vũ trụ, nhân sinh quan của dân tộc ấy. Phong tục tập quán vừa có cái chung, vừa có cái riêng, thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc một cách đậm đà và sâu sắc. Ngay từ những năm còn ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chí Minh đã chú trọng đến việc giữ gìn, tôn trọng phong tục, tập quán, tín ngưỡng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Người coi đó là “những vốn cũ quý báu của dân tộc” cần được giữ gìn, bảo vệ và phát huy. Chính vì thế mà cần phải: “Ra sức giúp đỡ đồng bào phát triển những việc có lợi ích cho đời sống vật chất và văn hóa của các dân tộc”(9). Tuy nhiên, Người cho rằng cần phải loại bỏ những hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan như: lấy chồng hoặc lấy vợ quá sớm, cúng bái, ma chay theo các hủ tục lạc hậu...

Như vậy, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa trong phong tục truyền thống là để xây dựng cuộc sống dân tộc được tốt đẹp hơn và xóa bỏ những yếu tố lạc hậu góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trên các địa phương. Mỗi dân tộc dù có khác nhau nhưng đều có điểm chung là cùng nhau xây dựng đời sống văn hóa mới, giữ gìn gia phong, thuần phong mỹ tục.

3. Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật của dân tộc

Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến giữ gìn và phát huy di sản văn hóa nghệ thuật truyền thống của dân tộc như thơ ca cổ điển, dân ca, âm nhạc, những câu hò, lời ca, điệu ví quen thuộc, vốn rất đặc trưng tiêu biểu cho văn nghệ dân tộc. Người rất thích nghe hát ví phường vải bởi cái độc đáo của ví phường vải là sự kết hợp của dân gian hóa và bác học hóa, được đối đáp với nhau qua thể thơ lục bát - thể thơ truyền thống của dân tộc. Do đó, để hát được ví phường vải hay và xuất sắc phải biểu đạt được cảm xúc mượt mà, giàu sắc thái. Có lần, Người nghe nghệ sĩ Kim Lương hát bài “Gởi anh lính bờ Nam”, Người đã khen Kim Lương hát rất hay những màn biểu diễn mang đậm màu sắc dân ca của dân tộc. Người căn dặn: “Cháu phải biết hát nhiều dân ca của các miền, vì mỗi miền đều có dân ca hay, chẳng những người địa phương đó thích, mà người địa phương khác cũng thích”(10). Người chỉ bảo trước tiên mình ở địa phương nào thì phải biết hát được dân ca ở địa phương ấy, không những biết hát mà hát thật hay, biết nhiều bài hát dân ca các miền phải học hỏi, học thật tốt sao cho xứng đáng với phát huy văn hóa dân tộc. Người còn nói với các nghệ sĩ là âm nhạc dân tộc nước ta rất độc đáo, có nhiều câu hát dân ca rất hay bây giờ phải khai thác, phát triển nó lên. Nói chuyện với nghệ sĩ sáo Đình Thìn, Người tâm sự: “Âm nhạc dân tộc của ta rất độc đáo. Bác đã đi nhiều nước trên thế giới, nhưng Bác vẫn nhớ những câu hát của dân ta. Ta có nhiều câu hát dân ca hay lắm. Bây giờ phải khai thác và phát triển nó lên. Cháu là thanh niên, cháu phải làm nòng cốt tiếp thu và phát triển âm nhạc dân tộc”(11) Người nhấn mạnh với họa sĩ Thụy Điển Erích Giôhanxôn: “Mỗi dân tộc cần phải chăm lo đặc tính dân tộc mình trong nghệ thuật”. Người trân trọng, yêu thích những câu hò xứ Nghệ, xứ Huế và các làn điệu dân ca Việt Nam. Vốn cổ truyền quí báu của dân tộc dù ở miền nào, địa phương nào đều được Người trân trọng và cảm thụ với niềm xúc động sâu sắc. Người tìm thấy ở di sản văn hóa tinh thần một ngọn nguồn, một nền tảng để xây dựng nền văn hóa mới của dân tộc. Người căn dặn các nghệ sĩ phải giữ gìn và phát huy những cái hay cái đẹp, phải biết quý trọng vốn nghệ thuật dân tộc. Để kế thừa và phát triển vốn dân ca thì phải sáng tác, miêu tả con người, cuộc sống, chiến đấu của nhân dân, phát huy được sức mạnh dân tộc và thống nhất đất nước.

Đối với nghệ thuật tuồng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khen mà còn chỉ dẫn những người làm nghệ thuật tuồng không được giậm chân tại chỗ, phải biết cải biên, sáng tạo, cách tân, cách nói và truyền tải được nội dung mới bổ sung được cho nhau để các thế hệ sau tiếp nối. Khi xem biểu diễn nghệ thuật Tuồng tại Hà Nội, Người phát biểu: “Nghệ thuật tuồng hay đấy! Nhưng phải phát triển, đừng giậm chân tại chỗ, chớ gieo vừng ra ngô”(12). Người căn dặn ngắn gọn và sâu sắc, không chỉ dành riêng cho nghệ thuật tuồng mà còn cả các loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống nói chung, mỗi nghệ thuật đều có cái hay và độc đáo riêng. Đây là sản phẩm của văn hóa dân tộc. Do đó việc giữ gìn, kế thừa và phát huy cần phải giữ lại được cái hay, cải tiến được hình thức và nội dung, có kế hoạch cụ thể và loại bỏ những cái chưa phù hợp mới phục vụ được nhu cầu của quần chúng nhân dân. Đến nay nghệ thuật tuồng, chèo đã có nhiều cố gắng thay đổi về hình thức, nội dung phong phú đã xây dựng được nhiều đề tài lịch sử và giữ được bản sắc của dân tộc.

Khi đón khách quốc tế tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường mời các đoàn tuồng, chèo hay dân ca biểu diễn để phục vụ khách, đồng thời Người giới thiệu các tác phẩm nghệ thuật độc đáo của Việt Nam. Trong dịp lễ tết hay đi thăm các đoàn văn công Người thường hay tặng kẹo cho các nghệ sĩ, hỏi thăm sức khỏe, động viên các anh chị em nghệ sĩ sáng tác và biểu diễn tốt hơn để phục vụ nghệ thuật, phục vụ đất nước góp phần giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc. Đây là nguồn sức mạnh và động lực để xây dựng một xã hội mới góp phần thúc đẩy quá trình phát triển của nhân loại.

Người cũng rất quan tâm đến các tác phẩm văn học dân gian Việt Nam, trước hết biểu hiện ở thái độ trân trọng, khẳng định được vai trò và sức sáng tạo, giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc trong lịch sử, truyền thuyết dân gian, ca dao, tục ngữ. Người chỉ ra những sáng tác văn học có tác phẩm hay là phải diễn đạt cho mọi người hiểu và suy ngẫm về tác phẩm đó chứ không phải cứ viết tác phẩm văn học dài là mới hay. Người đánh giá cao các sáng tác của nhân dân, coi những sáng tác của nhân dân là những hòn ngọc quý. Ngoài ra, Người phê phán một số tác phẩm không đi sâu vào đời sống thực tiễn như cách viết thường ba hoa, dây cà, dây muống. Người yêu cầu các tác phẩm văn học phải bám sát đời sống con người, những lời ca tụng chân thật để làm gương và giáo dục cho con cháu ta đời sau.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, là những chỉ dẫn quý báu của Đảng và nhân dân trong việc nhận thức và giải quyết những vấn đề đặt ra trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định: “Xây dựng văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội”(13), “Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu cho văn hóa dân tộc. Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế-xã hội”(14). Việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm sự bền vững và bảo vệ vững chắc của Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Chú thích:

1. Lữ Huy Nguyên, Bác Hồ với nghệ sĩ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1995, tr.420.

2,5, 8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 1, tr.97, tr.98, tr.463.

3,4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 3, tr.259, tr.255.

6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.38.

7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.249.

9.Bác Hồ với đồng bào các dân tộc, Nxb. Thông tấn, Hà Nội, 2007, tr.109.

10.Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, tập 4, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội, 2012, tr.309.

11. Bác Hồ với văn nghệ sĩ, Nxb. Tác phẩm mới, Hà Nội, 1985, tr.229.

12. Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, tập 9, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội, 2013, tr.260

13,14. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.29, tr.129.

Theo KDT Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch

Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và truyền thống văn hóa con người Hưng Yên

Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dân tộc Việt Nam đã viết lên những trang sử hào hùng. Trong tiến trình lịch sử của dân tộc đã tạo nên nhân cách con người Việt Nam với các giá trị đạo đức vô cùng phong phú. Cùng với thời gian, các giá trị đạo đức này được lưu truyền qua các thế hệ, trở thành truyền thống tốt đẹp, là sức mạnh và động lực của dân tộc. Hòa cùng với dòng chảy lịch sử dân tộc, vùng quê hưng thịnh và yên bình với tên gọi “Hưng Yên” đã chứa đựng cả bề dày và sự phong phú, độc đáo của vùng văn hóa sông Hồng, đồng thời phát huy được các giá trị văn hóa mang bản sắc dân tộc. Những thế hệ con người Hưng Yên đã mang trong mình dòng máu của người Việt Nam với đầy đủ các giá trị đạo đức truyền thống: Yêu quê hương, đất nước; đoàn kết, anh dũng trong cải tạo thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm; cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất; ham học hỏi và giàu lòng nhân nghĩa, thủy chung...

I. Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam

Là quốc gia nằm ở phía Đông, thuộc bán đảo Đông Dương, khu vực Đông Nam Á, châu Á; có diện tích 331.698 km2, bao gồm khoảng 327.480 km2 đất liền và 4.500 km2 biển nội thủy... Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới và một phần xích đạo nên có những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, nhất là sản xuất nông nghiệp; là nơi giao thoa của nhiều nền văn minh trên thế giới, điển hình là văn minh Trung Quốc và Ấn Độ với cốt lõi là hệ tư tưởng Nho giáo, Phật giáo. Quy mô dân số gần 92,5 triệu người (năm 2016), đứng thứ 13 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, gồm 54 dân tộc, trong đó, dân tộc Kinh (Việt) chiếm đa số, 53 dân tộc còn lại là các dân tộc thiểu số. Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa riêng mang đậm bản sắc địa phương, nhưng 54 dân tộc anh em cùng gắn bó chặt chẽ với nhau trong vận mệnh chung của cuộc đấu tranh, hòa hợp lâu dài, lấy tộc người Việt làm trung tâm. Điều này đã tạo nên văn hóa dân tộc Việt Nam thống nhất trên cơ sở đa dạng sắc thái văn hóa của các dân tộc với những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp.

1. Lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất, ý chí độc lập và tự cường dân tộc

Tình yêu dành cho quê hương, đất nước ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trên thế giới hoàn toàn không giống nhau, song tựu chung lại sợi chỉ đỏ chủ nghĩa yêu nước là biểu hiện khát vọng và hành động luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết. Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành từ rất sớm, bắt nguồn từ những tình cảm rất đơn sơ, bình dị trong gia đình, làng xã và rộng hơn là tình yêu Tổ quốc. Với vị trí địa lý là đầu mối giao thông quốc tế quan trọng, có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, Việt Nam luôn là mục tiêu xâm lược của nhiều quốc gia. Trong tiến trình phát triển của dân tộc, nhân dân ta đã phải trải qua thời gian dài chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Lịch sử thời kỳ nào cũng sáng ngời những tấm gương kiên trung, bất khuất của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Từ Bà Triệu “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ đâu chịu khom lưng làm tì thiếp cho người!”; Trần Bình Trọng “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”; Nguyễn Huệ “Đánh cho để dài tóc/Đánh cho để đen răng/Đánh cho nó chích luân bất phản/Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn/Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”… đến Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng, Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai, Nguyễn Viết Xuân với tinh thần “Nhằm thẳng quân thù! Bắn!”… Chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập và tự cường dân tộc đã trở thành “dòng chủ lưu của đời sống Việt Nam”, là nền tảng tinh thần to lớn, là giá trị đạo đức cao quý nhất trong thang bậc các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, trở thành “tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị” và là nguồn sức mạnh vô địch để dân tộc ta vượt qua khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, xứng đáng với lời ngợi ca của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”1.

2. Lòng yêu thương, độ lượng, sống có nghĩa tình với con người

Đây là giá trị đạo đức nhân văn sâu sắc được sinh dưỡng trong chính đau thương, mất mát qua các cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và cuộc sống lam lũ hàng ngày từ nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước của dân tộc Việt Nam. Điều dễ nhận thấy về biểu hiện lòng nhân ái của dân tộc ta được bắt nguồn từ một chữ “tình” - Trong gia đình đó là tình cảm đối với đấng sinh thành “Công cha như núi Thái Sơn/Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, tình anh em “như thể tay chân”, tình nghĩa vợ chồng “đầu gối, tay ấp”; rộng hơn là tình làng xóm láng giềng và bao trùm hơn cả là tình yêu thương đồng loại “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong một nước phải thương nhau cùng”… Lòng yêu thương và sống có nghĩa tình còn được biểu hiện trong sự tương trợ, giúp đỡ nhau; sự khoan dung, vị tha dành cho cả những người đã từng lầm đường lạc lối biết lấy công chuộc tội. Không chỉ biểu hiện trong đời sống hàng ngày, tình yêu thương, sự khoan dung, độ lượng với con người của dân tộc Việt Nam còn được nâng lên thành những chuẩn tắc trong các bộ luật của Nhà nước; đồng thời là cơ sở của tinh thần yêu chuộng hoà bình và tình hữu nghị với các dân tộc trên thế giới. Trong lịch sử, nhân dân ta luôn đề cao và coi trọng việc giữ tình hoà hiếu với các nước, tận dụng mọi cơ hội có thể để giải quyết hoà bình các xung đột, cho dù nguyên nhân từ phía kẻ thù ... Ngày nay, truyền thống nhân nghĩa đó không bị mai một hay mất đi, ngược lại tiếp tục được khẳng định và củng cố khi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện đường lối nhất quán “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Ý thức đầu tiên về sự cố kết cộng đồng của người Việt Nam đã được dân gian thần thánh hóa bằng thiên truyền thuyết đẹp với hình ảnh “bọc trăm trứng” để lý giải cùng chung nguồn cội con cháu Rồng Tiên - Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ. Trải qua thực tiễn trong cuộc sống lao động cũng như chiến đấu, tinh thần đoàn kết dân tộc bền chặt càng được đề cao và đã trở thành một triết lý nhân sinh sâu sắc “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công”. Trong 86 năm qua kể từ khi có Đảng lãnh đạo, thực tiễn cách mạng Việt Nam thêm một lần nữa đã thể hiện sức sống kỳ diệu và chứng minh chân lý đúng đắn về sức mạnh vĩ đại của tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Sức mạnh đó chính là mạch nguồn của các thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám (1945), kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954) và chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)... Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, tinh thần đoàn kết dân tộc càng có ý nghĩa hơn đối với sự nghiệp đổi mới đất nước, do đó tư tưởng chỉ đạo chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam luôn được Đảng ta nhấn mạnh “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế… phát huy cao độ nội lực, đồng thời phải tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”2. Như vậy, biểu hiện về tinh thần đại đoàn kết cộng đồng đã trở thành một truyền thống tốt đẹp, có giá trị lý luận và thực tiễn cách mạng sâu sắc. Phát huy đại đoàn kết dân tộc là đoàn kết rộng rãi và lâu dài, đó là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam - “Một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta”.

4. Tinh thần cần cù, sáng tạo, tiết kiệm trong lao động sản xuất

Cần cù, siêng năng là một trong những giá trị đạo đức nổi bật, phẩm chất đáng quý của người Đông Á, trong đó có Việt Nam. Đối với mỗi người Việt Nam, cần cù, siêng năng, sáng tạo trong lao động là điều phải làm vì có như vậy mới có của cải vật chất. Phẩm chất cần cù, chịu thương chịu khó trong lao động của người Việt Nam luôn gắn với sự dành dụm, tiết kiệm và trở thành đức tính cần có như một lẽ tự nhiên. Như vậy, đầu tiên, đức tính cần cù, sáng tạo và tiết kiệm trong lao động chính là yếu tố quan trọng giúp con người có thể đảm bảo được việc duy trì cuộc sống cá nhân. Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, sự cần cù, sáng tạo đi đôi với thực hành tiết kiệm trong lao động sản xuất của mỗi người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa thiết thực, bởi đây chính là động lực tiên quyết nhằm tăng năng suất, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển, qua đó tự mỗi người đóng góp một phần vào công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

5. Truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo

Từ ngàn đời nay, hiếu học đã trở thành một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Lịch sử khoa bảng của dân tộc còn lưu danh những tấm gương sáng ngời về ý chí và tinh thần ham học: Nguyễn Hiền mồ côi cha từ nhỏ, theo học nơi cửa chùa, đã trở thành Trạng nguyên nhỏ tuổi nhất trong lịch sử nước ta khi mới 13 tuổi. Mạc Đĩnh Chi vì nhà nghèo không thể đến lớp, chỉ đứng ngoài nghe thầy giảng, đêm đến phải học dưới ánh sáng của con đom đóm trong vỏ trứng, đã đỗ trạng nguyên và trở thành Lưỡng quốc Trạng nguyên (Trung Hoa và Đại Việt). Đó còn là những tấm gương hiếu học của các bậc hiền tài đáng kính: Nhà giáo Chu Văn An, Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trạng lường Lương Thế Vinh, nhà bác học Lê Quý Đôn…; là tinh thần của nghị lực phi thường vươn lên trở thành nhà giáo ưu tú - Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký… Sự hiếu học, tinh thần ham học hỏi của dân tộc Việt Nam còn được biểu hiện ở thái độ coi trọng việc học và người có học, tôn trọng thầy cô, kính trọng họ như cha mẹ của mình “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, “Không thày đố mày làm nên”. Cùng với tiến trình lịch sử dân tộc, dòng chảy của truyền thống hiếu học ấy với tinh thần “Học! Học nữa! Học mãi!” đã được các thế hệ người Việt Nam hôm nay tiếp tục phát huy và tỏa sáng: Đó là những tấm gương vượt khó, học giỏi trên khắp mọi miền của đất nước; từ những nếp nhà trong gia đình tất cả con cháu đều chăm học và thành đạt như giáo sư Đặng Thai Mai, giáo sư Đào Duy Anh, giáo sư, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân… đến những vận động viên khổ luyện thành tài như kình ngư Nguyễn Thị Ánh Viên, xạ thủ Hoàng Xuân Vinh, tài năng như giáo sư Ngô Bảo Châu, nữ tiến sĩ trẻ tuổi nhất Nguyễn Kiều Liên… Họ đã thực sự là niềm tự hào làm rạng danh đất Việt và tô thắm thêm tinh thần hiếu học của cha ông.

II. Truyền thống văn hóa con người Hưng Yên

Được thành lập từ năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), Hưng Yên gồm 2 phủ Khoái Châu của trấn Sơn Nam và Tiên Hưng của trấn Nam Định. Sau nhiều lần chia tách, sáp nhập, ngày 01/01/1997, tỉnh Hưng Yên chính thức được tái lập. Đến nay, Hưng Yên có 10 huyện và thành phố (Tiên Lữ, Ân Thi, Kim Động, Phù Cừ, Khoái Châu, Yên Mỹ, Văn Lâm, Văn Giang, Mỹ Hào và thành phố Hưng Yên); 161 xã, phường, thị trấn với diện tích tự nhiên 930,22km2, dân số gần 1,2 triệu người (năm 2015). Lịch sử hình thành và phát triển cùng với các đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Hưng Yên đã tạo nên những giá trị truyền thống văn hóa hòa vào dòng chảy truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam với đầy đủ các giá trị đạo đức cao đẹp, nhưng cũng mang đậm dấu ấn nhân cách con người Hưng Yên.

1. Truyền thống thượng võ, yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm và xây dựng quê hương, đất nước

Được cấu thành từ 3 vùng đất của trấn Sơn Nam, trấn Hải Đông và trấn Kinh Bắc, vùng đất Hưng Yên vốn có vị trí đặc biệt trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Từ thời Hùng Vương, trải qua các triều đại phong kiến cho đến Cách mạng Tháng Tám (1945), đại thắng mùa Xuân (1975)… quân và dân Hưng Yên luôn sát cánh cùng nhân dân cả nước,

đóng góp cho Tổ quốc những anh hùng dân tộc cùng với chiến công hiển hách. Mở đầu trang sử chống xâm lăng của nhân dân Hưng Yên là chiến công của 3 chàng trai làng Thổ Hoàng (Ân Thi), của Hoàng An ở làng Phả Lễ (Văn Lâm) đã cùng Phù Đổng Thiên Vương đánh đuổi giặc Ân ở đời Hùng Vương thứ 6. Suốt hơn 1000 năm Bắc thuộc, nhân dân Hưng Yên cùng với toàn thể dân tộc Việt Nam chống lại ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc: Tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 chống ách thống trị nhà Đông Hán, Hưng Yên đã có các tướng lĩnh Nguyệt Thai, Nguyệt Độ (Khoái Châu), Lã Văn Ất (Văn Giang), Hương Thảo (Ân Thi)… Năm 938, Ngô Quyền đóng đại bản doanh tại phố Vương (Phố Giác, huyện Tiên Lữ) chuẩn bị cho trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng nhằm đánh tan mưu đồ của nhà Hán, đã nhận được sự phối hợp tác chiến của tướng quân Phạm Bạch Hổ (Đằng Châu, nay thuộc thành phố Hưng Yên) và sự giúp đỡ của nhân dân các thôn Tiên Xá, Dị Chế (Tiên Lữ)… Trong 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên - Mông (1258, 1285, 1288), vùng đất Hưng Yên trở thành hậu cứ quan trọng của vương triều Trần với nhiều tên tuổi các tướng lĩnh và địa danh lịch sử: Xích Đằng3với trận chiến Đông Bộ Đầu ngày 24-01-1258; tướng quân Phạm Ngũ Lão (Phù Ủng, Ân Thi) đã lập nhiều chiến tích to lớn, bảo vệ vẹn toàn hoàng tộc nhà Trần trên sông Hoàng Giang4; phòng tuyến Thiên Mạc, Hàm Tử, Đông Kết, Tây Kết đã góp phần chặn địch để vua Trần rút lui an toàn… Dưới thời Nguyễn, nhân dân Hưng Yên hăng hái tham gia các phong trào của Phan Bá Vành (1821-1827), Cao Bá Quát (1854), Lê Duy Cự (1854) và Cai Vàng (1862). Khi quân Pháp đánh chiếm thành Hưng Yên lần thứ 2 ngày 28/3/1883, Đinh Gia Quế (thôn Thọ Bình, xã Tân Dân, huyện Khoái Châu) tự xưng là Đổng Nguyên Nhung, dựng cờ “Bình Tây phạt tội” và chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ chống thực dân Pháp ở Bãi Sậy (1883 - 1892)…Cùng với quá trình vận động không ngừng của phong trào cách mạng dân tộc, Hưng Yên là tỉnh có Chi bộ Đảng được thành lập sớm ngay từ cuối năm 1928 - Chi bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội Sài Thị (chợ Giàn, nay thuộc xã Thuần Hưng, huyện Khoái Châu) với 7 đồng chí, tạo tiền đề quan trọng cho việc thành lập Ban Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Hưng Yên năm 1941 tại xã Cẩm Ninh, huyện Ân Thi, sau này là Đảng bộ tỉnh Hưng Yên...Trong phong trào cách mạng 1930 - 1945, nhiều người con Hưng Yên đã tự nguyện đi theo con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ lựa chọn: Tô Hiệu (Nghĩa Trụ-Văn Giang), Nguyễn Văn Linh (Giai Phạm-Yên Mỹ), Bùi Thị Cúc (Vân Du-Ân Thi)… Họ chính là hiện thân tiêu biểu cho tinh thần quật khởi của mảnh đất và con người Hưng Yên. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), ý chí kiên cường, bất khuất của con người Hưng Yên lại được trỗi dậy cùng với nhân dân cả nước quyết giành nền độc lập cho Tổ quốc. Quân và dân Hưng Yên đã đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, làm nên những chiến công vang dội như “Đường 5 bất khuất, Bãi Sậy kiên cường”, phong trào “Du kích Hoàng Ngân”, mô hình “Làng kháng chiến” kiểu mẫu của đồng bằng Bắc Bộ. Với những chiến công to lớn, Hưng Yên đã được Bác Hồ tặng Cờ “Đoàn kết nhân dân đánh thắng giặc Pháp” (1952). Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), nhân dân Hưng Yên luôn làm tròn nhiệm vụ của hậu phương đối với tiền tuyến, đã chi viện sức người, sức của

cho chiến trường miền Nam. Giai đoạn 1968 - 1996, tỉnh Hưng Yên và Hải Dương hợp nhất đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”; tặng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất và 2 lần thưởng Cờ Luân lưu Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Góp phần vào những thành tích xuất sắc đó có sự hi sinh anh dũng của gần 23000 liệt sĩ, 9.814 thương binh, 7.235 bệnh binh, 2.273 người bị địch bắt và ...Trong công cuộc đổi mới, nhất là sau 20 năm tái lập tỉnh, Hưng Yên đã được Chủ tịch nước tặng Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Độc lập hạng Nhất; 10/10 huyện, thành phố và 73 xã, phường, thị trấn được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 2.048 mẹ được truy tặng, phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”6. Ngoài ra, Đảng và Nhà nước còn tặng thưởng hàng vạn huân, huy chương các loại cho các tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây thực sự là trang sử vàng chói lọi, là niềm tự hào của mảnh đất và con người Hưng Yên với chủ nghĩa yêu nước sâu sắc.

2. Truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, trọng nhân tài

Vùng đất địa linh nhân kiệt này là điểm sáng của truyền thống hiếu học, tinh thần ham học hỏi, nhất là về cử nghiệp và thi thư. Hưng Yên thời nào cũng có nhân tài, nơi đâu cũng có người thành danh khoa bảng; có những gia đình, cha con, ông cháu đều văn võ kiêm toàn, trở thành danh nhân văn hóa, danh nhân lịch sử của đất nước; có những làng, xã có truyền thống khoa cử lâu đời, nhiều dòng họ đỗ đạt cao như làng Thổ Hoàng (Ân Thi), làng Xuân Cầu, Lại Ốc (Văn Giang),...

Trong 845 năm Hán học, Hưng Yên có 228 người thi đỗ đại khoa được ghi danh ở bia Văn Miếu (thôn Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên), trong đó có 8/53 trạng nguyên của cả nước. Sử sách lưu danh và nhân dân ghi nhận những đóng góp lớn lao của đội ngũ các nhà cử nghiệp đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước trên tất cả các lĩnh vực: Nguyễn Trung Ngạn (1289 - 1370) quê Thổ Hoàng - Ân Thi, 12 tuổi đỗ thái học sinh, 16 tuổi đỗ hoàng giáp, từng đi sứ Bắc, là người biên soạn sử Nam và là đại thần của 5 đời vua Trần; Lê Như Hổ quê xã Hồng Nam - thành phố Hưng Yên là nhà toán học, ngoại giao, sử học lỗi lạc; Đoàn Thị Điểm (1705 -1748) quê Giai Phạm -Yên Mỹ, được mệnh danh là Hồng Hà nữ sĩ, dịch giả Chinh phụ ngâm nổi tiếng; Hải thượng Lãn ông Lê Hữu Trác (1720 - 1791) quê Liêu Xá - Yên Mỹ là đại danh y của dân tộc… Văn miếu Xích Đằng (thành phố Hưng Yên) được xây dựng năm 1839 - Một biểu tượng minh chứng cho truyền thống hiếu học của mảnh đất và con người Hưng Yên.

Thực hiện Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhiệm vụ diệt “giặc dốt” những ngày đầu giành chính quyền, Hưng Yên là tỉnh đi đầu trong phong trào Bổ túc văn hóa và xóa mù chữ… Năm 1960, Hưng Yên đã được Trung ương Đảng tặng thưởng Cờ “Dẫn đầu về bổ túc văn hóa”, Bác Hồ ký lệnh tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba và hạng Nhì về Bổ túc văn hóa. Hưng Yên còn là địa danh tiêu biểu của phong trào thi đua “Hai tốt”, phong trào xây dựng tập thể học sinh xã hội chủ nghĩa, có đóng góp quan trọng vào thành quả chung của nền giáo dục cách mạng nước nhà với những điển hình tiên tiến toàn quốc như: Trường Mầm non Tân Tiến (Văn Giang), Trường Mầm non Nhật Tân (Tiên Lữ), Trường Trung học cơ sở Trần Cao (Phù Cừ), Trường Trung học phổ thông Hưng Yên (thành phố Hưng Yên)... Mảnh đất này đã sinh dưỡng nhiều người con ưu tú tiêu biểu cho tinh thần hiếu học và có công lớn trên các lĩnh vực trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước: Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh - người đề xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước; các văn nghệ sĩ, tướng lĩnh và trí thức lớn: Giáo sư Dương Quảng Hàm - nhà nghiên cứu Văn học đã đặt nền móng cho môn Lịch sử Văn học, đồng thời là nhà giáo dục khởi xướng chương trình quốc học cho nền giáo dục hiện đại; nhà văn hiện thực phê phán Nguyễn Công Hoan - người đã có công khai phá và mở đường cho chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam trong thời kỳ hiện đại; họa sĩ Tô Ngọc Vân (Văn Giang) - người có công đầu tiên trong việc sử dụng chất liệu sơn dầu ở Việt Nam và được xem là một trong những họa sĩ lớn nằm trong bộ tứ “Nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn”; nhà văn trào phúng Vũ Trọng Phụng (Mỹ Hào); nhà thơ tiên phong trong phong trào Thơ mới Phạm Huy Thông (Ân Thi), vị tướng huyền thoại Trung tướng Nguyễn Bình (Yên Mỹ) - Trung tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tô thắm truyền thống hiếu học của cha ông, trong thời kỳ hợp nhất tỉnh, nhất là sau 20 năm tái lập, truyền thống ham học hỏi đã được các thế hệ người Hưng Yên tiếp tục kế thừa phát huy. Đặc biệt, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2010 - 2015, sự nghiệp giáo dục và đào tạo tỉnh nhà phát triển vững chắc và đạt được nhiều kết quả tích cực, thực hiện từng bước đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo: Chất lượng giáo dục đại trà và giáo dục mũi nhọn có nhiều chuyển biến tích cực; tỷ lệ học sinh thi đỗ đại học cao. Hàng năm, ngành Giáo dục đã vinh dự được Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo trao tặng nhiều phần thưởng cao quý… Cùng với kết quả nổi bật đạt được, Hưng Yên đã có nhiều chính sách quan trọng được ban hành thể hiện sự quan tâm chăm lo của tỉnh tới phát triển sự nghiệp giáo dục, nhất là đối với việc sử dụng và bồi dưỡng nhân tài, tiêu biểu: Đề án thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy về làm công chức dự bị tại xã, phường, thị trấn; Đề án thu hút bác sĩ, dược sĩ (tốt nghiệp đại học chính quy) về tỉnh công tác; thực hiện chính sách hỗ trợ đối với cán bộ, công chức, viên chức được cử đi đào tạo sau đại học và khuyến khích ưu đãi tài năng… Bên cạnh đó, chủ trương nhằm hướng tới xây dựng một xã hội học tập của tỉnh với công tác khuyến học, khuyến tài những năm qua đã được triển khai rộng khắp từ gia đình, dòng họ, thôn, xã đến cấp huyện, cấp tỉnh như đã tiếp lửa cho truyền thống hiếu học của mảnh đất nơi đây. Đó thực sự là nguồn cổ vũ, khích lệ và động viên to lớn các thế hệ người con Hưng Yên tiếp tục học tập, rèn luyện, đem tài năng, sức trẻ để cống hiến cho tỉnh, đất nước.

3. Truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, vượt khó vươn lên

Hưng Yên là tỉnh có lịch sử phát triển với dấu tích của nền văn minh lúa nước có từ rất sớm. Ngoài trồng trọt là nghề chính, tại mảnh đất này, nhiều nghề đã ra đời như một minh chứng cho đức tính cần cù, sáng tạo của người Hưng Yên, như: Nghề đúc đồng ở làng Cầu Nôm, Đại Đồng (Văn Lâm); nghề làm tương ở Bần, Yên Nhân (Mỹ Hào); nghề đan thuyền Nội Lễ (Tiên Lữ); nghề nấu rượu Trương Xá (Kim Động); nghề trạm bạc Huệ Lai (Ân Thi)…Trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, truyền thống lao động cần cù, vượt khó vươn lên càng được củng cố và phát huy. Năm 1945, chính quyền cách mạng vừa mới được thành lập phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thực hiện Chỉ thị của Trung ương và Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!”, Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên đã phát động phong trào tăng gia sản xuất với khẩu hiệu “Không để một tấc đất bỏ hoang”, “Tấc đất, tấc vàng”... Kết quả, bằng sức người và tình yêu đối với lao động, nhân dân Hưng Yên đã biến những vùng đất hoang thành ruộng đồng tốt tươi, những bờ ngòi, gò đống, bãi sông thành vạt sắn, ruộng ngô…; diện tích và sản lượng lương thực, thực phẩm tăng khá nhanh, đóng góp một phần không nhỏ vào thành quả chung của đất nước những ngày đầu Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Mảnh đất nơi đây không chỉ từng là điểm sáng của phong rào bổ túc văn hóa, cái “nôi” của phong trào xây dựng gia đình văn hóa, Hưng Yên còn rất điển hình về phong trào làm thủy lợi với tinh thần thi đua “Tiến quân làm thủy lợi”, “Vắt đất ra nước, thay trời làm mưa”… Trong 10 lần Bác Hồ về thăm Hưng Yên, có tới 8 lần Bác đến thăm các công trình thủy lợi. Hệ thống đại thủy nông Bắc - Hưng - Hải7được khởi công vào năm 1956 là công trình tiêu biểu cho tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, vượt khó vươn lên của con người Hưng Yên. Trong phong trào làm thủy lợi ấy đã xuất hiện những nữ Anh hùng lao động như: Phạm Thị Vách (Kim Động), Vũ Thị Tỵ (Tiên Lữ)…Với những thành tích tiêu biểu, Hưng Yên đã vinh dự được Bác Hồ 4 lần tặng Cờ Luân lưu làm thủy lợi khá nhất miền Bắc. Bước vào công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển để sớm trở thành tỉnh công nghiệp, tinh thần cần cù, sáng tạo, vượt khó vươn lên tiếp tục được phát huy cao độ và khẳng định bằng bức tranh phát triển toàn diện sau 20 năm tái lập: Những ngày đầu tái lập (1997), Hưng Yên đứng trước muôn vàn khó khăn, nhưng bằng sự vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng trong điều kiện thực tế của tỉnh, Hưng Yên hôm nay đang từng bước khẳng định được tầm vóc trên bước đường hội nhập. Nhiệm kỳ 2010 - 2015, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, Hưng Yên đã có những bước tiến quan trọng, vững chắc với nhiều khởi sắc: Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 7,8% và cao hơn mức bình quân của cả nước; thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 40 triệu đồng/năm, gấp hơn 10 lần so với năm 1997 lúc mới tái lập tỉnh. Tổng thu ngân sách trên địa bàn vượt kế hoạch Trung ương giao và vượt chỉ tiêu hàng năm. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực: Công nghiệp, xây dựng tăng mạnh, chiếm tỷ trọng cao; sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, chuyển mạnh sang hướng hàng hóa chất lượng cao và giá trị kinh tế cao, sản lượng chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản tăng. Kết cấu hạ tầng được đầu tư nâng cấp nhanh, đồng bộ. Quốc phòng - An ninh được tăng cường, giữ vững ổn định chính trị, đời sống nhân dân đã có nhiều tiến bộ rõ rệt… Kết quả đó là nguồn động viên, khích lệ to lớn và tạo nền tảng quan trọng để Hưng Yên tiếp tục phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu và sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo tinh thần Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã đề ra.

4. Truyền thống đoàn kết, gắn bó, tương thân tương ái, sống có nghĩa tình, thủy chung

Mang trong mình cùng nhịp đập dòng máu con Lạc cháu Hồng, mảnh đất và con người Hưng Yên rất đậm ân tình với chủ nghĩa nhân văn sâu sắc. Trong lịch sử, vùng đất Hưng Yên đã từng phải oằn mình trải qua nhiều cơn phẫn nộ khắc nghiệt từ hiểm họa của thiên nhiên tác động.Từ năm 1806 - 1898, với 92 năm đã có 39 năm đê vỡ, 10 năm hạn hán, 15 năm sâu dịch, riêng ở Hưng Yên đê Văn Giang vỡ 18 năm liền, đê Cửa Yên vỡ trong 6 năm liên tục… Từ năm 1905 - 1945, đê sông Hồng vỡ 10 lần, trong đó trận lụt lớn xảy ra vào năm 1915, một nửa lượng nước sông Hồng đổ vào 3 tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, khiến cho ruộng đồng, làng mạc bị tàn phá nặng nề. Năm 1923, vụ lúa chiêm ở Bắc Kỳ bị hạn hán tiêu khô quá nửa, đến khi sắp được thu hoạch lại gặp mưa lụt. Tháng 9 - 10/1937, nạn lụt Đinh

Sửu đã nhấn chìm 38.000 mẫu ruộng, làm cho hàng trăm ngàn người trở nên đói rách8… Chính quá trình đó đã buộc người dân phải sống đoàn kết, gắn bó, sống có nghĩa tình. Trong đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng khi vừa giành được chính quyền (1945), thực hiện Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” và noi gương Chủ tịch Hồ Chí Minh “Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”, nhân dân Hưng Yên đã tự nguyện nhịn bữa, bớt ăn, san sẻ thóc, gạo, ngô, khoai trợ giúp đồng bào cứu đói. Tình người của mảnh đất nơi đây còn được thể hiện rất sâu đậm trong lửa đạn chiến tranh của hai cuộc kháng chiến: Ngoài việc bảo đảm lương thực, Hưng Yên đã tiếp tế 300 tấn gạo cho Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Lạng Sơn và một số thóc cho Trung Bộ năm 1946; đồng thời cũng đã chi viện sức người, sức của cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước... Hòa bình lập lại, dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân càng được củng cố. Một trong những nét đẹp tiêu biểu cho tinh thần đại đoàn kết toàn dân của con người Hưng Yên, đó là hiệu quả từ phong trào xây dựng Nông thôn mới. Giai đoạn 2010 - 2015, thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, tổng nguồn vốn của tỉnh đã huy động đạt gần 40 nghìn tỷ đồng, trong đó nhân dân đóng góp 16 nghìn tỷ đồng cùng với hàng ngàn ngày công lao động và hiến đất làm đường. Đến tháng 6/2016, toàn tỉnh có 38/145 xã (26,2%) đạt 19/19 tiêu chí về chuẩn xây dựng Nông thôn mới. Bên cạnh đó, hàng loạt chính sách an sinh xã hội được tỉnh quan tâm chăm lo: Các quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, “Vì người nghèo”, “Bảo trợ trẻ em”… hoạt động có hiệu quả; nâng mức hỗ trợ cho các đối tượng bảo trợ xã hội; thực hiện chính sách ưu đãi, chăm sóc người có công, tri ân các anh hùng liệt sĩ, nhận phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam anh hùng...

*** ***

Nhìn lại tiến trình lịch sử hào hùng của dân tộc qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, trong đó có sức trỗi dậy của mảnh đất và con người Hưng Yên với chặng đường 185 năm qua, chúng ta thêm tự hào về những giá trị tinh thần và đặc điểm nhân cách con người Việt Nam. Các thế hệ dân tộc Việt Nam, trong đó có con người Hưng Yên đã gìn giữ, phát huy những nét đẹp truyền thống của chủ nghĩa yêu nước, anh hùng cách mạng và chủ nghĩa nhân văn sâu sắc. Hưng Yên đang cùng với cả nước bước vào quá trình toàn

cầu hóa, hội nhập quốc tế, bối cảnh đó sẽ có tác động không nhỏ tới các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Thế hệ trẻ Hưng Yên cùng với cả nước cần nhận thức sâu sắc giá trị văn hóa truyền thống dân tộc và của quê hương Hưng Yên văn hiến; từ đó tự trau dồi bản lĩnh chính trị, tu dưỡng đạo đức, nhân cách xứng đáng với truyền thống hào hùng của cha ông; đóng góp tài năng và trí lực để cùng chung tay xây dựng quê hương, đất nước ngày càng trở nên giàu đẹp, văn minh. Hưng Yên đang cùng với cả nước bước vào quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, bối cảnh đó sẽ có tác động không nhỏ tới các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Thế hệ trẻ Hưng Yên cùng với cả nước cần nhận thức sâu sắc giá trị văn hóa truyền thống dân tộc và của quê hương Hưng Yên văn hiến; từ đó tự trau dồi bản lĩnh chính trị, tu dưỡng đạo đức, nhân cách xứng đáng với truyền thống hào hùng của cha ông; đóng góp tài năng và trí lực để cùng chung tay xây dựng quê hương, đất nước ngày càng trở nên giàu đẹp, văn minh.

1. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 6. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.171.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.66.

3. Tên đoạn sông Hồng từ cuối thành phố Hưng Yên đến cửa Ba Lạt

4. Tên đoạn sông Hồng chảy qua thành phố Hưng Yên.

5. Theo Sách Anh hùng liệt sỹ tỉnh Hưng Yên - 2012

6. Giai đoạn từ 1994 - 2015.

7. Gồm 2 kênh chính là Kênh chính Bắc từ cống Xuân Quan (Châu Giang) qua các xã Cửu Cao (Châu Giang), Trưng Trắc, Nghĩa Trụ, Vĩnh Khúc, Đồng Than, Thanh Long (Mỹ Văn) tới Minh Châu (Châu Giang) chia làm 2 nhánh - nhánh phía Đông đổ ra sông Kim Sơn và sông Cửu Yên ở đoạn Cống Tranh; nhánh phía Nam từ xã Thường Kiệt (Mỹ Văn) qua các huyện Châu Giang, Ân Thi, Kim Động tới phường Hiến Nam (thị xã Hưng Yên), gặp sông Hòa Bình chạy song song với đường 39B tới Cầu Tràng (Hải Dương). Kênh chính Nam từ cống Xuân Quan chảy qua phía Tây huyện Châu Giang tới Cầu Ngàng (Kim Động), gặp sông Điện Biên rồi chảy về phía Đông gặp sông Sậy, giáp Hải Dương.

8. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hưng Yên, tập I (1929-1954). Nxb Văn hóa Thông tin, 2008, tr.18-20.

Nguồn: Sách giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên tỉnh Hưng Yên

Nguồn: Sách giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên tỉnh Hưng Yên

Video liên quan

Chủ đề