Nêu các cuộc cách mạng tư sản đầu tiên

Các cuộc cách mạng tư sản đầu tiên có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu sự phát triển tất yếu của lịch sử thế giới cận đại. Các cuộc cách mạng này diễn ra tại các nước Châu Âu và Bắc Mỹ mở đầu cho thời đại đấu tranh giành quyền dân chủ và độc lập của thế giới.

Cụ thể qua nội dung bài viết sau đây, chúng tôi xin nêu ý nghĩa lịch sử của các cuộc cách mạng tư sản đầu tiên.

Cách mạng Hà Lan thế kỷ XVI

Trước hết để có thể nêu ý nghĩa lịch sử của các cuộc cách mạng tư sản đầu tiên bài viết xin đưa ra các cuộc cách mạng tư sản đầu tiên để bạn đọc nắm rõ.

Cách mạng Hà Lan thế kỷ XVI là một trong những cuộc cách mạng tư sản đầu tiên. Đầu thế kỉ XVI, Nê-đéc-lan là nơi có nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển nhất ở châu Âu nhưng lại chịu sự thống trị khốn khổ của vương quốc Tây Ban Nha. Các cuộc đấu tranh của nhân dân Nê-đéc-lan ngày càng nhiều. Tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh tháng 8/1566 là cuộc đấu tranh bị đàn áp đẫm máu. Các tỉnh Bắc Nê đéc len thành lập nước Cộng hòa – Các tỉnh Liên hiệp 1581 (Sau này gọi là Hà Lan). Hà Lan độc lập vào năm 1648.

Cách mạng tư sản Anh giữa thế kỷ XVII

Anh được coi là quốc gia có quan hệ tư bản chủ nghĩa lớn mạnh nhất châu Âu với các đặc điểm: Nhiều công trường thủ công ra đời. Nhiều trung tâm công nghiệp, thương mại, tài chính hình thành, tiêu biểu là Luân Đôn – thủ đô nước Anh. Những phát minh mới về kĩ thuật, các hình thức lao động hợp lý làm cho năng xuất lao động tăng. Chủ nghĩa tư bản len lỏi vào nông nghiệp bằng hình thức sử dụng các thiết bị máy móc, nguồn nhân công phục vụ cho công nghiệp.

Số đông địa chủ là quý tộc vừa và nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản và trở thành tầng lớp quý tộc mới. Kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ và mâu thuẫn giữa tư sản, quý tộc mới với độ quân chủ chuyên chế gay gắt dẫn tới cuộc cách mạng.

Tiến trình của cách mạng ở Anh gồm hai giai đoạn. Trong đó giai đoạn 1 là cuộc nội chiến từ 1642-1648. Thời điểm bùng nổ cuộc nội chiến giữa Quốc hội với Quân đội nhà vua, trong đó thắng lợi nghiêng về phía nhà vua. Tiếp theo là Crom-oen lên làm chỉ huy và lúc này quân đội quốc hội đã liên tiếp đánh bại quân của nhà vua. Giai đoạn 2 diễn ra từ năm 1649-1688. Ngày 30-1-1649 Sác lơ I bị xử tử, Anh là nước Cộng hòa, CM đạt đến đỉnh cao. Năm 1640 vua triệu tập quốc hội, quốc hội tố cáo của, nhân dân ủng hộ quốc hội. Tháng 8-1642 nội chiến bùng nổ. Năm 1648 quân đội nhà vua thất bại, nội chiến kết thúc. Tháng 12-1688 phế truất vua Giêm II, Anh là nước quân chủ lập Hiến.

Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ

Sau khi Cô-lôm-bô tìm ra châu Mĩ, nhiều nước châu Âu lần lượt chiếm và chia nhau châu lục mới này làm thuộc địa. Đến đầu thế kỉ XVIII, thực dân Anh đã thành lập 13 bang thuộc địa ở Bắc Mĩ. Kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển, tuy nhiên thực dân Anh ngăn cản sự phát triển của công, thương nghiệp của thuộc địa. Mâu thuẫn gay gắt giữa thuộc địa với chính quốc dẫn tới cuộc đấu tranh chống ách thống trị của thực dân Anh. Mâu thuẫn giữa nhân dân thuộc địa với thực dân Anh gay gắt, cách mang bùng nổ. Bên cạnh đó trước sự kiện “chè Bô-xtơn’ đã thổi bùng lên ngọn lửa chiến tranh ở Bắc Mĩ.

Diễn biến cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh diễn ra mở màn từ tháng 12/1773 nhân dân cảng Bô-xtơn phản đối chế độ thu thuế bằng cách tấn công ba tàu chở chè của Anh. Thực dân Anh đã ra lệnh đóng cửa cảng để đáp lại. Hội nghị lục địa ờ Phi-la-đen-phi-a năm 1774, yêu cầu vua Anh phải xóa bỏ các luật cấm vô lý. Tháng 4/1775, cuộc chiến tranh bùng nổ.  Quân thuộc địa đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng, nhờ có sự lãnh đạo tài giỏi của Gioóc-si-ơ Oa-sinh-tơn. Ngày 4/7/1776, bản Tuyên ngôn Độc lập được công bố, xác định quyền của con người và quyền độc lập của 13 thuộc địa. Cuộc chiến tranh vẫn tiếp diễn do thực dân Anh không chấp nhận. Tháng 10/1777, quân 13 thuộc địa giành thắng lợi lớn ở Xa-ra-tô-ga. Năm 1783, thực dân Anh phải kí Hiệp ước Véc-xai, công nhận nền độc lập của các thuộc địa. Cuộc chiến tranh kết thúc.

Có thể thấy Ý nghĩa lịch sử của các cuộc cách mạng tư sản đầu tiên như sau:

Về mặt ý nghĩa cuộc cách mạng Hà Lan là một trong những cuộc cách mạng tư sản đầu tiên cuộc cách mạng tư sản đầu tiên dưới hình thức đấu tranh giải phóng dân tộc. Cuộc đấu tranh này cũng tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Nhân dân Nê-đéc-lan nhiều lần nổi dậy chống lại, thành lập nên Hà Lan độc lập.

Cuộc cách mạng ở Anh giúp chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập, lật đổ chế độ phong kiến, đồng thời thoát khỏi sự thống trị của phong kiến. Cuộc cách mạng ở Anh mở đường cho kinh tế tư bản phát triển. Đây cũng được xem là cuộc cách mạng tư sản không triệt để bởi vẫn duy trì ngôi vua và chỉ chủ yếu đáp ứng nhu cầu cho quý tộc mới và tư sản, nhân dân lao động không được hưởng quyền lợi.

Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ giúp giải phóng Bắc Mĩ khỏi chính quyền Anh, thành lập quốc gia tư sản tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Bên cạnh đó góp phần thúc đẩy cách mạng chống phong kiến ở châu Âu, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Á – Phi – Mĩ La-tinh.

Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: Nêu ý nghĩa lịch sử của các cuộc cách mạng tư sản đầu tiên. Nếu trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu và giải quyết vấn đề còn điều gì mà bạn đọc thắc mắc hay quan tâm bạn có thể liên hệ chúng tôi qua tổng đài tư vấn pháp luật để được hỗ trợ.

Cách mạng Hà Lan, về phương diện dân tộc, đã giải phóng Hà Lan khỏi sự thống trị của bên ngoài. Từ đây, Hà Lan trở thành một quốc gia độc lập và phát triển. Cách mạng Hà Lan là cuộc cách mạng đầu tiên trên thế giới đã dọn đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển, thể hiện sự thắng thế của giai cấp tư sản đối với giai cấp phong kiến, báo hiệu sự suy vong của giai cấp phong kiến. Về phương diện thế giới, cách mạng Hà Lan đã ảnh hưởng tới nhiều cuộc cách mạng nổi tiếng sau này như Cách mạng Anh, Cách mạng Pháp và Cuộc chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mỹ.

Cách mạng Hà Lan mang tính chất của một cuộc cách mạng tư sản dưới hình thức của một cuộc đấu tranh giành độc lập. Đây là tính chất chung của nhiều cuộc cách mạng lớn trong thời kỳ Cận đại.

Cách mạng Hà Lan (bắt đầu từ năm 1566 hoặc 1568 đến năm 1648) là cuộc khởi nghĩa của nhân dân Vùng đất thấp chống lại sự cai trị của Felipe II của Tây Ban Nha. Đây cũng là dấu mốc đánh dấu sự chuyển giao lịch sử giữa thời kỳ Trung cổ và Cận đại.

Nguyên nhân

Cách mạng Hà Lan nổ ra là vì nguyên nhân là vùng đất Netherlands (thuộc Bỉ và Hà Lan bây giờ, là một vùng đất thấp hơn mực nước biển nên có tên gọi như vậy) lệ thuộc vào Áo vào cuối thế kỷ XV, giữa thế kỷ sau lại chịu sự thống trị của Vương quốc Tây Ban Nha. Từ đầu thế kỷ này, vùng đất này là một trong những vùng kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển nhất châu Âu với nhiều thành phố và hải cảng, trong đó có những trung tâm thương mại nổi tiếng như Utrecht, Amsterdam,… Sự phát triển kinh tế của Netherlands cũng trùng thời điểm Phong trào Kháng cách diễn ra trên khắp lục địa già. Đây là nơi mà tư tưởng Tân giáo, một trong hai xu hướng của phong trào trên, của Calvin phát triển. Thấy được những điều đó. Tây Ban Nha đã tìm mọi biện pháp để kiểm soát vùng đất này. Quốc vương Tây Ban Nha đã tăng cường kiểm soát và thu lợi tức bằng thuế nặng để kìm hãm sự phát triển của vùng đất này. Thêm vào đó, Quốc vương đã đàn áp những người theo Tân giáo. Điều thể hiện rõ nhất đó là quy định: hễ ai là tín đồ Tân giáo là đàn ông thì bị chặt đầu, đàn bà bị chôn sống hoặc bị thiêu và tài sản bị tịch thu, những người che giấu, giúp đỡ và nói chuyện với họ cũng bị tịch thu tài sản. Từ đây, mâu thuẫn giữa người dân Nederlands và Vương quốc Tây Ban Nha ngày càng gay gắt và nguy cơ của một cuộc chiến tranh là không thể tránh khỏi.

Diễn biến

Tháng 8 năm 1566, nhân dân miền bắc Nederlands đã nổi dậy khởi nghĩa. Mục tiêu của họ là Giáo hội, chỗ dựa vững chãi của người Tây Ban Nha. Một năm sau, tháng 8 năm 1567, Tây Ban Nha đưa thêm quân sang, đàn áp dã man họ, nhưng không thể ngăn cản sự phản kháng của nhân dân thuộc địa. Tháng 4 năm 1572, quân khởi nghĩa đã làm chủ được phía bắc. Quý tộc tư sản hóa ở Nederlands vì bất mãn với Tây Ban Nha nên đã gia nhập lực lượng những người khởi nghĩa và vươn lên lãnh đạo phong trào đấu tranh.

Tháng 1 năm 1579, đại biểu các tỉnh miền bắc nhóm họp tại Utrecht, tuyên bố những quyết định quan trọng. Trong hội nghị này, các đơn vị đo lường được thống nhất, chính sách về đối ngoại và quân sự được nêu ra, đạo Calvin được chọn là quốc giáo, quyền tự do tín ngưỡng được tôn trọng.

Tháng 7 năm 1581, vua Felipe II của Tây Ban Nha đã bị phế truất. Hội nghị các đẳng cấp gồm đại biểu của các tỉnh miền bắc trở thành cơ quan quyền lực tối cao. Các tỉnh này thống nhất với nhau thành một nước Cộng hòa có tên Các tỉnh Liên hiệp hay Hà Lan. Sở dĩ có tên như vậy vì Hà Lan là tỉnh có vai trò quan trọng nhất trong cuộc đấu tranh này. Tuy nắm chắc thất bại, nhưng Tây Ban Nha chưa chịu công nhận sự độc lập của Hà Lan nên nhân dân Hà Lan tiếp tục đấu tranh. Kết quả là Hiệp định đình chiến giữa hai bên được ký kết vào năm 1609, nhưng mãi đến năm 1648 nền độc lập của Hà Lan mới được công nhận chính thức.

Chủ nghĩa tư bản được xác lập trên phạm vi thế giới

Video liên quan

Chủ đề