Ngân hàng yếu kém liệu người dân có mất tiền


Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú: Triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2022 khó dự báo, đặt ra những khó khăn, thách thức mà ngành ngân hàng phải đối mặt. Ảnh: VGP

Tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2022 do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức chiều ngày 29/12 tại Hà Nội, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú đã chỉ ra một số khó khăn, thách thức và những vấn đề đặt ra đối với điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) và hoạt động ngân hàng năm 2022.

Nhận diện rủi ro

Thứ nhất, nguy cơ rủi ro lạm phát do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, trong nước và ngoài nước, tác động của chính sách thương mại, chính sách thắt chặt tiền tệ, sự dịch chuyển dòng vốn đầu tư của một số nước lớn… Trong khi đó, kinh tế dự kiến phục hồi trong năm 2022 khiến nhu cầu tiêu dùng, đầu tư gia tăng, gây sức ép lên giá cả. Điều này sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu điều hành CSTT, nhất là trong điều kiện CSTT đã được nới lỏng kéo dài trong mấy năm qua.

Thứ hai, dịch bệnh kéo dài trong suốt 2 năm và vẫn còn đang diễn biến phức tạp đã, đang và sẽ mang lại nhiều hệ lụy cho nền kinh tế. Những khó khăn như vòng quay vốn chậm, dòng tiền đứt gãy, doanh nghiệp bị sụt giảm doanh thu, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, gia tăng rủi ro về thu hồi nợ... đến năm 2022 sẽ tác động mạnh hơn đến hoạt động ngân hàng do có độ trễ (nếu tính cả dư nợ của khách hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi theo Thông tư 01 có nguy cơ chuyển thành nợ xấu thì tỉ lệ nợ xấu sẽ tăng ở mức 7,31%).

Thứ ba, việc mở rộng quy mô tín dụng và thái quá các chính sách hỗ trợ thông qua các chương trình, các gói tín dụng ưu đãi (cả về vốn và lãi suất) nếu không được nhận diện đầy đủ, kịp thời và sự hỗ trợ từ chính sách tài khóa thì sẽ ảnh hưởng đến an toàn hệ thống trong trung-dài hạn…

Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2022 do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổ chức chiều ngày 29/12 tại Hà Nội. Ảnh: VGP

Thứ tư, dù thị trường chứng khoán có bước phát triển nhưng việc cung ứng vốn cho nền kinh tế (đặc biệt vốn trung dài hạn) vẫn chủ yếu từ hệ thống ngân hàng, từ đó làm gia tăng rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản (huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn), kéo theo sức ép và rủi ro lên hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD). Ngoài ra, việc kéo dài thời gian cơ cấu lại thời hạn trả nợ (thực chất đã biến các khoản cho vay ngắn hạn thành trung dài hạn cũng như tạm thời không ghi nhận mức độ rủi ro thực tế của khách hàng) cũng sẽ tiềm ẩn rủi ro đối với hệ thống ngân hàng trong trung hạn.

Thứ năm, dịch bệnh diễn biến phức tạp, kéo dài làm cho năng lực tài chính của doanh nghiệp giảm sút, ảnh hưởng khả năng trả nợ đúng hạn. Bên cạnh đó, việc thẩm định, giải ngân tín dụng, thực hiện thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm, thủ tục xử lý nợ và việc trả nợ ngân hàng của khách hàng cũng gặp khó khăn khi thực hiện phong tỏa, giãn cách xã hội, kể cả giãn cách cục bộ.

Thứ sáu, khuôn khổ pháp lý cho hoạt động tiền tệ - ngân hàng đã được chú trọng và hoàn thiện nhiều trong thời gian qua. Tuy nhiên, nhiều quy định tại các văn bản quy phạm, kể cả luật có nhiều bất cập, chồng chéo, nhất là chưa có một hành lang pháp lý rõ ràng, đủ thẩm quyền trong việc cơ cấu lại các TCTD…

Bên cạnh đó, nguồn lực cho các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) còn bất cập với vai trò và trách nhiệm thực hiện chính sách, cũng như việc nâng cao năng lực tài chính thông qua tăng vốn điều lệ. Mặt khác, vốn điều lệ các NHTMNN tăng không tương xứng với vai trò, vị thế đã hạn chế năng lực của các ngân hàng này trong việc mở rộng tín dụng, tham gia vào các dự án lớn, các công trình hạ tầng trọng điểm quốc gia…

Ngoài ra, chuyển đổi số đang đặt ra cho ngành ngân hàng nhiều thách thức, đòi hỏi sự đồng bộ và phù hợp của các quy định và hành lang pháp lý hiện hành để theo kịp với sự phát triển của khoa học công nghệ và các ứng dụng chuyển đổi số...

Giải pháp đồng bộ thích ứng diễn biến mới

Để vượt qua những thách thức trong bối cảnh mới, Phó Thống đốc Đào Minh Tú đã nêu ra một số phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng trong năm 2022. Đại diện ngành ngân hàng khẳng định tiếp tục bám sát chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và các đánh giá, nhận định về tình hình kinh tế vĩ mô, tiền tệ để triển khai thực hiện các giải pháp trọng tâm năm 2022.

Thứ nhất, điều hành CSTT chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu năm 2022 bình quân khoảng 4%, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế. Năm 2022, định hướng tín dụng tăng khoảng 14%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa để thực hiện tốt chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội sau khi được Quốc hội phê chuẩn…

Thứ hai, điều hành linh hoạt các giải pháp tín dụng nhằm kiểm soát quy mô, tăng trưởng tín dụng hợp lý, hướng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 và thiên tai.

Thứ ba, tiếp tục thực hiện hiệu quả công tác cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng theo “Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025” sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt, trong đó tập trung xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém; phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng đủ năng lực cạnh tranh trên thị trường nội địa, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế.

Thứ tư, đẩy mạnh thực hiện các giải pháp để kiểm soát và xử lý nợ xấu; ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh; ngăn ngừa tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo và sở hữu có tính chất thao túng, chi phối trong các tổ chức tín dụng có liên quan. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của tổ chức tín dụng, đặc biệt là đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao. Phấn đấu duy trì tỉ lệ nợ xấu nội bảng ở mức an toàn (dưới 3%).

Thứ năm, tập trung đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng và hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt. Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tạo thuận lợi cho chuyển đổi số ngành ngân hàng, đáp ứng yêu cầu đối với các mô hình kinh doanh và sản phẩm dịch vụ mới trên nền tảng công nghệ thông tin, ngân hàng số, thanh toán số. Tăng cường đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán và chuyển đổi số.

Thứ sáu, NHNN cần tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật ngân hàng phù hợp với thực tiễn nhằm tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế phục hồi sau dịch COVID-19. Trong đó trọng tâm là xây dựng Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi); hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam; hoàn thiện việc đề xuất gia hạn Nghị quyết 42 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD...

Thứ bảy, NHNN thực hiện quyết liệt, hiệu quả cải cách hành chính, cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh, duy trì chỉ số chiều sâu và nâng cao độ phủ thông tin tín dụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp được tiếp cận tín dụng công bằng, minh bạch. Tiếp tục đổi mới việc tổ chức cơ chế một cửa, số hóa, điện tử hóa trong giải quyết thủ tục hành chính nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, góp phần xây dựng Chính phủ số, nền kinh tế số.

Ngoài ra, NHNN đẩy mạnh truyền thông theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đối với hoạt động thông tin của NHNN và các cam kết quốc tế từ trước, trong và sau khi ban hành chính sách nhằm tạo sự đồng thuận của dư luận.

Để tổ chức thực hiện thành công các nhiệm vụ trọng tâm và đạt được các mục tiêu đã đề ra, lãnh đạo NHNN đề nghị các đơn vị trong toàn ngành bám sát Nghị quyết 01 và các nghị quyết khác của Chính phủ, Chỉ thị 01 của Thống đốc NHNN, tập trung xây dựng kế hoạch với lộ trình, sản phẩm cụ thể; đồng thời tổ chức quán triệt đến từng cán bộ trong đơn vị để triển khai nghiêm túc, quyết liệt ngay từ đầu năm.

Anh Minh


TRUNG KIÊN

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý

Đầu những năm 90, đoàn tàu kinh tế Nhật Bản bắt đầu giảm tốc. Một vài ngân hàng nhỏ có dấu hiệu mất thanh khoản khi khách hàng bắt đầu không trả được nợ đến hạn. Tuy nhiên, người Nhật vẫn lạc quan, không chú ý đến các dấu hiệu được coi là nguồn gốc của những cơn đại địa chấn tài chính sau này.

Khủng hoảng mới đầu chỉ như một đốm lửa nhỏ, sau đó lan rộng và đỉnh điểm là tuyên bố vỡ nợ của hai ngân hàng lớn (megabank) là Ngân hàng Tín dụng dài hạn Nhật Bản (Chogin) và Ngân hàng Trái phiếu Nhật Bản (Nissaigin) vào năm 1998. Trong giai đoạn 1998-2001, mỗi tuần có từ hai đến năm ngân hàng nộp đơn phá sản. Điều này gây áp lực rất lớn lên hệ thống ngân hàng, đòi hỏi Chính phủ Nhật Bản phải có hành động ngay để ổn định hệ thống, giữ lòng tin của người gửi tiền. 

Trong giai đoạn từ 1991-2001, Nhật Bản đã phải xử lý 180 trường hợp vỡ nợ của các tổ chức tín dụng (TCTD), trong đó có 20 ngân hàng cỡ lớn và trung bình, 26 ngân hàng Shinkin (hoạt động như mô hình quỹ tín dụng trên một địa bàn nhất định) và 134 ngân hàng Shinkumi (hoạt động như hợp tác xã tín dụng theo từng ngành nghề và không giới hạn địa bàn). 

Sau khi tốn nhiều thời gian, công sức và chi phí hàng trăm tỷ USD (chỉ riêng hai ngân hàng Chogin và Nissaigin đã phải hỗ trợ tài chính lên đến 17.149 tỷ yên, tương đương 171 tỷ USD), Chính phủ Nhật Bản đã hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cách thức thực hiện đối với các ngân hàng yếu kém và đưa con tàu kinh tế Nhật Bản trở lại chu kỳ tăng trưởng mới. Kết quả là từ năm 2002 đến nay, Nhật Bản chỉ phải xử lý duy nhất một trường hợp ngân hàng vỡ nợ theo hình thức quốc hữu hóa là Ngân hàng Ashikaga. 

Hệ thống hành lang pháp lý để xử lý TCTD vỡ nợ tại Nhật Bản được thay đổi theo từng thời kỳ, cụ thể:

Giai đoạn trước năm 1998, áp dụng theo Luật Bảo hiểm tiền gửi (ra đời tháng 4/1971). Theo quy định của luật này, TCTD vỡ nợ sẽ bị xóa bỏ chức năng tài chính. Đến tháng 7/1986, Luật Bảo hiểm tiền gửi được sửa đổi, theo đó bổ sung phương thức hỗ trợ vốn, nâng mức chi trả bảo hiểm tiền gửi lên gấp ba lần, đồng thời áp dụng chính sách bảo hiểm tiền gửi toàn phần trong 5 năm dựa trên chương trình “Khôi phục chức năng hệ thống tài chính” của Bộ Tài chính.

Đến tháng 6/1996, Luật Bảo hiểm tiền gửi được sửa đổi lần nữa, theo đó, Chính phủ có thể hỗ trợ vốn đặc biệt vượt phạm vi chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền và có thể mua tài sản từ các TCTD vỡ nợ. Trong giai đoạn này, biện pháp chủ yếu được áp dụng là tìm kiếm tổ chức tiếp nhận ngân hàng vỡ nợ, nếu không tìm được sẽ đình chỉ hoạt động của ngân hàng này và không cho phép rút tiền gửi có kỳ hạn cũng như tiếp tục giải ngân. 

Động thái trên gây hoang mang trong dư luận Nhật Bản thời đó, tạo sức ép lên hoạt động điều hành yếu kém của Bộ Tài chính Nhật Bản trong việc kiểm soát hệ thống các TCTD. Chính phủ Nhật Bản khi đó đã quyết định tách bộ phận giám sát hệ thống tài chính ra khỏi Bộ Tài chính, hình thành Cơ quan Dịch vụ tài chính Nhật Bản (FSA) vào năm 1998, thực hiện chức năng quản lý, giám sát ba lĩnh vực là ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán.

Giai đoạn từ tháng 10/1998 đến tháng 3/2001, Luật Khôi phục tài chính được ban hành để ứng phó sự sụp đổ của hai ngân hàng lớn tại Nhật Bản. Theo đó, TCTD vỡ nợ có thể tiếp tục duy trì hoạt động khi cơ quan chức năng cử quản trị viên tài chính thay thế ban lãnh đạo và điều hành hoạt động ngân hàng. Ngoài ra, cũng có thể áp dụng cơ chế ngân hàng bắc cầu để tiếp nhận hoạt động kinh doanh của ngân hàng vỡ nợ, hoặc áp dụng cơ chế tổng công ty bảo hiểm tiền gửi mua lại cổ phần của ngân hàng vỡ nợ (quốc hữu hóa tạm thời) nếu tiềm ẩn rủi ro lớn đối với hệ thống. 

Giai đoạn từ tháng 4/2001 đến nay, để thích ứng điều kiện thay đổi của nền kinh tế, Luật Bảo hiểm tiền gửi tiếp tục được sửa đổi. Trên quan điểm chủ đạo là luật phải mềm dẻo, linh hoạt để tương thích những quy định mang tính khung, chuẩn mực đối với từng TCTD, Điều 102 Luật Bảo hiểm tiền gửi được sửa đổi, quy định các biện pháp ứng phó nguy cơ tài chính, tạo hành lang pháp lý chặt chẽ cho quá trình xử lý ngân hàng yếu kém, có nguy cơ ảnh hưởng tới toàn hệ thống tài chính. 

Kinh nghiệm đúc rút từ Nhật Bản

Qua quá trình xử lý các TCTD yếu kém tại Nhật Bản, nhiều bài học kinh nghiệm đã được đúc rút, làm cơ sở để nghiên cứu, ứng dụng phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam.

Một là, vai trò quan trọng nhất thuộc về Hội đồng ứng phó nguy cơ tài chính do Thủ tướng Nhật Bản làm Chủ tịch. Thủ tướng là người toàn quyền đưa ra các quyết định trong việc xử lý ngân hàng yếu kém. Sau khi quyết định quốc hữu hóa, Thủ tướng chỉ định hoặc yêu cầu FSA cử người có năng lực, trình độ, kinh nghiệm vào điều hành hoạt động TCTD, thay thế và xem xét trách nhiệm của ban lãnh đạo cũ, xây dựng kế hoạch kinh doanh, triển khai thực hiện. Việc lãnh đạo cao nhất của Chính phủ trực tiếp chỉ đạo hoạt động của TCTD yếu kém đã tạo hiệu quả rõ rệt trong công tác chỉ đạo điều hành.

Hai là, Tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi đóng vai trò trọng yếu trong việc hỗ trợ tài chính cho các TCTD yếu kém. Nguồn tài chính của Tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi chủ yếu đến từ việc thu phí bảo hiểm đối với các TCTD, đến nay đã tích lũy được 6.400 tỷ yên (khoảng 64 tỷ USD). Ngoài ra, theo quy định tại Luật Bảo hiểm tiền gửi, Tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi có thể vay vốn từ các ngân hàng khác và được Chính phủ bảo lãnh tối đa lên tới 35.000 tỷ yên (tương đương 350 tỷ USD). Mức vay này có thể điều chỉnh hằng năm tùy theo thực trạng kinh tế và được Quốc hội Nhật Bản phê chuẩn. Với nguồn tài chính dồi dào, Tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp tài chính để chi trả tiền gửi, mua lại tài sản từ TCTD vỡ nợ, tăng vốn để ổn định hệ thống tài chính và các hình thức hỗ trợ khác.

Ba là, có sự phối hợp chặt chẽ, toàn diện giữa TCTD và các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc xử lý nợ xấu. Bên cạnh việc bán nợ xấu qua Tổng công ty Xử lý và thu hồi nợ (do Tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi sở hữu 100% vốn), Nhật Bản còn tập trung tái thiết doanh nghiệp thông qua sử dụng các tổ chức như Cơ quan Tái thiết công nghiệp Nhật Bản, Hiệp hội Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ để hỗ trợ quản trị, điều hành, tái cơ cấu hoạt động kinh doanh cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này phục hồi hoạt động, có khả năng trả nợ cho ngân hàng.

Bốn là, thay thế và lựa chọn bộ máy lãnh đạo mới cho ngân hàng là những người có năng lực, trình độ, tâm huyết. Những người này là nhân tố trung tâm trong việc khôi phục hoạt động của TCTD được quốc hữu hóa, duy trì số lượng khách hàng, giữ vững niềm tin, là động lực thúc đẩy nỗ lực của toàn thể cán bộ, nhân viên của ngân hàng.

Năm là, công tác lựa chọn đối tác tiếp nhận TCTD sau quốc hữu hóa được chú trọng, theo đó, TCTD tiếp nhận được thẩm định qua nhiều vòng, bảo đảm được tính bền vững sau khi tiếp nhận, phát huy chức năng trung gian tài chính và tối thiểu hóa chi phí công.

Sáu là, cần xem xét trách nhiệm đối với những thành viên ban lãnh đạo cũ của TCTD bị quốc hữu hóa, trong đó tập trung làm rõ trách nhiệm, sai phạm và phải bồi thường những tổn thất liên quan.

Video liên quan

Chủ đề