Ngày lễ vu lan là gì

Nếu bạn chưa biết tháng Vu Lan nên làm gì để bày tỏ lòng thành kính, lòng biết ơn của mình với cha mẹ, ông bà, tổ tiên thì xem ngay gợi ý dưới đây nhé.

Chuẩn bị tươm tất mâm cơm cúng tổ tiên

Ngày Vu Lan báo hiếu mỗi gia đình thường sẽ làm mâm lễ cúng dâng lên bàn thờ ông bà tổ tiên để thể hiện lòng thành kính cũng như mong muốn được các bậc bề trên phù hộ đồ trì cho gia quyến được mạnh khỏe, bình an.


Mâm cơm cúng tổ tiên không cần quá cầu kỳ mà quan trọng là tấm lòng thành của gia chủ

Thăm viếng phần mộ tổ tiên

Ngày lễ Vu Lan là ngày để thể hiện lòng biết ơn, thành kính đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, vì thế, bạn có thể thăm viếng mộ của những người thân đã mất, của tổ tiên và cầu nguyện cho gia đạo được bình an, thuận hòa.

Đi chùa cầu bình an cho cha mẹ

Vào dịp lễ này, bạn có thể đến chùa vãn cảnh, lễ Phật, làm công quả cho nhà chùa, cúng dường Tam Bảo, thả hoa đăng,… cầu bình an, sức khỏe cho cha mẹ, người thân.


Thả hoa đăng nhằm mục đích cầu siêu cho người đã khuất và cầu nguyện những điều tốt lành trong cuộc sống

Chú ý, khi đi lễ chùa bạn nhớ ăn mặc kín đáo, lịch sự để giữ gìn sự tôn nghiêm ở nơi linh thiêng.

Làm việc thiện, ăn chay tích đức

Làm nhiều việc tốt, ăn chay, không sát sinh trong tháng Vu Lan đều là những cách thể hiện được tấm lòng hiếu thảo của mình với cha mẹ.

Dành nhiều thời gian ở bên, chăm sóc cho ông bà, cha mẹ

Vào dịp này, bạn hãy dành nhiều thời gian ở bên trò chuyện, chăm sóc cho cha mẹ, ông bà. Bạn có thể cùng mọi người trong gia đình đi chùa cầu bình an, đi chơi, ăn bữa cơm ấm cúng cùng nhau để tình cảm gia đình thêm gắn kết, bền chặt.

Tặng quà ý nghĩa cho ông bà, cha mẹ

Vào tháng Vu Lan, bạn cũng có thể dành tặng ông bà, cha mẹ những món quà bất ngờ, ý nghĩa như đồng hồ thông minh, smartphone, máy tính bảng, tivi, máy giặt, tủ lạnh,… hoặc các sản phẩm chăm sóc sức khỏe như máy massage, thực phẩm chức năng,…


Tặng những món quà ý nghĩa cho cha mẹ trong tháng Vu Lan

Trên đây là bài viết về Vu Lan là ngày gì, lễ Vu Lan là ngày nào năm 2022, tháng Vu Lan nên làm gì để báo hiếu cha mẹ. Chúc bạn và gia đình có một mùa Vu Lan có nhiều niềm vui và hạnh phúc bên gia đình.

Lễ Vu Lan (ngày rằm tháng Bảy âm lịch hằng năm) là một trong những ngày lễ chính của Phật giáo, xuất phát từ sự tích Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ (quỷ đói). Vu Lan trở thành ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ và tổ tiên nói chung, nhắc nhở mỗi người biết trân trọng những gì mình đang có, nhắc nhở bổn phận làm con phải luôn nhớ đến công ơn sinh dưỡng của cha mẹ mà làm những việc hiếu nghĩa để thể hiện tình cảm và lòng biết ơn.

Ngày nay, lễ Vu Lan không đơn thuần chỉ có ý nghĩa tôn giáo thiêng liêng mà còn có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc, hướng mỗi người trở về với cội nguồn dân tộc, về với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” với tổ tiên. Lễ Vu Lan của Phật giáo đã trở thành truyền thống của tinh thần báo hiếu, báo ân, phù hợp với tinh thần tín ngưỡng thờ tổ tiên thiêng liêng của người dân Việt, là cuộc lễ mang đậm nét nhân văn, làm rạng rỡ đạo lý đền ơn đáp nghĩa của dân tộc.

Nguồn gốc lễ Vu Lan

Lễ hội Vu lan xuất phát từ sự tích Phật giáo được ghi lại trong kinh Vu Lan Bồn. Theo kinh Vu Lan Bồn, Lễ Vu Lan phát xuất từ thời Đức Phật; Ngài đã dạy phương thức báo hiếu cho cha mẹ ở đời này và nhiều đời khác. Người đầu tiên tiếp nhận chính là Tôn giả Mục Kiền Liên - một trong 10 vị đệ tử xuất chúng của Đức Phật.

Kinh "Vu Lan Bồn" có ghi lại: ngày xưa, khi Bồ Tát Mục Kiền Liên tu thành chánh quả, tưởng nhớ mẫu thân, đã dùng tuệ nhãn kiếm tìm khắp nơi trong trời đất, liền thấy mẹ mình đang ở trong loài ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ rất khổ sở. Thương mẹ, Ngài đã vận thần thông xuống cõi ngạ quỷ dâng bát cơm đầy cho mẹ. Rất tiếc, bà Thanh Đề còn quá sân si và bởi ác nghiệp còn quá nặng nên khi bốc cơm đưa vào miệng thì cơm biến thành lửa. Tôn giả Mục Kiền Liên không có cách nào cứu được mẹ nên Ngài liền quay về hỏi Đức Phật.

Đức Phật dạy rằng: "Dù ông có thần thông quảng đại như thế nào cũng không đủ sức cứu mẹ ông, chỉ có một cách là nhờ sự hợp lực của chư tăng khắp nơi, sau 3 tháng an cư kiết hạ cùng tập trung chú nguyện mới có thể chuyển hoá được nghiệp lực giúp mẹ ông thoát khỏi cảnh khổ".

Tôn giả Mục Kiền Liên làm theo lời Đức Phật, cung thỉnh chư Tăng, sắm sửa lễ cúng vào ngày 15/7 âm lịch. 

Sau đó, mẹ của Ngài được giải thoát. Trong dịp này Đức Phật cũng dạy: Chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu-Lan-Bồn Pháp) mà làm". Từ đó, ngày Lễ Vu Lan ra đời.

Tổ đình Trung Khánh chuẩn bị mừng lễ Vu Lan

(Ảnh minh họa)

Ý nghĩa thờ cúng

Lễ Vu Lan trùng hợp với ngày Rằm tháng 7 Xá tội vong nhân theo phong tục Á Đông. Theo tín ngưỡng dân gian, đây là ngày mở cửa ngục, ân xá cho vong nhân nên có lễ cúng Cô Hồn cho các vong linh không nhà cửa, không nơi nương tựa, không có thân nhân trên dương thế; đây cũng là ngày mọi tù nhân ở Địa ngục có cơ hội được xá tội, thoát sanh. Vì thế, ngoài mâm cúng ông bà, tổ tiên trong nhà thì vào lễ Vu Lan mọi người còn cúng thêm mâm ngoài trời gọi là cúng chúng sinh dành cho những cô hồn, ma đói không nơi nương tựa.

Đối với Phật giáo, trong dịp lễ Vu lan, phật tử thường cầu siêu cho người đã khuất, làm phúc bố thí, phóng sinh để tích phước cầu an, cầu mong cho cha mẹ được tăng phúc tăng thọ, hóa giải nghiệp chướng...   

Cúng chúng sinh ngoài trời trong lễ Vu Lan 

(Ảnh minh họa)

Ngoài ra, trong dịp lễ Vu Lan, khi đến chùa các phật tử sẽ được cài lên áo một bông hoa hồng: màu đỏ tượng trưng cho người còn mẹ và màu trắng cho ai đã mất mẹ. Với những ai may mắn được cài bông hồng đỏ trên ngực áo thì được nhắc nhở hãy cố gắng hết lòng vâng lời, hiếu kính, lễ phép với cha mẹ. Còn người cài hoa trắng sẽ thấy như một sự nhắc nhở không bao giờ quên ơn cha mẹ, đồng thời giữ nền nếp gia phong, anh em hòa thuận.

Ngày nay, Đại lễ Vu Lan đã được hiểu với ý nghĩa rộng hơn: Kêu gọi ý thức xã hội về tinh thần đền ơn đáp nghĩa của Đức Phật, khuyến khích con người tri ân, đền ơn bốn nguồn ân đức, đó là: Tri ân và đền ơn cha mẹ sinh thành; thầy cô giáo những người dạy dỗ, truyền đạt tri thức cho con người; tri ân các bậc tiền bối đã dựng xây đất nước, các Anh hùng liệt sỹ đã hy sinh mang lại độc lập, chủ quyền thiêng liêng cho toàn đất nước và cuối cùng là tri ân chính đồng loại con người.

Trong thời đại ngày nay, tinh thần đạo hiếu cần được đề cao, biểu dương mạnh mẽ hơn để truyền thống đó luôn được bồi đắp, ngày càng trở thành sức mạnh văn hóa của dân tộc hôm nay và mãi mãi về sau./. 

Hồng Nhung tổng hợp

Vu lan (chữ Hán: 盂蘭, bính âm: Zhōngyuán Jié), còn được gọi là lễ báo hiếu, là một trong những ngày lễ chính của Phật giáo (Đại thừa Bắc tông) và phong tục Việt Nam, Trung Hoa.

Vu-lan

Lễ Vu-lan tại chùa Quảng Hóa, Bắc Kinh

Tên gọi khácLễ báo hiếuCử hành bởiPhật tử Đại Thừa, Đạo giáoNgàySáng 15 tháng 7 Âm lịchNăm 202122 tháng 8Năm 202212 tháng 8

Lễ này trùng với Tết Trung nguyên của người Hán và cũng trùng hợp với ngày Rằm tháng 7 Xá tội vong nhân của phong tục Á Đông. Theo tín ngưỡng dân gian, là ngày mở cửa ngục, ân xá cho vong nhân nên có lễ cúng cô hồn (vào buổi chiều) cho các vong linh không nơi nương tựa, không có thân nhân trên Dương thế để thờ cúng, và là ngày mọi tù nhân ở địa ngục có cơ hội được xá tội, được thoát sanh về cảnh giới an lành.

Vào "tháng cô hồn" (tháng 7 âm lịch), người Việt Nam, người Trung Quốc theo phong tục dân gian tin là tháng không may mắn và có những điều kiêng kỵ, cũng như là khuyến khích ăn chay và làm việc từ thiện. Ở Việt Nam, tháng 7 âm lịch cũng bị nhiều coi là thời gian xui xẻo nhất trong năm và phải kiêng kỵ nhiều thứ. Có ý kiến cho rằng quan niệm này không có trong phong tục của người Việt.[1]

Vu-lan (chữ Hán: 盂蘭; sa. ullambana) là từ viết tắt của Vu-lan-bồn (盂蘭盆), cũng được gọi là Ô-lam-bà-noa (烏藍婆拏), là cách phiên âm Phạn-Hán từ danh từ ullambana. Ullambana có gốc từ động từ ud-√lamb, nghĩa là "treo (ngược) lên". Thế nên các đại sư Trung Quốc cũng dùng từ Đảo huyền (倒懸), "treo ngược lên" cho từ Vu-lan, hoặc dùng từ Giải đảo huyền (解倒懸) là dịch ý theo mục đích của Kinh Vu-lan-bồn. Thật ra, từ Giải đảo huyền được các đại sư Trung Quốc lấy ý từ câu: Dân chi duyệt chi do giải đảo huyền dã trong Mạnh Tử, chương 3 Công Tôn Sửu Thượng, chỉ sự giải thoát cho những kẻ khổ sở tột cùng ở cảnh giới Địa ngục.

Xuất phát từ sự tích về Đại Đức Mục Kiền Liên (một trong 2 đại đệ tử của Phật Thích Ca) với lòng đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ. Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung) - cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước.

Theo kinh Vu Lan thì ngày xưa, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Mẹ ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép nhìn khắp trời đất để tìm. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải sanh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận địa ngục để dâng mẹ. Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng đã hóa thành lửa đỏ.

Cũng theo kinh Vu-Lan-bồn, Mục Kiền Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: "Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để cung thỉnh chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó".[2]

Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Liên đã được giải thoát. Phật cũng dạy rằng: chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu-Lan-Bồn Pháp). Từ đó, ngày lễ Vu-lan ra đời.

Vu Lan bồn kinh

Kinh Vu-Lan-Bồn (chữ Hán:佛說報恩奉盆經, bính âm:Fúshuō Bào'ēn Fèngpén jīng, Hán-Việt: Phật thuyết báo ân phụng bồn kinh, còn gọi là Phật thuyết Vu Lan Bồn kinh) là một bộ kinh Đại thừa, bao gồm một bài giảng ngắn gọn ("pháp thoại") được cho là bởi Đức Phật Thích Ca dạy nhà sư Mục Kiền Liên cách thực hành đạo hiếu, theo đó Phật dạy cách làm thế nào để có được sự giải thoát cho mẹ mình, và cách báo hiếu cha mẹ, những người đã được tái sanh vào cõi âm, bằng cách cúng dường thực phẩm cho Tăng đoàn vào ngày rằm tháng bảy, và nhờ lời chư Tăng chú nguyện mà được cứu độ.

Truyền thống Phật giáo cho rằng kinh này đã được dịch từ tiếng Phạn bởi cao tăng Trúc Pháp Hộ (chữ Hán:竺法護, sa. Dharmarakṣa, Đàm Ma La Sát) dịch vào khoảng cuối thế kỷ thứ III đầu thế kỷ thứ IV.[3] Tuy nhiên, các học giả gần đây thừa nhận rằng kinh này ban đầu không có gốc từ Ấn Độ mà được trước tác tại Trung Quốc vào giữa thế kỷ thứ sáu.[4] Văn bản gốc do Trúc Pháp Hộ dịch (hoặc được viết trong thời đại của ông) còn lưu lại đều không đề cập đến nhân thân của Tôn giả Mục Kiền Liên và câu chuyện của mẹ ông, mà chỉ trong các tác phẩm của người đời sau tại Trung Quốc, như Mục Kiền Liên minh gian cứu mẫu biến văn được xác định viết vào khoảng từ thế kỷ thứ V đến cuối thế kỷ thứ X, mới có kể về sự tích trên.[2] Cũng có giả thuyết cho rằng, câu chuyện Mục Kiền Liên là biến tấu từ chuyện Ưu Đa La mẫu đọa ngạ quỷ duyên, gọi tắt là kinh Ưu Đa La mẫu có viết trong mục "Chuyện ngạ quỷ" của bộ Tiểu bộ kinh, chỉ thay tên nhân vật từ Ưu Đa La (Uttara hay là Uttaramātu) thành Mục Kiền Liên và thay tên người giảng là một tỳ kheo thành lời giảng của đức Phật.[2]

Theo quan niệm của đạo Phật thì ngày rằm tháng Bảy âm lịch Diêm Vương cho các âm hồn lên dương trần hưởng lộc. Theo đó mọi gia đình làm cỗ cúng gia tiên những người đã khuất, thậm chí còn đốt cả vàng mã. Ngoài ra còn có lễ vật cúng cho cô hồn lang thang, vất vưởng, không người hương khói. Lễ vật này thường là món ăn thông thường như cơm, cháo, bỏng gạo, xôi, chè kho, bánh đa, hoa quả hay gạo muối... Ngày nay, các gia đình có người mới mất có thể làm cỗ chay, đồ chay trong ngày này. Hình thức cho âm hồn hưởng lộc có nhiều cách như đổ cơm, cháo vào các lá cây, vườn..., rắc gạo, muối ra sân, ngõ... để các vong hồn cô đơn hay già yếu dễ hưởng thụ. Những lễ vật khi cúng xong có thể chia tán cho trẻ nhỏ để lấy may, lấy phước.

 

Cúng trên chùa

 

Tết Trung Nguyên tại Đài Loan

Trong một số nước Á Đông, ngày lễ này thường được tổ chức vào ngày 15 tháng 7 (Âm lịch), để tỏ hiếu với cha mẹ, ông bà và cũng để giúp đỡ những linh hồn đói khát.

Ngoài ra, còn có cúng dường, làm phước, phóng sinh, bố thí để hồi hướng công đức cho cha mẹ.

Trung Quốc

Trong văn hóa Trung Hoa, ngày rằm tháng bảy âm lịch thuộc Tiết Trung Nguyên và được gọi là Ngày ma (hồn người chết) và tháng thứ bảy nói chung được coi là Tháng ma (鬼月, Quỷ nguyệt), trong đó những con ma và linh hồn, bao gồm cả của tổ tiên đã qua đời, đến từ các cõi âm. Cùng với lễ Thanh minh (vào mùa xuân) và Trùng cửu (vào mùa thu), con cháu còn sống tỏ lòng tôn kính đối với tổ tiên đã qua đời của họ, trong Lễ hội hồn ma, người chết được cho là về thăm những người sống.[5]

Vào ngày thứ mười lăm, cõi thiên đàng và địa ngục và cõi người sống mở cửa và cả tín đồ Đạo giáo và Phật giáo sẽ thực hiện các nghi lễ để chuyển hóa và giải oan khổ của người quá cố. Trọng tâm cho Tháng âm hồn là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, nơi mà theo truyền thống hiếu thảo của con cháu đối với tổ tiên của họ kéo dài ngay cả sau khi tổ tiên đã qua đời. Các hoạt động trong tháng này sẽ bao gồm việc chuẩn bị thực phẩm cúng dường nghi lễ, đốt hương, đốt giấy vàng mã, một dạng hiện vật bằng giấy như quần áo, vàng và hàng hóa tốt khác để cúng dường tổ tiên khi họ về thăm. Bữa ăn được chuẩn bị chu đáo (thường là ăn chay) sẽ được phục vụ với các ghế trống cho mỗi người quá cố trong gia đình và đối xử với những người đã chết như thể họ vẫn đang còn sống.[5][6]

Việt Nam

 

Mâm cơm cúng ngoài trời, tại Huế

Tại Việt Nam, việc cúng Rằm tháng Bảy bao giờ cũng phải cúng ở chùa (thờ Phật) trước, rồi mới đến cúng tại gia[7]. Lễ này thường được làm vào ban ngày, tránh làm vào ban đêm, khi Mặt Trời đã lặn[7]. Ngoài ra, theo truyền thống tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong dân gian, ngày này là ngày "Xá tội vong nhân" nên nhiều nhà có mâm cơm cúng trước nhà, để cúng những vong linh bơ vơ không gia đình, còn gọi theo dân gian là "cúng cô hồn, "cúng thí thực" (tặng thức ăn).

Vào ngày này, mọi gia đình đều cúng hai mâm: cúng tổ tiên tại bàn thờ tổ tiên và cúng chúng sinh (cúng thí thực hay cúng cô hồn) ở sân trước nhà hoặc trên vỉa hè (nếu đường rộng), thời gian cúng là vào buổi chiều[7].

Trên mâm cúng tổ tiên, gia đình bày đặt một mâm cỗ mặn, tiền vàng và cả những vật dụng dành cho người cõi Âm tức đồ mã làm bằng giấy có tính tượng trưng nhưng hình dạng giống như đồ thật như quần áo[8][9], giày dép, quần áo, tiền vàng mã, ngựa, các vật dụng trang sức[9], người giúp việc,...[10]... đến những vật hiện đại: nhà cao tầng, xe ô tô, xe máy, điện thoại, tủ lạnh, tivi,...[8][9][11] để cho người cõi Âm có được một cuộc sống tiện nghi giống như người Dương trần. Những đồ lễ đó thường được làm tại các cơ sở sản xuất (nổi tiếng là khu phố vàng mã ở Chợ Lớn TP.HCM" được vận chuyển đi khắp các tỉnh thành[9][11].

Trên mâm cúng cô hồn thì lễ vật gồm có: quần áo giấy với nhiều màu sắc (xanh biển, tím, hồng, cam, vàng, xanh lá), các loại bánh kẹo, chè lam, kẹo vừng, kẹo dồi, bánh quế, 12 chén cháo loãng (cháo hoa), tiền vàng mã, nước suối hoặc rượu nếp, bia, chén muối, chén gạo, ngô, khoai lang, khoai tây, củ sắn (củ mì), trái cây [cóc, ổi, mía, chôm chôm, đậu phộng (lạc)]...

Tại các chùa và hội đoàn Việt Nam, vào ngày lễ Vu Lan thường có nghi thức "Bông hồng cài áo", là cài bông hồng cho những ai còn mẹ và bông trắng cho những ai mất mẹ, nhắc nhở về lòng hiếu thảo và tình người. Nghi thức này do Thiền sư Thích Nhất Hạnh khởi xướng trong cuốn sách viết năm 1962.[12] Một số địa phương có tục lệ riêng như ở Quy Nhơn thì dân chúng xếp thuyền giấy rồi thả ra biển để tưởng nhớ những ai ra khơi rồi mất tích như hồi thập niên 1980-90 với nạn thuyền nhân vượt biên.[13]

 

Diễn hành múa dân gian tại Tokyo, Nhật năm 2011

Vào "tháng cô hồn", nhiều người Việt Nam tin là tháng không may mắn và có những điều kiêng kỵ như không mua sắm, không đi chơi đêm, không nhổ lông chân, không phơi quần áo, không bơi lội… và tùy vùng còn có thêm những kiêng kỵ khác như không khai trương, mở cửa hàng, lập gia đình, xây nhà,...[14] Nhiều người còn kiêng cữ và ăn chay trong tháng 7 nên các hàng quán bán thức ăn mặn và rượu bia (như tại Thành phố Hồ Chí Minh) buôn bán ế ẩm và thường đóng cửa sớm.[15] Tuy vậy theo hòa thượng Thích Bảo Nghiêm - Phó chủ tịch Hội đồng trị sự Trung ương Phật giáo Việt Nam - quan niệm của người Việt là không có tháng cô hồn, mà chỉ có tháng xá tội vong nhân. Do đó, thay vì cúng bái, tôn thờ những điều mê tín, con người nên hướng tới những điều thiện, như xá tội vong nhân và báo hiếu với cha mẹ, ông bà.[1]

Nhật Bản

Tại Nhật Bản ngày lễ này được tổ chức vào ngày 15 tháng 8 dương lịch (có địa phương vào ngày 15 tháng 7), gọi là Obon (お盆?) hay là Bon (盆?), nói tắt của chữ urabon'e hay Vu-lan-bồn Hội (盂蘭盆會), thường kéo dài 3 ngày. Vào những ngày này, người Nhật thường có hỏa thiêu lễ vật và vào đêm cuối, Tōrōnagashi (灯籠流し), thả những chiếc đèn nổi trên sông để hướng dẫn linh hồn người quá cố. Theo truyền thống, kết hợp với một lễ hội múa dân gian, mỗi địa phương có sự tổ chức khác nhau.[16][17][18] Để tỏ những ước nguyện của mình, người ta viết ước nguyện rồi treo vào cây trúc với mong ước điều ước đó sẽ trở thành hiện thực.

Các quốc gia khác

Lễ Tết Trung Nguyên và truyền thống lễ cúng ông bà cũng tương đương với lễ Miryang baekjung nori (Hangul: 밀양백중놀이; Hanja: 密陽百中놀) ở Hàn Quốc, Pchum Ben / Sen Đôn-ta បុណ្យភ្ជុំបិណ្ឌ ở Campuchia và người Khmer, Boun khao padap din ở Lào, mataka dānēs hoặc matakadānaya ở Sri Lanka, Sart Thai (Thai: สารทไทย) ở Thái Lan.

  •  

    Cúng cô hồn tại Đài Loan

  •  

    Chuẩn bị các phần phẩm vật cho lễ cúng cô hồn tại Hồng Kông

  •  

    Hóa vàng

  •  

    Đèn nổi thả trên sông

  •  

    Lễ hội Vu Lan tại Hong Kong

  •  

    Lễ vật đặt ở bờ sông và sẽ được đốt vào đêm cuối, tại Nhật

  •  

    Hóa vàng lễ vật tại bờ sông tại Nhật

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Vu-lan.
  • Bông hồng cài áo
  • Lòng hiếu thảo
  • Ngày của Mẹ
  • Diwali: Lễ hội đèn theo Ấn Độ giáo
  • Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên

  1. ^ a b //zingnews.vn/phong-tuc-nguoi-viet-khong-co-thang-co-hon-post1126935.html
  2. ^ a b c Kinh Vu lan - Khảo về nguồn gốc Hán tạng & Nikàya
  3. ^ Ngày rằm tháng bảy nhớ tới dịch giả kinh Vu Lan Bồn
  4. ^ Bando, Shojun, transl. (2005). The Ullambana Sutra, in: Apocryphal Scriptures Lưu trữ 2013-02-10 tại Wayback Machine, Berkeley, Numata Center for Buddhist Translation and Research, ISBN 1-886439-29-X, p. 17
  5. ^ a b “Chinese Ghost Culture”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2015.
  6. ^ “Zhongyuan Festival”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2015.
  7. ^ a b c Hà Dương. “Lễ Vu Lan nên cúng vào ban ngày”. Giadinh.net. Báo Hà Nội mới. Truy cập 8 tháng 8 năm 2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày truy cập= (trợ giúp)
  8. ^ a b 'Thời trang' cho người cõi âm”. Vnexpress.net. Báo Điện tử VnExpress. Truy cập 10 tháng 8 năm 2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày truy cập= (trợ giúp)
  9. ^ a b c d Khánh Huyền. “Làng Đông Hồ vào mùa Vu Lan”. Vnexpress.net. Báo Điện tử VnExpress. Truy cập 5 tháng 8 năm 2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày truy cập= (trợ giúp)
  10. ^ La Hoàn. “'Đốt' cả ôsin phục vụ bố mẹ dưới cõi âm”. vietnamnet.vn. Báo Điện tử VietNamNet. Truy cập 11 tháng 8 năm 2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày truy cập= (trợ giúp)
  11. ^ a b “Về thăm Đông Hồ trước lễ Vu Lan”. Vov.vn. Đài tiếng nói Việt Nam. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2011. Truy cập 10 tháng 8 năm 2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày truy cập= (trợ giúp)
  12. ^ Nguồn gốc lễ Vu Lan và nghi thức Bông hồng cài áo, Chúng Ta, 9/8/2014
  13. ^ “Quy Nhơn Tháng Bảy âm lịch thả thuyền giấy...”. Việt Báo. 9 tháng 8 năm 2014.
  14. ^ Kiêng kỵ tháng cô hồn chỉ để giải quyết vấn đề tâm linh, Vietnamnet, 26/08/2015
  15. ^ Hàng ăn, quán nhậu đóng cửa sớm tháng cô hồn , Zing, 27/08/2015
  16. ^ Bon A-B-C, 2002, Bonodori.net, Japan, //www.bonodori.net/E/sekai/bonabc3.html Lưu trữ 2012-02-20 tại Wayback Machine
  17. ^ What is Obon, 1998, Shingon Buddhist International Institute, California, //www.shingon.org/library/archive/Obon.html
  18. ^ “Policy”. Asia Society. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 3 năm 2008. Truy cập 15 tháng 2 năm 2015.

Bảng các chữ viết tắt
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: 日本語 tiếng Nhật | ko.: 한국어, tiếng Triều Tiên |
pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: 中文 chữ Hán

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Vu-lan&oldid=68904232”

Video liên quan

Chủ đề