Nhà sử học tiêu biểu của Hy Lạp cổ đại là Ai

II. Những thành tựu chủ yếu của văn minh Hy-La cổ đại

Hy Lạp và La Mã là hai quốc gia riêng biệt do các tộc khác nhau lập nên. Mãi đến thế kỷ II TCN, Hy Lạp mới bị La Mã chinh phục, nhưng trước đó rất lâu, La Mã đã tiếp thu nhiều thành tựu văn minh của Hy Lạp. Sau khi Hy Lạp bị nhập vào đế quốc La Mã, ảnh hưởng của văn minh Hy Lạp đối với La Mã càng mạnh mẽ hơn nữa. Chính nhà thơ La Mã Hôratiút đã nói: “Người Hy Lạp bị người La Mã chinh phục, những người bị chinh phục ấy lại chinh phục trở lại kẻ đi chinh phục mình. Văn học nghệ thuật Hy Lạp tràn sang đất Latinh hoang dã...”. Vì vậy văn minh Hy Lạp và La Mã có cùng một phong cách và thường được gọi chung là văn minh Hy-La.

Nền văn minh Hy-La phát triển rất toàn diện và mỗi mặt đều có những thành tựu rực rỡ, trong đó quan trọng nhất là các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, sử học, khoa học tự nhiên, triết học.

1. Văn học

Nền văn học Hy Lạp bao gồm ba bộ phận chủ yếu và có liên quan chặt chẽ với nhau là thần thoại, thơ và kịch.

a) Thần thoại

Ở Hy Lạp, trong giai đoạn từ thế kỷ VIII-VI TCN, nhân dân đã sáng tạo ra một kho tàng thần thoại rất phong phú, bao gồm những truyện về khai thiên lập địa, về các thần thuộc các lĩnh vực đời sống xã hội, về các anh hùng dũng sĩ.

Đến thế kỷ VIII TCN, cùng với sự phát triển của gia đình phụ quyền, các thần được sắp xếp lại thành một hệ thống có tôn ti trật tự.

Theo tác phẩm Gia phả các thần của Hêdiốt, nhà thơ Hy Lạp sống vào thế kỷ VIII TCN thì đầu tiên chỉ có Caốt (Chaos) là một khối hỗn mang mờ mịt, rồi Caốt sinh ra thần đất Gaia, rồi sinh ra thần ái tình Erốt. Gaia sinh ra Uranút tức là trời, được nhân cách hóa. Uranút lại lấy Gaia làm vợ, sinh được 12 thần gồm 6 nam và 6 nữ, gọi chung là thần tộc Titanút. Trong số các thần ấy, Crônút đã lây Rêa roi sinh ra các thần. Người con út của Crônút và Rêa là Dớt đã lật đổ cha mình và trở thành chúa tể của các thần. Dớt có nhiều vợ như Hêra, Đêmêtê và sinh được nhiều con như Atêna, Apôlô, Aphrôđít... Một người anh em con chú, con bác với thần Dớt là thần Prômêtê đã dũng đất sét nặn thành người rồi lấy trộm lửa ở lò rèn của thần thợ rèn Hêphaixtốt đem đến cho loài người. Do vậy Dớt sai Hêphaixtốt xiềng Prômêtê ở núi Côcadơ và cho một con diều hâu mổ lá gan của chàng. Về sau Prômêtê được thần Hêraclét, con của thần Dớt giải thoát. Do công lao đó, trong thần thoại Hy Lạp, Prômêtê được coi là kẻ sáng tạo nền văn minh của nhân loại.

Bên cạnh hệ thống các thần đó, người Hy Lạp cổ đại còn sáng tạo ra các thần bảo hộ các ngành nghề và các lĩnh vực khác trong cuộc sống. Ví dụ:

Đêmêtê là hóa thân của đất và là nữ thần của nghề nông.

Điônixốt là thần của nghề trồng nho và nghề làm rượu nho.

Apôlô là thần ánh sáng và nghệ thuật.

Ơtecpô là thần âm nhạc.

Tali là thần hài kịch.

Pôlimni là thần thơ trữ tình.

Urani là thần thiên văn.

Cliô là thần lịch sử v.v...

Như vậy thần thoại Hy Lạp phản ánh nguyện vọng của nhân dân trong việc giải thích và đấu tranh với tự nhiên, đồng thời phản ánh cuộc sống lao động và hoạt động xã hội. Do được tạo nên từ thực tế cuộc sống, các thần của Hy Lạp không phải là những lực lượng xa vời, có quyền uy tuyệt đối và đáng sợ như các thần ở phương Đông mà là những hình tượng rất gần gũi với con người. Thần của Hy Lạp cổ đại còn có tình cảm yêu ghét vui buồn, thậm chí cũng có ưu điểm khuyết điểm như có khi thì rộng lượng, có khi thì hẹp hòi, cũng đa tình ghen tuông v.v...

Ví dụ thần Dớt là vị thần cao nhất, có nhiều vợ nhưng còn lén vợ có quan hệ với nhiều nữ thần khác. Nữ thần tình yêu và sắc đẹp Aphrôđit đã kết hôn với thần thợ rèn Hêphaixtốt chân thọt, nhưng không chung thủy với chồng mà ngoại tình với thần chiến tranh Arét, con trai của Dớt và Hêra. Thần thợ rèn đã dùng lưới sắt chụp bắt được quả tang. Sau đó, Aphrôđit lấy Arét và sinh được 5 con. Ngoài ra Aphrôđit còn có những mối tình với thần rượu nho Điônixốt, với thần thương nghiệp Hécmét.

Thần thoại Hy Lạp có ảnh hưởng rất quan trọng đối với nền văn học nghệ thuật Hy Lạp, vì nó đã cung cấp một kho đề tài và nguồn ảnh hưởng cho thơ, kịch, điêu khắc và hội họa của Hy Lạp cổ đại.

Người La Mã hầu như tiếp thu hoàn toàn kho tàng thần thoại và hệ thống các thần của Hy Lạp. Chỉ có một điều khác là người La Mã đặt lại tên cho các vị thần đó.

Ví dụ:

Thần Dớt của Hy Lạp trở thành thần Giupite của La Mã.

Thần Hêra, vợ thần Dớt thành thần Giunông vợ của Giupite.

Thần Đêmête, thần nghề nông của Hy Lạp trở thành thần Xêrét, thần ngũ cốc, thần bảo vệ mùa màng của La Mã.

Thần Aphrôđit, thần sắc đẹp và tình yêu của Hy Lạp thành thần Vênút của La Mã.

Thần Pôdêidông, thần biển của Hy Lạp thành thần Néptun của La Mã.

Thần Hécmét, thần buôn bán của Hy Lạp thành thần Mécquya của La Mã.

Thần Hêraclét của Hy Lạp, biểu tượng của sức mạnh thành thần Héccun của La Mã v.v...

b) Thơ.

Nói về thơ ca của Hy Lạp cổ đại trước hết phải kể đến hai tập sử thi nổi tiếng: Iliát và Ôđixê. Tương truyền rằng tác giả của hai tác phẩm này là Hôme, một nhà thơ mù sinh ở một thành phố thuộc Tiểu Á vào khoảng giữa thế kỷ IX TCN. Tuy nhiên các vấn đề như tác giả, quê hương của tác giả, thời gian sáng tác tập thơ... đều chưa được xác định. Chính vì thế ngay từ thời cổ đại, ở Hy Lạp đã có 7 thành phố tranh nhau cái vinh dự là quê hương của Hôme.

Đề tài của Iliát và Ođixê đều khai thác từ cuộc chiến tranh giữa các quốc gia ở Hy Lạp với thành Tơroa ở Tiểu Á.

Nguyên là vào đầu thế kỷ thứ XII TCN, vì muốn chiếm của cải của thành Tơroa, vua Mixen ở Hy Lạp đã tấn công Tơroa. Cuộc chiến tranh này kéo dài 10 năm (1194 - 1184 TCN), kết quả là Tơroa bị thất bại, thành Tơroa bị hủy diệt.

Tuy sự thực lịch sử là như vậy, nhưng theo thơ Hôme, nguyên nhân của cuộc chiến tranh này đã được gắn liền với những huyền thoại rất diễm lệ.

Trong tiệc cưới của nữ thần Têtít và Pêlê, vua của Tetxali tổ chức ở thiên đình, các thần đều được mời tới dự. Riêng nữ thần bât hòa Irít không được mời. Tức giận vì việc đó, Irít đã ném vào giữa bàn tiệc một quả táo bằng vàng trên đó có dòng chữ: “Tặng người đẹp nhất”.

Ba nữ thần Hêra, Atêna và Aphrôđit tranh nhau danh hiệu người đẹp nhất và đến nhờ thần Dớt phân xử. Dớt bảo họ đi gặp chàng trai đẹp nhất châu Á là Parít, con thứ hai của Priam vua của Tơroa. Khi gặp Parít, Aphrôđit hứa sẽ giúp Parít lấy được Hêlen, người phụ nữ đẹp nhất châu Âu nếu xử cho mình thắng cuộc. Parít đã thỏa mãn yêu cầu của Aphrôđit. Giữ lời hứa, Aphrôđit cho Parít mượn chiếc thắt lưng của mình. Đây là chiếc thắt lưng nếu ai thắt vào mình thì sẽ làm cho người mình thích yêu mình say đắm. Nhờ vậy Parít đã lấy được Hêlen đem về thành Tơroa. Nhưng Hêlen lúc bấy giờ đã là vợ của Mênêlát, vua của Xpác. Vì vậy Mênêlát đã nhờ anh mình là Agamennông, vua của Mixen tấn công thành Tơroa để cứu vợ.

Trải qua 10 năm, quân Hy Lạp vây đánh thành Tơroa không có kết quả. Trong một trận chiến đấu, quân Hy Lạp bắt được cô Cridêit, con gái của người coi việc tế thần Apôlô rồi dành cho Agamennông. Ông già chuộc con gái không được nên xin thần Apôlô trừng trị quân Hy Lạp. Bệnh dịch đã giáng xuống. Sau khi được nghe ông già tiên tri nói rõ nguyên nhân, quân Hy Lạp buộc phải trả Cridêit. Agamennông không muốn chịu thiệt, đã tước cô Cridêit mà trước đó đã thưởng cho Asin.

Vì việc làm sai trái đó của Agamennông, Asin tức giận không chịu tham chiến, quân Hy Lạp bị thất bại, người bạn thân của Asin là Patơrôclơ bị tử trận. Vì thương bạn Asin phải tham gia chiến đấu để trả thù cho Patơrôclơ. Kết quả, Asin đã giết chết Hécto, con vua Priam của Tơroa rồi buộc xác Hécto dưới cỗ xe kéo khắp chiến trường và quanh mộ của Patơrôclơ.

Tập Iliát dài 15.683 câu, chủ yếu miêu tả giai đoạn gay go nhất tức là năm thứ 10 của cuộc chiến tranh ấy.

Tập Ôđixê dài 12.110 câu miêu tả cảnh trở về của quân Hy Lạp. Sau chiến thắng quân Tơroa, vua Ôđixê (còn có tên là Ulixơ) phải trải qua 10 năm đầy gian nan nguy hiểm mới về đến quê hương của mình là đảo Itác và được gặp lại người vợ chung thủy đã một lòng chờ đợi suốt 20 năm là Pênêlốp.

Hai tập Iliát và Ôđixê không những là hai tác phẩm quan trọng trong kho tàng văn học thế giới mà còn là những tác phẩm có giá trị về lịch sử. Chính những tư liệu chứa đựng trong hai tập thơ này đã giúp các nhà sử học khôi phục một thời kỳ lịch sử gọi là thời kỳ Hôme.

Tiếp theo Hôme là nhà thơ Hêdiốt với các tập thơ Gia phả các thần, Lao động và ngày tháng. Trong tập thơ thứ hai, tác giả đã nói lên sự phá sản của nông dân dưới sự thống trị của tầng lớp quý tộc, ca ngợi cuộc sống lao động, “không có thứ lao động nào là nhục nhã, chỉ có ăn không ngồi rồi là xấu xa”, đồng thời đã đúc kết nhiều kinh nghiệm lao động.

Đến thế kỷ VII, VI TCN, thơ trữ tình bắt đầu xuất hiện. Các thi sĩ tiêu biểu là Parốt, Acsilôcút, Xôlông, Têônít, Xaphô, Panhđa, Anacrêông...

Acsilôcút được coi là người đặt cơ sở cho thơ trữ tình Hy Lạp. Ông phải sống trong nghèo túng lại bị bất hạnh trong tình yêu nên thơ ông đượm vẻ sầu não chua chát, về sau thì chuyển sang ca ngợi các lạc thú của cuộc sống.

Đến nữ sĩ Xaphô, thơ trữ tình Hy Lạp đã đạt đến trình độ rất điêu luyện. Xaphô được gọi là “nàng thơ thứ mười” của thơ ca Hy Lạp sau chín nàng thơ trong thần thoại vì thơ của bà dịu dàng uyển chuyển lại có cốt cách phong nhã thanh tao và thường đượm vẻ buồn vì phần lớn đề tài đều có tính chất thương cảm.

Ví dụ, trong bài thơ “Tặng nữ thần sắc đẹp”, tác giả đã cầu xin nữ thần giúp mình thoát khỏi sự khổ não được toại nguyện trong tình yêu:

Hỡi Aphrôđit, lệnh nữ của thần Dớt,

Ngài là vị nữ thần đầy trí tuệ.

Với nỗi u buồn, con cầu xin ngài

Hãy cứu vớt con, cứu vớt con thoát khỏi buồn đau.

...............

Trên không trung của mặt đất âm u

Ngài ngự chiến xa vùn vụt bay xuống

Một con bồ câu bay trên chiến xa

Dẫu chiến xa bay qua các tầng mây

Trong chốc lát ngài đã xuống đây

Bên môi ngài nở nụ cười bất hủ

Ngài hỏi tôi vì sao đau khổ?

Vì sao mắt tôi đẫm lệ khẩn cầu?

...............

Ngài bảo tôi: “hãy nói đi không cần giấu giếm.

Con đã yêu ai? Ai đã làm con khổ não?

Hỡi Xaphô, con thân yêu của ta!

Chàng lạnh lùng ư? Chàng sẽ yêu nồng cháy

Chàng từ chối ư? Chàng sẽ đến tìm con.

Chàng không hôn con ư? Chàng sẽ quay trở lại

Và càng nồng nàn tìm đôi môi của con”.

Anacrêông cũng là một nhà thơ trữ tình lớn. Thơ của ông chủ yếu ca ngợi sắc đẹp, tình yêu và hoan lạc, tuy nhiên ông rất ghét tiền tài, vì theo ông đó là lực lượng phá hoại hài hòa của cuộc sống:

Vì nó mà không có anh em.

Vì nó mà người thân không hòa mục,

Vì nó mà sinh ra chiến tranh sát phạt.

Vả lại, đáng sợ nhất là

Chúng ta, những người thương yêu lẫn nhau

Cũng vì nó mà sinh ra thù ghét.

Nhà thơ trữ tình cuối cùng là Panhđa (522 - 422 TCN). Ông là đại biểu của văn học quý tộc. Thơ của ông chủ yếu ca ngợi đời sống hào phóng xa hoa của giới quý tộc, tán dương những kẻ thắng cuộc trong đại hội điền kinh Ôlempích.

Thơ trữ tình của Hy Lạp có ảnh hưởng lớn đối với thơ ca của phương Tây sau này về phong cách sáng tác cũng như hình thức và đặt cơ sở cho một hình thức văn nghệ mới ở Hy Lạp là kịch.

Ngoài thơ trữ tình ở Hy Lạp có một số nhà thơ còn sáng tác về chủ đề chính trị, trong đó, bài Hành khúc của Tiếctê ca ngợi sự anh dũng của người Xpác được coi là mẫu mực của loại thơ ca chiến đấu.

Người La Mã vốn từ sớm đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp. Đặc biệt sau khi đánh chiếm thành phố Tarentơ của Hy Lạp ở trên bán đảo Ý vào năm 272 TCN, La Mã bắt đầu tiếp xúc với văn học Hy Lạp, do đó đã chịu nhiều ảnh hưởng của văn học Hy Lạp.

Văn học La Mã cũng bao gồm nhiều thể loại như sử thi, thơ trữ tình, thơ trào phúng, văn xuôi, kịch.

Thời cộng hòa, La Mã đã có nhiều thi sĩ và nhà soạn kịch, ví dụ, Anđrônicút đã dịch Ôđixê ra tiếng La tinh, Nơviút viết sử thi Cuộc chiến tranh Puních, Catulút đã sáng tác nhiều bài thơ trữ tình.

Nói về tình yêu của ông với nàng Clôđia, em quan bảo dân Côđiút, nhà thơ viết:

Anh vừa giận vừa yêu,

Có thể em sẽ hỏi vì sao anh như vậy

Anh chẳng biết nhưng anh cảm thấy

Đau khổ vô cùng vì vừa giận vừa yêu.

Thời kỳ phát triển nhất của thơ ca La Mã là thời kỳ thống trị của Ôctavianút. Để phục vụ cho chế độ chính trị của Ôctavianút, nhóm tao đàn Mêxen được thành lập. Mêxen là một người thân cận của Ôctavianút, là Mạnh Thường Quân của La Mã đã đứng ra bảo trợ các thi nhân văn sĩ. Trong nhóm này có những nhà thơ nổi tiếng như Viếcgiliút, Hôratiút, Ôviđiút.

Viếcgiliút (70 - 19 TCN) là nhà thơ lớn nhất của La Mã, sinh ra trong một gia đình nông dân khá giả ở miền Bắc Ý.

Tác phẩm đầu tiên, đồng thời là tác phẩm làm ông bắt đầu có tiếng tăm là tập Những bài ca của người chăn nuôi. Với những bài thơ rất đẹp, tác phẩm này được Mêxen chú ý, và qua Mêxen, được Ôctavianút chú ý.

Tác phẩm tiếp theo là Khuyến nông. Tác phẩm này được sáng tác thể theo ý muốn của Mêxen. Mục đích chính trị của tác phẩm là tuyên truyền cho sự phát triển nông nghiệp đã bị nội chiến làm cho suy tàn.

Tập thơ này có bốn phần: Phần 1, nói về nông nghiệp. Phần 2, nói về nghề trồng vườn. Phần 3, nói về nghề chăn nuôi ong. Tác giả đã bỏ ra 7 năm để hoàn thành tập thơ này. Thế nhưng ông đã được đền đáp xứng đáng: Ôctavianút rất thích tập Khuyến nông, đến nỗi, năm 31 TCN, sau khi đánh bại Antôniút ở Hy Lạp trở về, ông đã nghe ngâm bài thơ này trong 14 ngày liền.

Với những tác phẩm trên, thiên tài thơ ca của Viếcgiliút đã được xác nhận. Nhưng tác phẩm ưu tú nhất làm ông trở thành ngôi sao sáng nhất trong số các nhà thơ La Mã là Ênêit (Eneide). Đó là một tập thơ tự sự gồm 12 bài thơ. Viếcgiliút đã sáng tác tập thơ này trong 10 năm, nhưng cho đến khi ông chết, tác phẩm này vẫn chưa hoàn thành. Hơn nữa, ông đã dặn lại sau khi ông chết thì hủy tập thơ này, nhưng Ôctavianút đã ra lệnh công bố tập thơ và giữ nguyên văn bản như khi ông bị chết bất ngờ.

Về chủ đề, kết cấu, tình tiết, ngôn ngữ của tập thơ Ênêit đều phỏng theo sử thi Hôme. Mục đích của tác phẩm là ca ngợi sự anh dũng của nhân dân La Mã và dòng họ Ôctavianút.

Nội dung của tập sử thi Ênêit như sau:

Thành Tơroa bị quân Hy Lạp thiêu hủy. Ênê mang xác cha mình cùng với một số cư dân thành Tơroa sống sót chạy sang đất Ý. Nhưng khi đoàn thuyền sắp đến nơi thì vì thần Giunông ghét người Tơroa nên nổi giông bão, đoàn thuyền bị giạt sang Cáctagiơ. Ở đây, Ênê được nữ hoàng Điđông góa chồng ân cần đón tiếp. Cuộc gặp gỡ đã thổi bùng lên ngọn lửa yêu đương trong trái tim cô đơn của nàng Điđông góa bụa. Thế nhưng số phận đã bắt Ênê phải từ biệt nàng để sang Ý thành lập một vương quốc mới. Trong cơn đau khổ giày vò, Điđông đã tự sát bằng thanh kiếm do Ênê tặng. Ênê đến Xixin và tại đây, chàng đã mai táng cha mình. Tiếp đó, nhờ có một nhà nữ tiên tri đưa đường, Ênê đã xuống âm phủ để gặp cha và được cha cho biết một trong những người thuộc dòng dõi của chàng là Ôgút (tức Ôctavianút) sẽ tạo ra thời đại hoàng kim cho thế giới và lập nên một đế quốc rộng lớn mà biên giới kéo dài đến tận Ấn Độ. Đến Ý, người Tơroa được vua Latinh vui mừng đón nhận, hơn nữa còn hứa gả con gái của mình là Lavini cho Ênê. Nhưng trước đó Lavini đã được hứa gả cho vua Tuốcnút của người Rutun, vì vậy chiến tranh giữa người Tơroa và cư dân địa phương đã nổ ra. Kết quả Ênê giành được thắng lợi... Tập thơ đến đây bị bỏ dở.

Qua Ênêit, Viếcgiliút đã ca ngợi sự phồn vinh của La Mã dưới thời thống trị của Ôctavianút, khẳng định sứ mệnh của người La Mã là thống trị cả thế giới.

Với Ênêit, tên tuổi của Viếcgiliút đã trở thành bất hủ. Ngay lúc sinh thời ông đã được mọi người kính trọng. Tương truyền rằng, khi ông xuất hiện ở nhà hát, khán giả đã đứng dậy vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt. Cũng chính vì vậy, sau này, đến thời phục hưng, trong tác phẩm Thần khúc của Đantê, Viếcgiliút đã được chọn làm người dẫn đường cho nhà thơ đi xem địa ngục và tĩnh thổ.

Hôratiút (65 - 8 TCN), vốn là con một người nô lệ được giải phóng, được nhận một mảnh đất ở Nam Ý. Ông đã từng được sang học tại Aten, chịu ảnh hưởng sâu sắc của triết học và thơ trữ tình Hy Lạp. Về sau, với tư cách là quan Bảo dân, ông tham gia quân đội, nhưng trong một trận chiến đấu, vì sợ chết, ông đã vứt thuẫn, chạy trốn khỏi chiến trường. Mảnh đất của ông bị tịch thu, bản thân ông phải sống lưu vong ngoài đất Ý. Sau khi được ân xá, ông mới trở về La Mã làm một viên thư ký. Những bài thơ đầu tiên của ông đã làm cho Mêxen chú ý nên được Mêxen mời ra nhập nhóm tao đàn Mêxen và được Mêxen tặng một trang viên nhỏ.

Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là tập Thơ ca ngợi gồm 103 bài thơ. Tập thơ này đã thể hiện chủ nghĩa nhân đạo, đồng thời cũng thể hiện thái độ của ông đối với cuộc sống là chủ nghĩa hưởng lạc. Hơn nữa, đến Hôratiút, vần luật thơ tiếng Latinh đã đạt đến chỗ hoàn mỹ. Đánh giá sự nghiệp thơ ca của mình đối với đời sau, Hôratiút đã viết bài Bia kỷ niệm, trong đó có câu:

Tôi dựng lên một cái bia kỷ niệm

So với đồng còn vững bền hơn,

Và cũng cao hơn kim tự tháp của quốc vương...

Ngoài ra, Hôratiút còn có những đóng góp quan trọng về lý luận thơ ca và nghệ thuật kịch. Đặc biệt qua bài “Nghệ thuật thơ”, ông đã tổng kết lý luận mỹ học của Hy Lạp mà chủ yếu là dựa vào ý kiến của Arixtôt.

Ôviđiút (43 TCN - 17 CN) xuất thân trong một gia đình kỵ sĩ giàu có. Sau khi hoàn thành việc học tập, ông đã đi du lịch ở Hy Lạp và Tiểu Á. Tuy mộng làm quan không được thực hiện nhưng nhờ có người vợ xuất thân quý phái của mình, ông được tiếp xúc với giới thượng lưu của La Mã.

Hoạt động văn học của Ôviđiút chia làm ba thời kỳ.

Thời kỳ thứ nhất: bao gồm các tập thơ nói về yêu đương tình ái thậm chí có một số mang tính chất sắc tình dâm dục quá phóng túng. Các tác phẩm tiêu biểu của thời kỳ này là:

Tình ca (3 tập).

Nữ anh hùng: Tập thư tình của các nữ anh hùng trong thần thoại gửi người yêu của họ.

Nghệ thuật yêu đương: Phương pháp quyến rũ người yêu.

Thời kỳ thứ hai: Trong thời kỳ này, thi nhân ngày càng trở nên nghiêm túc, hơn nữa Ôctavianút không thích lối văn đầy sắc tình của ông, vì vậy ông đã chuyển hướng sáng tác. Các tác phẩm thời kỳ này là:

Các ngày lễ: nói về các ngày lễ và nguồn gốc của nó.

Biến hình là tác phẩm xuất sắc nhất của ông, gồm 15 chương. Nội dung nói về sự biến đổi từ người thành cây cối, thành động vật và phi sinh vật theo thần thoại. Kết thúc tập thơ là nói về Xêda biến thành ngôi sao theo truyền thuyết lúc bấy giờ.

Trong tập thơ này có nhiều truyện thú vị như:

- Con trai của mặt trời yêu cầu cha giao xe ngựa lửa cho mình quản lý nhưng vì thiếu kinh nghiệm nên suýt nữa thì đốt cháy cả trái đất.

- Nhà điêu khắc yêu bức tượng cô gái bằng ngà voi của mình.

- Bay lên trời lần đầu tiên bằng đôi cánh do mình chế tạo v.v...

Tập thơ Biến hình đã nêu ra được những hình tượng phong phú, sinh động biểu hiện trí tuệ và óc tưởng tượng tuyệt vời của tác giả. Chính vì vậy, ngay từ khi Ôviđiút còn sống, tác phẩm này đã rất nổi tiếng.

Thời kỳ thứ ba: năm 8 CN, theo mệnh lệnh của Ôctavianút, Ôviđiút bị đày đến vùng Hắc Hải. Nguyên nhân của việc đi đày này tới nay chưa rõ. Căn cứ theo một vài điều do Ôviđiút lộ ra có thể đoán rằng Ôviđiút có liên quan đến những chuyện tình với cháu gái của Ôctavianút. Cô này từ năm 7 CN đã bị trục xuất ra khỏi La Mã.

Trong cơn tuyệt vọng, Ôviđiút đã đốt bản thảo của tập Biến hình. Tuy vậy, nguyên tác của tập thơ này nhờ có các bản sao để truyền nhau lúc bấy giờ, nên tác phẩm vẫn được giữ lại.

Sau khi bị đi đày, bản thân ông, vợ con và bè bạn đều xin Ôctavianút ân xá cho ông nhưng không được, vì vậy ông phải ở chỗ lưu đày cho tới khi chết.

Trong thời kỳ này ông có viết hai tập thơ: Những bài thơ buồn và Thư về kinh. Tuy trong những tập thơ này cũng có những bài hay như: Đêm cuối cùng ở La Mã, Cảnh giông bão trên đường đi đày v.v... nhưng nói chung trong thời kỳ này, cảnh lưu đày đã làm tài năng của ông giảm sút nhiều. Mặc dù vậy Ôviđiút vẫn là nhà thơ có địa vị cao trong các thi nhân La Mã.

c) Kịch

Nghệ thuật kịch của Hy Lạp bắt nguồn từ các hình thức ca múa hóa trang trong các ngày lễ hội, nhất là lễ hội thần Rượu nho Điônixốt. Trong những ngày lễ hội này, người ta múa hát hóa trang, khoác da cừu, đeo mặt nạ diễn lại những sự tích trong thần thoại. Lúc đầu chỉ có những đội đồng ca hát những bài ca ngợi thần Rượu, sau thêm một diễn viên hát đế, như vậy bắt đầu có đối đáp. Cơ sở của kịch bắt đầu xuất hiện.

Sau khi hình thức kịch ra đời, người ta đã xây dựng những sân khấu ngoài trời rất lớn, ví dụ sân khấu ở Aten chứa được 17.000 người, sân khấu ở Mêgalôpôlit (ở trung tâm bán đảo Pêlôpônedơ) chứa được 44.000 người. Đồng thời chính quyền thường tổ chức những cuộc thi diễn kịch, có thời kỳ còn phát tiền cho công dân mua vé xem kịch, do đó nghệ thuật kịch càng phát triển.

Kịch Hy Lạp có hai loại: bi kịch và hài kịch. Những nhà soạn kịch tiêu biểu nhất là Etsin, Xôphôclơ và Ơripít.

Etsin (525 - 426 TCN) xuất thân trong một gia đình quý tộc, ông đã từng tham gia cuộc kháng chiến chống Ba Tư. Mặc dầu từ thế kỷ VI TCN, ở Aten đã trình diễn vở bi kịch đầu tiên, nhưng thông thường người ta cho rằng chính Etsin mới thật sự là người sáng lập bi kịch Hy Lạp.

Etsin đã sáng tác 70 vở kịch nhưng chỉ có 5 vở truyền đến ngày nay. Hầu hết tác phẩm của ông đều lấy đề tài trong thần thoại Hy Lạp, nhưng chất liệu của tác phẩm lại là tình hình xã hội đương thời. Chủ đề tư tưởng của bi kịch Etsin là vấn đề số phận, đó là yếu tố chi phối không thể cưỡng được. Những vở kịch tiêu biểu của ông là Ôrextê, Prômêtê.

Nội dung chủ yếu của vở Ôrextê là:

Vua Agốt là Atơrớt phạm một tội lớn: y làm cho em mình là Tyextơ ăn thịt con mình đã nấu chín. Sở dĩ Atơrớt làm như vậy là vì Tyextơ dụ dỗ vợ của Atơrớt.

Con của Atơrớt là Agamennông có vợ là Clytaemnextơra lại có quan hệ ám muội với con của Tyextơ là Egixtơ. Khi Agamennông ở thành Tơroa quay về thì bị vợ giết chết để báo thù vì Agamennông giết chết con gái của thị là Iphigiênia. Nhưng Clytaemnextơra và tình nhân lại bị con trai mình là Ôrextê giết chết để báo thù cho cha.

Sau đó, trong phần nữ Thần giáng phúc, Ôrextê bị đưa ra xét xử ở tòa án do nữ thần Atêna tổ chức. Kết quả Ôrextê được trắng án.

Vở kịch Prômêtê gồm ba phần: Prômêtê trộm lửa, Prômêtê bị xiềng và Prômêtê được tha. Nay chỉ còn phần thứ hai nội dung như sau:

Prômêtê lấy lửa của thần Dớt ban cho người trần, bị thần Dớt đóng đinh vào vách núi Côcadơ và bị thần thợ rèn

Hêphaixtốt dùng búa sắt đánh vào ngực nhưng thần Prômêtê vẫn không khuất phục.

Etsin không những là người sáng tác kịch bản đầu tiên, đồng thời cũng là đạo diễn và là người cải tiến đạo cụ như bố trí cảnh sân khấu, trang trí cách bay, làm tiếng sấm sét, dùng mặt nạ v.v... Do đó ông được mệnh danh là “người cha của kịch Hy Lạp”.

Xôphôclơ (497 - 406 TCN) là người được mệnh danh là “Hôme của nghệ thuật kịch” vì tác phẩm của ông đã phản ánh thời đại hoàng kim của Hy Lạp - thời Pêriclét.

Cũng như Etsin, các vở kịch của ông cũng thường xoáy quanh quan niệm về số phận, nhưng ông kết hợp số phận với việc ca ngợi tài năng của con người. Tương truyền rằng Xôphôclơ đã sáng tác 123 vở bi kịch, nhưng truyền lại ngày nay chỉ còn 7 vở. Ngoài ra còn có một vở kịch trào phúng.

Trong số các vở kịch còn lại của Xôphôclơ, nổi tiếng nhất là vở Ơđíp làm vua. Vở kịch này dựa theo truyền thuyết về Ơđíp, con vua Laiút và hoàng hậu Giôcaxta ở Tépbơ.

Nội dung như sau:

Laiút được thần Đenphơ báo mộng cho biết sau này con trai của ông ta sẽ giết cha và lấy mẹ. Vì vậy khi Laiút và Giôcaxta sinh ra Ơđíp, Laiút bèn sai người dùi thủng bàn chân của đứa bé và đem vứt vào núi. Người chăn súc vật của vua Coranh thấy đứa bé tàn tật bèn thương hại đem về cho chủ. Vua Coranh giữ đứa bé lại trong cung nuôi nấng và nhận đứa bé làm con. Sau đó Ơđíp lại được thần Đenphơ báo cho biết số của chàng là giết cha rồi lấy mẹ. Sợ hãi trước số phận ấy, chàng bỏ nhà ra đi từ giã bố mẹ nuôi mà chàng tưởng là bố mẹ đẻ. Trên đường, chàng đụng phải một người lạ mặt, do đó cãi nhau và chàng nhỡ tay giết chết người đó. Người đó chính là Laiút, cha đẻ của chàng. Chàng đến Tépbơ và đã trả lời được mấy câu đố của con Xphanh, trừ được mối họa cho thành Tépbơ, do đó để cảm ơn chàng, nhân dân đã lập chàng lên làm vua. Thế là Ơđíp trở thành chủ nhân của cung điện cha chàng và lấy hoàng hậu của vua trước tức là mẹ chàng. Sau 15 năm, Ơđíp đã có 4 con, chàng mới biết được sự thật đau lòng ấy, do đó mẹ Ơđíp tự sát, Ơđíp gục lên vai mẹ, lấy kim tự đâm vào mắt mình để khỏi thấy mọi người trên đời nữa. Sau đó ông già mù này lang thang phiêu bạt và bị lương tâm giày vò. Cuối cùng, ông cùng với cô con gái Angtigôn về sống trên núi Côlônốt ở ngoại ô Aten.

Như vậy chủ đề của kịch Xôphôclơ là con người không thể tránh được số phận nhưng con người trong kịch của ông là con người có trách nhiệm với sai lầm của mình.

Ơripít (480 - 406 TCN) đã soạn 92 vở kịch, nay chỉ còn lại 18 vở bi kịch hoàn chỉnh và 1 vở hài kịch. Kịch của Ơripít cũng xoáy vào chủ đề số phận, nhưng số phận ở đây không đồng nhất với thế lực thần linh hoặc một thế lực trừu tượng tồn tại ở ngoài loài người như Etsin và Xôphôclơ mà là kết quả của sự thôi thúc tình cảm, sự đấu tranh giữa tình cảm cao thượng và thấp hèn. Chính vì thế, có thể nói Ơripít là người sáng tạo ra kịch tâm lý xã hội, là bậc tiền bối và là người thầy của Sếchxpia. Vở kịch tiêu biểu nhất của Ơripít là vở Mêđê.

Nội dung như sau:

Nàng Mêđê bị chồng ruồng bỏ để yêu một người con gái trẻ đẹp. Vì ghen, Mêđê thề phải giết chồng, người yêu của chồng và hai đứa con của mình với chồng để báo thù.

Mêđê bị giày vò bởi những tình cảm mâu thuẫn: một bên là lòng ghen tuông và sự thù ghét với tất cả những gì thuộc về người chồng phụ bạc, một bên là tình thương sâu sắc đối với con. Mêđê nói:

...Khi mà hai đứa con không còn nữa

Mẹ sống cuộc đời cay đắng khổ đau

Các con sẽ sang một thế giới khác, và còn đâu

Đôi mắt đáng yêu để nhìn mẹ nữa!

...............

Này con sen, ta không thể. Thôi đi ta không thể

Ta bỏ hẳn âm mưu. Ta sẽ đem lũ trẻ đi xa

Việc gì phải dùng sự bất hạnh của chúng để làm khổ bố chúng?

Vì như thế sẽ tăng gấp đôi sự bất hạnh của ta

Ta quyết không! Hãy cút đi hỡi lòng tàn nhẫn.

Nhưng ngay lúc đó, lòng căm giận vì cơn ghen lại nổi lên. Mêđê điên cuồng, muốn tự tay giết chết con mình:

Chúng nó phải chết, nếu đã là tất yếu

Thế thì ta, kẻ đã cho chúng cuộc đời

Sẽ tự tay ta giết chết chúng.

Tất cả đều do số phận khiến xui.

...............

Ôi! Chúc các con được tốt lành

Nhưng là ở thế giới bên kia.

Cha các con đã cướp mất hạnh phúc của các con...

Sự căm phẫn đã chi phối đầu óc tỉnh táo. Đó là cội nguồn sự bất hạnh lớn của người đời.

Trên đây là ba nhà soạn kịch tiêu biểu của Hy Lạp cổ đại, trong đó, Ơripít là người có ảnh hưởng lớn nhất đối với loại hình văn học này của thế giới.

Bên cạnh bi kịch là chủ yếu, ở Hy Lạp cổ đại còn có hài kịch.

Hài kịch tiếng Hy Lạp là Komoidia gồm hai chữ là Komos nghĩa là du hành cuồng hoan và oide nghĩa là hát. Như vậy komoidia nghĩa là vừa du hành vui nhộn vừa hát. Về sau, qua gia công, đã xuất hiện một loại văn học mới là hài kịch.

Đề tài của hài kịch thường là những chuyện lặt vặt trong cuộc sống hằng ngày. Khi trình diễn thì cách dùng từ, đặt câu, chia màn, bối cảnh... đều tự do hơn bi kịch nhiều. Vì vậy phụ nữ và trẻ con không được xem hài kịch.

Nhà sáng tác hài kịch tiêu biểu của Hy Lạp cổ đại là Arixtôphan (450 - 388 TCN). Ông đã sáng tác 44 vở hài kịch, nay còn 11 vở, trong đó có các vở: Những kỵ sĩ, Đàn ong bò vẽ, Đàn chim, Đàn nhái.

Vở kịch Đàn nhái viết về cuộc tranh cãi giữa hai nhà viết kịch nổi tiếng là Etsin và Ơripít. Hai ông cãi nhau ồn ào làm cho thần Rượu Điônixốt phải kêu lên rằng: “Các nhà bi kịch cãi nhau như những người bán hàng, chẳng còn ra thể thống gì cả”. Thái độ của Arixtôphan là đứng về phía Etsin bảo thủ và không đồng tình với phái cách tân Ơripít.

Ở La Mã các nhà thơ Anđrônicút, Nơviút, Enniút, Plantút, Têrexiút, cũng là những nhà soạn bi kịch và hài kịch. Năm 240 TCN, ở La Mã bắt đầu diễn kịch. Anđrônicút là người đầu tiên được giao nhiệm vụ chuẩn bị kịch bản cho các buổi biểu diễn ấy. Từ đó, các nhà soạn kịch La Mã thường dịch bi kịch và hài kịch Hy Lạp, đồng thời phỏng theo kịch Hy Lạp để soạn những vở kịch lịch sử của La Mã hoặc cải biến các vở kịch Hy Lạp thành các vở kịch La Mã.

2. Sử học

a) Sử học Hy Lạp

Trước kia người ta biết được lịch sử xa xưa của Hy Lạp chủ yếu nhờ truyền thuyết và sử thi. Đến thế kỷ V TCN, Hy Lạp mới chính thức có lịch sử thành văn. Những nhà sử học nổi tiếng của Hy Lạp là Hêrôđốt, Tuxiđít, Xênôphôn.

Hêrôđốt (484 - 425 TCN) là nhà sử học đầu tiên của Hy Lạp, là người được gọi là “người cha của nền sử học phương Tây”. Ông vốn là người ngoại kiều đến ngụ cư ở Aten. Để viết sử, ông đã đi du lịch nhiều nơi, sang tận Ai Cập, Babilon, Tiểu Á. Mục đích viết sử của ông là “để cho công lao của con người không bị phai nhạt trong ký ức của chúng ta”.

Tác phẩm của Hêrôđốt gồm có 9 quyển, viết về lịch sử Hy Lạp và các nước phương Đông như Atxiri, Babilon, Ai Cập, nhưng trong đó quan trọng nhất là bộ “Lịch sử của chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư”. Trong tác phẩm này ông đã chứng minh tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Ba Tư của Hy Lạp và hết sức ca ngợi những chiến công oanh liệt của người Hy Lạp ở Maratông, Técmôpin.

Tuy nhiên, tác phẩm của Hêrôđốt còn hạn chế ở chỗ là ông đã ghi chép tất cả những chuyện ông được nghe kể lại, thậm chí có khi còn tự tạo ra sự kiện lịch sử. Mặc dầu vậy, tác phẩm của ông vẫn đáng được trân trọng vì nó có nhiều tài liệu lịch sử quý giá, và bản thân ông vẫn xứng đáng với tư cách là người đặt nền móng cho nền sử học phương Tây.

Tuxiđít (460 - 395 TCN) cũng là một nhà sử học có vị trí quan trọng của Hy Lạp cổ đại. Năm 431 TCN, khi cuộc chiến tranh Pêlôpônedơ bùng nổ, ông là một nhà chỉ huy quân sự trong quân đội Aten. Vì vậy bản thân ông đã từng thấy thắng lợi cũng như thất bại của Aten. Bằng những điều mắt thấy tai nghe và bằng việc điều tra nghiên cứu nghiêm túc, ông đã viết tác phẩm Cuộc chiến tranh Pêlôpônedơ nhằm mục đích để cho đời sau “biết rõ ràng về quá khứ”.

Nếu như Hêrôđốt là người đầu tiên đặt nền móng cho sử học phương Tây thì Tuxiđít là người đầu tiên ở phương Tây đã viết về sử một cách nghiêm túc. Ông nói: “Tôi không đồng ý với nhiệm vụ của mình là ghi chép lại cái tôi biết khi bắt gặp lần đầu hay là cái mà tôi có thể giả thiết được, mà chỉ ghi chép những sự kiện mà chính tôi mục kích hay là cái mà tôi nghe ở người khác sau khi đã nghiên cứu chính xác đến một chừng mực nào đó từng sự kiện riêng biệt”.

Ông còn chú ý phê phán nhận định các sự kiện lịch sử và giải thích các sự kiện bằng bối cảnh của nó như điều kiện tự nhiên, điều kiện vật chất, chế độ xã hội... Đồng thời ông cho rằng tác phẩm lịch sử phải có tác dụng giáo dục. Ông nói: “Phải giương cao ngọn đuốc lịch sử lên để hướng dẫn loài người đang dò dẫm con đường đi”.

Do phương pháp chép sử của ông cẩn thận như vậy nên tác phẩm của ông có giá trị rất quý báu, đúng như ông nói, ông viết sử “không phải để mong được một tiếng khen nhất thời mà là để tạo thành một kho tài liệu muôn đời quý báu của loài người”.

Dự định của Tuxiđít là viết toàn bộ cuộc chiến tranh Pêlôpônedơ, nhưng ông chỉ viết đến năm 411 TCN tức là năm 20 của cuộc chiến tranh[1] thì cái chết của ông đã làm tác phẩm bị bỏ dở.

Xênôphôn (430 - 359 TCN) xuất thân từ một gia đình giàu có ở Aten. Trong số các tác phẩm của ông, quyển “Lịch sử Hy Lạp” là quan trọng nhất. Để viết tiếp lịch sử Hy Lạp mà Tuxiđít đang bỏ dở, Xênôphôn đã ghi thêm những sự kiện xảy ra từ năm 411 - 362 TCN, tuy mong muốn kế tục sự nghiệp của Tuxiđit nhưng về phương pháp khảo cứu cũng như về bút pháp, Xênôphôn kém xa Tuxiđít.

Ngoài lịch sử Hy Lạp, Xênôphôn còn có một số tác phẩm khác như Nền chính trị của Xpác, Hồi ức về Xôcrát, v.v... Tuy tác phẩm của Xênôphôn có nhiều hạn chế nhưng trong đó đã ghi lại những tư liệu quý giá.

b) Sử học La Mã

Từ khoảng giữa thế kỷ V TCN, ở La Mã đã có những tài liệu tương tự như lịch sử biên niên gọi là Niên đại ký (Annales), nhưng nền sử học thật sự của La Mã đến cuối thế kỷ III TCN mới xuất hiện, và người được coi là nhà sử học đầu tiên của La Mã cũng là nhà soạn kịch Nơviút. Ông đã tham gia cuộc chiến tranh Puních lần thứ nhất, nhờ đó ông đã viết tập sử thi Cuộc chiến tranh Puních, nhưng tác phẩm này chỉ còn một số đoạn mà thôi.

Người đầu tiên viết lịch sử La Mã bằng văn xuôi là Phabiút (sinh năm 254 TCN). Ông viết lịch sử La Mã từ thời thần thoại cho đến thời kỳ của ông. Ngôn ngữ ông sử dụng viết tác phẩm này là tiếng Hy Lạp, điều đó chứng tỏ rằng lúc bấy giờ văn xuôi La Mã chưa xuất hiện.

Người đầu tiên dùng văn xuôi Latinh để viết sử là Catông (234 - 149 TCN). Tác phẩm của ông nhan đề là Nguồn gốc, gồm 7 chương, trong đó 3 chương đầu ghi chép các truyền thuyết của Hy Lạp và các địa phương khác nói về La Mã. Các chương tiếp theo viết lịch sử La Mã cho tới thời kỳ của ông. Phương pháp viết sử của ông là không theo niên đại mà trình bày theo vấn đề. Vì vậy có thể coi ông là nhà sử học thực sự đầu tiên của La Mã. Tác phẩm của ông nay chỉ còn một số đoạn.

Từ Catông về sau, La Mã có nhiều nhà sử học xuất sắc, Pôlibiút, Titút Liviút, Taxitút, Plutác.

Pôlibiút (205 - 125 TCN) là người Hy Lạp, bị đưa sang La Mã làm con tin. Tác phẩm của ông là bộ Thông sử gồm 40 quyển viết về lịch sử Hy Lạp, La Mã và các nước phía Đông Địa Trung Hải từ năm 264 - 146 TCN. Trong tác phẩm của mình, ông có ý thức chú ý đến tác dụng giáo dục của sử học đối với cuộc sống. Ông nói: “Sử học là một thứ triết học lấy sự việc thật để dạy người đời”. Ngày nay tác phẩm của Pôlibiút không còn giữ lại được đầy đủ.

Titút Liviút (59 TCN - 17 CN) là nhà sử học xuất sắc của La Mã trong thời kỳ trị vì của Ôctavianút. Tác phẩm sử học lớn nhất của ông là “Lịch sử La Mã từ khi xây thành tới nay”. Sách này gồm 142 chương, trình bày lịch sử La Mã từ đầu đến năm 9 TCN.

Đặc điểm của phương pháp sử học của Liviút là:

- Nêu cao chủ nghĩa yêu nước trong việc viết sử, đề cao quá khứ vinh quang của La Mã, ca ngợi sự anh dũng của nhân dân La Mã.

- Chú ý đến tác dụng giáo dục của sử học: nhấn mạnh các phong tục tốt đẹp ngày xưa, đem những tập quán tốt đẹp ấy so sánh với hiện tượng đồi phong bại tục lúc bấy giờ.

Tác phẩm của Liviút nay chỉ còn lại 35 chương, trong đó có giá trị lớn là 10 chương đầu, vì nhờ phần này mà đời sau biết được lịch sử liên tục của La Mã.

Taxitút sống vào cuối thế kỷ I đầu thế kỷ II. Tác phẩm của ông là Lịch sử biên niên viết về lịch sử thời kỳ đầu của đế quốc La Mã. Trong tác phẩm này, tác giả đã vạch trần sự thối nát của chính thể chuyên chế ở La Mã.

Plutác, người Hy Lạp, sống cùng thời với Taxitút. Tác phẩm quan trọng của ông là Tiểu sử so sánh, trong đó ông đã so sánh từng đôi một các danh nhân Hy Lạp và La Mã.

Phương pháp sử học của ông là làm cho độc giả có thể tìm thấy những chỗ đáng học tập và những chỗ đáng tránh trong các truyện ký của ông. Khi đánh giá con người ông cho rằng không phải dựa vào địa vị xã hội mà phải dựa vào phẩm chất và hành động của họ. Chính vì vậy, trong tác phẩm của mình ông đề cao Xpactacút, thủ lĩnh của phong trào khởi nghĩa của nô lệ ở La Mã.

Tác phẩm của Plutác viết theo thể truyện ký vừa có giá trị sử học vừa có giá trị văn học.

Những thành tựu nói trên của sử học Hy Lạp và La Mã đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền sử học thế giới.

3. Nghệ thuật

Nghệ thuật Hy Lạp và La Mã bao gồm ba mặt chủ yếu là kiến trúc, điêu khắc, hội họa.

Lúc đầu vào khoảng thế kỷ VIII, VII TCN, người Hy Lạp cũng học tập nghệ thuật cổ của người Ai Cập và của người Crét. Nhưng đến thế kỷ V, IV TCN, do những điều kiện về kinh tế xã hội chi phối, nghệ thuật Hy Lạp đã khắc phục được tính chất tượng trưng chủ nghĩa, công thức, vươn tới chủ nghĩa hiện thực và đã đạt được những thành tựu vô cùng rực rỡ.

a) Kiến trúc

Trong các thành bang Hy Lạp, Aten là nơi có nhiều công trình kiến trúc tiêu biểu: đền miếu, rạp hát, sân vận động...

Trong các công trình ấy tiêu biểu nhất, đẹp nhất là đền Páctênông xây dựng vào thời Pêriclét (thế kỷ VI CN). Ngôi đền này xây bằng đá trắng, xung quanh có hành lang có 46 cột tròn trang trí rất đẹp. Trên có bức tường dài 276m có những bức phù điêu dựa theo các đề tài thần thoại và sinh hoạt xã hội của Aten lúc bấy giờ. Trong đền có tượng nữ thần Atêna, vị thần phù hộ của Aten.

Đền Páctênông được xây dựng dưới sự chỉ đạo kỹ thuật của kiến trúc sư Ichtinút và nhà điêu khắc Phiđiát. Trước thế kỷ thứ XVII, ngôi đền này còn được bảo toàn tương đối hoàn chỉnh, nhưng đến cuối thế kỷ XVII, trong thời chiến tranh giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Vênêxia, ngôi đền này bị cướp đi rất nhiều hiện vật. Những công trình điêu khắc còn lại bị Engin (người Anh) nhặt nhạnh đưa về để ở viện Bảo tàng Đại Britên ở Luân Đôn.

Ngoài Aten, ở các nơi khác cũng có những công trình kiến trúc đẹp như đền thần Dớt ở Ôlempi, các đền thờ ở một số thành phố Hy Lạp trên đảo Xixin.

Thành tựu về kiến trúc của La Mã lại càng rực rỡ. Về mặt này, người La Mã đã có rất nhiều sáng tạo. Các công trình kiến trúc của La Mã bao gồm tường thành, đền miếu, cung điện, rạp hát, khải hoàn môn, cột kỷ niệm, cầu đường, ống dẫn nước,... Những công trình này từ thời cộng hòa đã có, nhưng đặc biệt phát triển từ thời Ôctaviút. Chính Ôctavianút đã tự hào nói rằng ông đã biến La Mã bằng gạch thành La Mã bằng đá cẩm thạch.

Trong số các công trình kiến trúc ở La Mã nổi tiếng nhất là đền Păngtênông, rạp hát, các khải hoàn môn.

Đền Păngtênông bắt đầu xây dựng từ thời Ôgút. Đền xây hình tròn, mái tròn, hết sức mỹ quan và hùng vĩ.

Nhà hát hình tròn xây xong năm 80, chu vi khoảng 400 mét, chứa được 50.000 người. Phía ngoài nhà hát có 3 tầng, mỗi tầng có 80 cột kiểu Hy Lạp, giữa hai cột có vòm tròn.

Khi nhà hát này xây xong, ở đây đã tổ chức “Lễ hội 100 ngày”. Năm 106, ở đây còn tổ chức lễ hội kéo dài 123 ngày. Trong những lễ hội này thường có các trò đua xe, đấu thú, người đấu với thú, hải chiến (nhà hát được dẫn nước vào thành hồ).

Các khải hoàn môn do các hoàng đế La Mã xây để ăn mừng chiến thắng, cũng xây theo kiểu cửa vòm. Để đời sau nhớ mãi công trạng của mình, hoàng đế Tôragian (92 - 117) đã xây một cột trụ cao 27m. Trên trụ có bức phù điêu dài đến 200m, trên đó phản ánh cuộc chiến tranh chinh phục người Đaxi ở Đông Âu.

b) Điêu khắc

Nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp đến thế kỷ V TCN có nhiều kiệt tác gắn liền với tên tuổi những nghệ sĩ tài năng như Mirông, Phiđiát, Pôliclét.

Mirông chuyên mô tả người đang vận động mà tác phẩm thành công nhất là Lực sĩ ném đĩa sắt.

Phiđiát không những là nhà điêu khắc mà còn là một kiến trúc sư, một nhà đúc tượng và một nhà trang trí. Chính ông đã chỉ đạo việc trang hoàng mỹ thuật ở Aten. Đặc biệt ông nổi tiếng thế giới nhờ các pho tượng nữ thần Atêna - như tượng đồng Atêna, tượng Atêna đồng trinh đặt trong đền Păngtênông. Pho tượng này tạc bằng gỗ khảm vàng và ngà voi, cao 12m, tay phải cầm tượng thần thắng lợi, tay trái chống vào cái thuẫn.

Ngoài ra, Phiđiát còn có các tượng ““Người chỉ huy chiến đấu” đặt ở quảng trường Aten, tượng thần Dớt khảm vàng và ngà ở đền Ôlempi.

Tất cả những tác phẩm trên nay không còn nữa, chỉ dựa vào tài liệu ghi chép và sự bắt chước của người đời sau mà biết.

Pôliclét sống đồng thời với Phiđiát. Tài năng của ông thể hiện ở chỗ mô tả rất tinh vi và chính xác cơ thể con người, những tác phẩm nổi tiếng của ông là: ““Người cầm dáo”, “Nữ chiến sĩ Amadông bị thương”, đặc biệt là tượng thần Hêra khảm vàng và ngà.

Nghệ thuật điêu khắc La Mã cùng một phong cách với nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp. Chủ yếu thể hiện ở hai mặt: tượng và phù điêu.

Để trang sức, đường phố, quảng trường, đền miếu, La Mã đã tạo rất nhiều tượng. Tượng của Ôgút được dựng ở khắp nơi.

Các bức phù điêu thường khắc trên các cột trụ kỷ niệm chiến thắng của các hoàng đế và trên vòm các khải hoàn môn. Nội dung các bức phù điêu thường mô tả những sự tích lịch sử, ví dụ trên vòm khải hoàn môn của hoàng đế Titút (79 - 81) khắc cảnh đoàn quân thắng trận trở về, các binh lính mang theo chiến lợi phẩm lấy được trong đền miếu ở Giêrudalem. Trên các cột trụ của Tơragian có những hình vẽ mô tả cuộc chiến tranh với người Đaxi.

c) Hội họa

Nghệ thuật hội họa của Hy Lạp và La Mã rất đẹp, nhưng tiếc rằng các tác phẩm về lĩnh vực này truyền lại đến ngày nay rất ít. Những họa sĩ tiêu biểu của Hy Lạp cổ đại là Pôlinhốt (Polygnote), Apôlôđo (Apollodore). Tác phẩm của Pôlinhốt còn lại đến ngày nay chỉ là một số hình trang trí trên đồ gốm mà thôi. Tuy vậy, đó là những mẫu mực mà người đời sau thường bắt chước. Còn Apôlôđo thì tương truyền chính ông là người đã sáng tác ra luật sáng tối và viễn cận trong hội họa.

Các tác phẩm hội họa của La Mã cổ đại còn được giữ lại chủ yếu là các bích họa, trên đó vẽ phong cảnh, các công trình kiến trúc, đồ trang sức, tĩnh vật... Còn chân dung người tuy cũng có nhưng rất ít. Đặc biệt ở vùng sa mạc Arập đã giữ lại được mấy bức chân dung vẽ bằng màu trên gỗ rất đẹp. Đó là hình của người chết dùng để đặt lên mặt của xác ướp.

4. Khoa học tự nhiên

Về khoa học tự nhiên, Hy Lạp cổ đại có những cống hiến quan trọng về các mặt Toán học, Thiên văn học, Vật lý học, Y học v.v... Những thành tựu ấy gắn liền với tên tuổi nhiều nhà khoa học nổi tiếng như Talét, Pitago, Ơclít, Ácsimét, Arixtác, Êratôxten...

a) Talét (Thales, thế kỷ VII - VI TCN) quê ở Milô, một thành bang Hy Lạp ở Tiểu Á. Ông đã du lịch nhiều nơi, do đó đã tiếp thu được các thành tựu của Babilon và Ai Cập. Phát minh quan trọng nhất của Talét là tỉ lệ thức. Dựa vào công thức ấy ông đã tính được chiều cao của Kim tự tháp bằng cách đo bóng của nó.

Talét còn là một nhà thiên văn học. Ông đã tính trước được ngày nhật thực, năm 585 TCN, ông tuyên bố với mọi người đến ngày 28-5-558 sẽ có nhật thực, quả nhiên đúng như vậy. Tuy nhiên, ông đã nhận thức sai về trái đất vì ông cho rằng trái đất nổi trên nước, vòm trời hình bán cầu úp trên mặt đất.

b) Pitago (Pythagoras, khoảng 580 - 500 TCN) quê ở đảo Xamốt trên biển Êgiê, ông cũng đã đi du lịch ở nhiều nước phương Đông, đã tiếp thu được nhiều thành tựu Toán học của những nước này. Trên cơ sở đó ông đã phát triển thành định lý mang tên ông về quan hệ giữa ba cạnh của tam giác vuông. Ông còn phân biệt các loại số chẵn, số lẻ và số không chia hết.

Về thiên văn học, Pitago tiến bộ hơn Talét. Ông đã nhận thức được quả đất hình cầu và chuyển động theo quỹ đạo nhất định.

c) Ơclít (Euclid, khoảng 330 - 275 TCN) là người đứng đầu các nhà Toán học ở Alếchxăngđri. Trên cơ sở tổng kết các thành tựu nghiên cứu của người trước, ông soạn thành sách Toán học sơ đẳng, đó là cơ sở của môn Hình học, trong đó chứa đựng định đề Ơclít nổi tiếng.

d) Acsimét (Archimede, 287 - 212 TCN) quê ở Xiraquydơ, một thành bang Hy Lạp ở đảo Xirin. Về Toán học, ông đã tính được số pi bằng một trị số nằm giữa hai số 3 và 3. Đó là số pi chính xác sớm nhất trong lịch sử phương Tây. Ông còn tìm được cách tính thể tích và diện tích toàn phần của nhiều hình khối.

Về vật lý học, phát minh quan trọng nhất của Acsimét là về mặt lực học, trong đó đặc biệt nhất là nguyên lý đòn bẩy. Với nguyên lý này, người ta có thể dùng một lực nhỏ để nâng lên một vật nặng gấp nhiều lần. Tương truyền, ông đã nói một câu nổi tiếng: “Hãy cho tôi một điểm tựa chắc chắn, tôi có thể cất lên cả quả đất”. Ngoài ra, ông còn có nhiều phát minh khác như đường xoắn ốc, ròng rọc, bánh xe răng cưa...

Ông cũng đã phát minh ra một nguyên lý quan trọng về thủy lực học. Đó là tất cả mọi vật thả xuống nước đều phải chịu một lực đẩy từ dưới lên trên bằng trọng lượng nước phải chuyển đi.

Tương truyền rằng vua của thành bang Xiraquydơ có một cái vương miện, chóp mũ làm bằng vàng pha đồng. Một hôm nhà vua mời Acsimét đến và hỏi có thể biết được tỉ lệ vàng và đồng ở trong chóp mũ không. Lúc ấy Acsimét chưa trả lời được, nhưng sau đó nhờ một lần tắm trong bể nước ông đã phát minh được nguyên lý trên và do đó đã giải được bài toán của nhà vua. Vui mừng về phát hiện đó, ông kêu to: “Ơrêca! Ơrêca!” nghĩa là: “Ta đã tìm ra rồi! Ta đã tìm ra rồi!”.

Dựa vào các phát minh trên, Acsimét đã chế ra máy ném đá để đánh quân La Mã, máy phóng gỗ để bắn thuyền quân địch. Ông còn biết sử dụng gương 6 mặt để đốt thuyền địch. Hệ thống đòn bẩy được sử dụng để hạ thủy những chiếc thuyền lớn ba tầng. Acsimét còn phát minh ra máy bơm nước để hút nước ra khỏi thuyền khi thuyền bị thủng.

Trong cuộc chiến tranh giữa La Mã và Cáctagiơ, Xiraquydơ liên hiệp với Cáctagiơ, vì vậy năm 212 TCN, khi Xiraquydơ bị La Mã tàn phá, quân La Mã xông vào bắt ông khi ông đang vẽ một đồ án khoa học. Trước khi bị sát hại, ông đã quát quân giặc: “Chúng mày muốn làm gì thì làm nhưng không được phá hủy đồ án của tao”.

e) Arixtác (Aristarque, 310 - 230 TCN) quê ở đảo Xamốt. Ông là người đầu tiên nêu ra thuyết hệ thống mặt trời. Ông đã tính toán khá chính xác thể tích của mặt trời, quả đất, mặt trăng và khoảng cách giữa các thiên thể ấy.

Ý kiến quan trọng nhất của ông là không phải mặt trời quay xung quanh trái đất mà là trái đất tự quay xung quanh trục của nó và quay xung quanh mặt trời. Nhưng bấy giờ ý kiến của ông không những không được công nhận mà còn bị buộc tội là đã quấy rầy sự nghỉ ngơi của các thiên thần.

f) Eratôxten (Eratosthene, 284 - 192) quê ở Xiren, thành bang thuộc địa của Hy Lạp ở phía Tây Ai Cập, châu Phi. Ông là một nhà khoa học giỏi về nhiều lĩnh vực: Thiên văn học, Toán học, Vật lý học, Địa lý học, Ngôn ngữ học, Sử học. Ông phụ trách thư viện Alếchxăngđri. Thành tích khoa học nổi bật của ông là ông đã tính được độ dài của vòng kinh tuyến trái đất là 39.700 km, và tính được góc tạo nên bởi hoàng đạo và xích đạo.

Đến thời La Mã, về các lĩnh vực này tuy không phát triển bằng Hy Lạp nhưng cũng có những thành tựu quan trọng và một số nhà khoa học tiêu biểu.

Nhà khoa học nổi tiếng nhất của La Mã là Pliniút (Plinius, 23 - 79). Tác phẩm đầu tiên của ông là Lịch sử tự nhiên gồm 37 chương. Đó là bản tập hợp các tri thức của các ngành khoa học như Thiên văn học, Vật lý học, Địa lý học, Nhân loại học, Động vật học, Thực vật học, Nông học, Y học, Luyện kim học, Hội họa, Điêu khắc... thời bấy giờ. Do vậy, đây là một tác phẩm tương tự như bộ Bách khoa toàn thư của La Mã cổ đại.

Năm 79, núi lửa Vêduyvơ lại hoạt động. Ông đến gần để nghiên cứu hiện tượng phun lửa và bị phún thạch thiêu chết.

Clốt Ptôlêmê (Claude Ptôlémée), là một nhà Thiên văn học, Toán học, Địa lý học người Hy Lạp sinh trưởng ở Ai Cập, sống vào thế kỷ II. Trên cơ sở đúc kết các kiến thức về thiên văn học của Ai Cập, Babilon và Hy Lạp, ông đã soạn bộ sách Tổng hợp - Kết cấu toán học (Composition mathématique), trong đó, ông cũng cho rằng quả đất hình cầu, nhưng so với Pitago và Acsimét thì quan điểm của ông thụt lùi một bước vì ông cho rằng quả đất là trung tâm của vũ trụ. Quan điểm này của Ptôlêmê đã chi phối nền thiên văn học châu Âu trong suốt 14 thế kỷ, mãi đến thời Phục hưng, thuyết này mới bị thuyết hệ thống mặt trời của Côpécních đánh đổ.

Ptôlêmê còn soạn sách Địa lý học (Géographie) gồm 8 chương. Trong sách này Ptôlêmê đã vẽ một bản đồ thế giới: Vùng Bắc cực là Xcăngđinavi, vùng Nam cực là lưu vực sông Nin, phía Tây là Tây Ban Nha, phía Đông là Trung Quốc, thời bấy giờ bản đồ này được xem là rất chính xác.

Về y học, người được suy tôn là thủy tổ của y học phương Tây là Hipôcrát (Hippocrate, 469 - 377 TCN), một thầy thuốc Hy Lạp quê ở đảo Cốt trên biển Êgiê. Ông đã giải phóng y học ra khỏi mê tín dị đoan, cho rằng bệnh tật do ngoại cảnh gây nên, vì vậy phải dùng các biện pháp như cho uống thuốc hoặc mổ xẻ để chữa trị. Ông nói: “Thuốc không chữa được thì dùng sắt mà chữa, sắt không chữa được thì dùng lửa mà chữa, lửa không chữa được thì không thể nào chữa được nữa”.

Thời Hy Lạp hóa, vua Philađenphơ (309 - 246 TCN) thuộc vương triều Plôtêmê ở Ai Cập là một người hay đau ốm, muốn tìm thuốc trường sinh bất lão nên đã tích cực thi hành chính sách khuyến khích sự phát triển của y học. Ông không những đã giúp đỡ các thầy thuốc về vật chất mà còn cho phép mổ tử thi của phạm nhân để nghiên cứu, do đó y học đã có những thành tựu mới. Đầu thế kỷ III TCN, nhà giải phẫu học Hêcrôpin (Hécropile) đã chứng minh rằng não là khí quan tư duy, cảm giác do hệ thần kinh truyền đạt, xem mạch mạnh yếu nhanh chậm có thể biết được tình hình sức khỏe. Nhà phẫu thuật Hêraclit (Héraclide) ở thành Tarentum (Ý) đã biết dùng thuốc mê khi mổ bệnh nhân. Phát minh này sau đó bị bỏ quên đến mãi năm 1860 mới được áp dụng lại.

Đến thời La Mã, đại biểu xuất sắc nhất về y học là Claođiút Galênút (131 - đầu thế kỷ III) quê ở Pécgam (Tiểu Á), trên cơ sở tiếp thu các thành tựu y học trước đó, nhất là của Hipôcrát, ông đã viết nhiều tác phẩm để lại tới sau này, trong đó có một số đến thời trung đại được dịch thành tiếng Arập, Do thái, Latinh. Điều đó chứng tỏ các tác phẩm của ông đến thời trung đại vẫn có uy tín rất lớn, ví dụ sách Phương pháp chữa bệnh được dùng làm sách giáo khoa trong thời gian dài.

Tóm lại, cách đây trên dưới 2.000 năm, nền khoa học của Hy Lạp, La Mã cổ đại đã có những thành tựu rất lớn. Những thành tựu ấy đã đặt cơ sở cho sự phát triển huy hoàng của nền khoa học thời cận hiện đại; đồng thời là một tiền đề quan trọng của sự phát triển của nền triết học Hy-La.

5. Triết học

Hy Lạp và La Mã là quê hương của nền triết học phương Tây. Trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ, đại biểu cho các khuynh hướng chính trị khác nhau, quan điểm của các nhà triết học Hy-La rất đa dạng, nhưng chung quy cũng bao gồm hai phái chính là triết học duy vật và triết học duy tâm.

a) Triết học duy vật

Nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp cũng là nhà toán học Talét. Quan điểm triết học của ông là quan điểm duy vật tự phát. Ông cho rằng nước là nguyên tố cơ bản của vũ trụ. Nước luôn luôn vận động nhưng trước sau không thay đổi và do đó hòa tan mọi vật. Bởi vậy nước là nguồn gốc của vũ trụ và sinh mệnh của con người.

Tiếp theo Talét, Anaximăngđrơ (Anaximandre, 611 - 547 TCN) quê ở Milê cũng là một nhà triết học duy vật. Ông cho rằng nguồn gốc của vũ trụ là vô cực. Vô cực chia thành hai mặt đối lập như khô và ướt, nóng và lạnh, rồi kết hợp với nhau phức tạp mà hình thành mọi vật như đất, nước, không khí, lửa... đồng thời, ông cho rằng vũ trụ không ngừng phát triển, không ngừng hình thành, không ngừng sinh sản ra những vật mới. Như vậy, ông là nhà triết học có quan điểm biện chứng đầu tiên ở Hy Lạp.

Học trò của Anaximăngđrơ là Anaximen (Anaximene, 585 - 525 TCN). Ông cho rằng nguồn gốc của vạn vật là không khí. Mọi vật đều do sự co dãn của không khí mà thành. Vạn vật do không khí sinh ra rồi lại quay về trở thành không khí. Các sinh vật bao gồm người, động vật, thực vật nhờ thở không khí nên mới có sức sống và mới vận động được. Như vậy, mặc dầu chưa chính xác, nhưng quan điểm triết học của Anaximen cũng là quan điểm của duy vật biện chứng.

Quan điểm duy vật biện chứng ấy đến Hêraclit (Héraclite, 540 - 480 TCN) được phát triển thêm một bước. Hêraclit quê ở Ephedơ (Tiểu Á), là một nhà triết học cổ đại lớn của Hy Lạp cổ đại. Ông sống cuộc đời khổ hạnh ẩn dật để chuyên tâm suy nghĩ.

Ông cho rằng nguồn gốc của vạn vật là lửa. Tuy ý kiến này không đúng nhưng cái đáng quý của ông là quan điểm biện chứng tương đối đúng đắn. Ông đã nhận thức được rằng “đấu tranh là nguồn gốc của vạn vật”, vì đấu tranh giữa hai mặt đối lập là cơ sở của mọi tồn tại và tư tưởng. Đồng thời, vạn vật mà mọi hiện tượng, mọi sự việc trong tự nhiên và trong xã hội luôn luôn biến động. Trong quá trình vận động ấy hai mặt đối lập dần dần chuyển hóa lẫn nhau. Trên cơ sở ấy, ông đã nói một câu bất hủ: “Rửa chân ở dòng nước chảy, cất chân lên rồi thả chân xuống, chỗ nước ấy đã khác trước rồi”.

Tóm lại, quan điểm triết học chủ yếu của Hêraclit có thể tóm tắt trong câu nói sau đây của ông: “Vũ trụ cũng như mọi vật không phải do bất cứ vị thần nào sáng tạo ra. Trước kia, hiện nay và sau này, nó là ngọn lửa vĩnh viễn và linh hoạt thiêu đốt theo quy luật và cũng tắt theo quy luật”.

Tác phẩm của Hêraclit là Bàn về giới tự nhiên, tiếc rằng nay chỉ còn lại một số đoạn mà thôi.

Đến thế kỷ V, IV TCN, trên cơ sở tiến bộ của khoa học tự nhiên, triết học duy vật cũng phát triển thêm một bước nhằm phân tích cơ sở tồn tại của thế giới vật chất. Triết học duy vật thời kỳ này gắn liền tên tuổi của Empêđôclơ, Anaxagơ, Đêmôcrit, Êpiquya...

Empêđôcỉơ (Empédocle 490 - 430 TCN) quê ở Agrigiăngtơ đảo Xixin. Ông cho rằng nguồn gốc của vũ trụ không phải do đơn nguyên tố sinh ra mà là do 4 yếu tố là đất, không khí, lửa, nước tạo thành. Trong quá trình phát triển của sinh vật thì đầu tiên xuất hiện thực vật, rồi đến động vật rồi đến con người. Trong quá trình phát triển ấy, những loài có thể thích nghi với hoàn cảnh thì sinh tồn, những loài không thích nghi được thì diệt vong.

Empêđôclơ bị chết vì rơi xuống núi lửa Etna ở Xixin.

Anaxago (Anaxagore, 500 - 428 TCN) quê ở Cladômen. Ông xuất thân từ gia đình giàu có, nhưng ông coi thường phú quý, chịu sống nghèo khổ, lấy đó làm kiêu hãnh. Ông là thầy giáo và là bạn của Pêriclét, người đứng đầu nhà nước Aten từ năm 443 TCN đến năm 429 TCN. Lúc đầu ông có tiếng tăm rất lớn nhưng đến cuối đời ông bị buộc tội ngạo mạn với các thần và bị trục xuất khỏi Aten, rồi vì tuổi già ông bị chết ở nơi lưu đày. Trên bia mộ của ông viết: “Anaxago vĩ đại nằm ở trong mộ, linh hồn của ông bay lên đến chỗ chân lý cao nhất”.

Quan điểm triết học của ông là vũ trụ do vô số nguyên tố tạo nên. Số nguyên tố vô cùng tận đó lại chia thành những nguyên tố mới, do đó hình thành vạn vật trong vũ trụ. Nhưng sở dĩ vũ trụ hình thành, vạn vật biến chuyển là do tác động của “lý tính vũ trụ” (nous), mà lý tính vũ trụ là “thứ thuần khiết và tinh tế nhất trong muôn vật”.

Anaxago còn là nhà toán học và thiên văn học. Ông nói rằng ánh sáng Mặt Trăng là nhận vật của Mặt Trời. Trên Mặt Trăng cũng có đất và sinh vật.

Đêmôcrit (Démocrite, 460 - 370 TCN) quê ở Apđerơ ở vùng Tơraxơ, ông là nhà triết học duy vật lớn nhất của Hy Lạp cổ đại. Ông còn giỏi về rất nhiều bộ môn khoa học khác như toán, vật lý học, y học, thiên văn học, sinh vật học, ngôn ngữ học, tâm lý học, giáo dục học... vì vậy Mác và Ăngghen coi ông là “bộ óc bách khoa đầu tiên trong số những người Hy Lạp”.

Đêmôcrit cho rằng nguyên tố đầu tiên tạo thành vạn vật là nguyên tử (atom). Nguyên tử là đơn vị nhỏ nhất không thể phân chia được nữa. Tất cả các nguyên tử từ xưa đến nay đều giống nhau nhưng khác nhau về hình dáng, khối lượng và trật tự. Các nguyên tử đều ở trong “chân không” và kết hợp với nhau mà sinh ra vạn vật.

Tóm lại, Đêmôcrit nói: “Nguồn gốc của vạn vật là nguyên tử và chân không”, ngay cả linh hồn cũng do các nguyên tử kết hợp với nhau mà tạo thành. Như vậy, không phải là thần mà là tự nhiên trở thành cơ sở phát triển của vũ trụ.

Về chính trị, ông là người ủng hộ chế độ dân chủ. Ông nói: “Sự bất hạnh trong các nước dân chủ còn thích hơn cái gọi là hạnh phúc dưới sự thống trị của chế độ quân chủ, vì sự tự do bao giờ cũng tốt hơn sự nô dịch”.

Đến thời Hy Lạp hóa, người kế thừa và phát triển học thuyết của Đêmôcrit là Êpiquya.

Êpiquya (Epicure, 341 - 270 TCN) quê ở Samốt. Năm 306 TCN, ông đến Aten mua một vườn hoa để làm nơi dạy học. Tương truyền ông đã viết 300 tác phẩm nhưng không có một tác phẩm nào truyền lại đến ngày nay.

Êpiquya cũng cho rằng vũ trụ là do vật chất tạo thành mà phần tử nhỏ nhất là nguyên tử. Nguyên tử không những lớn bé và hình dáng khác nhau mà trọng lượng cũng khác nhau. Tuy vậy ông không hoàn toàn phủ nhận thần, mà cho rằng thần là một thực thể hạnh phúc và bất hủ. Chỉ có điều ông cho rằng thần không hề quan tâm đến cuộc sống của con người ở trần gian.

Về nhận thức luận, Êpiquya cho rằng cảm tính là nguồn gốc thật sự của nhận thức, do vậy bản thân cảm giác không có sai lầm. Sai lầm là do sự giải thích và phán đoán của con người đối với cảm giác.

Về thái độ chính trị, ông cho rằng nhà nước là nguồn gốc của mọi sự bất hạnh và bất mãn của con người, vì vậy ông khuyên mọi người nên sống ẩn dật.

Kế thừa triết học Hy Lạp, đến thế kỷ I TCN, triết học La Mã cũng tương đối phát triển. Nhà triết học duy vật xuất sắc nhất của La Mã là Lucrêtiút (98 - 54 TCN).

Tác phẩm duy nhất mà ông để lại là tập thơ chưa hoàn thành Bàn về bản chất của sự vật. Quan điểm triết học của ông chủ yếu là thừa kế quan điểm của Êpiquya. Ông chống lại quan điểm triết học của tôn giáo, bác bỏ quan niệm mê tín vào thần thánh, cho rằng con người cũng như muôn sinh vật không phải do thần thánh sinh ra mà do nguyên tử tạo thành.

Ông cho rằng vật chất có tính bảo toàn vĩnh cửu, không thể bị tiêu hủy hoàn toàn mà chỉ có những hiện tượng tan rã của những vật thể mà thôi. Vật chất lại luôn luôn vận động theo những quy luật nội tại của nó. Hồn và tinh thần của con người cũng là vật chất do nguyên tử tạo thành. Hồn và tinh thần gắn chặt với cơ thể con người, khi cơ thể con người tan rã thì hồn và tinh thần cũng tan rã và trở về trạng thái nguyên tử.

Lucrêtiút cũng đã nêu ra giả thiết về sự xuất hiện loài người. Ông cho rằng từ trạng thái động vật có thể phát triển đến con người có trình độ văn hóa cao. Lúc đầu con người sống như bầy thú hoang, dần dần biết sử dụng công cụ sản xuất bằng gỗ, đá và kim loại. Sự phát triển của xã hội loài người chính là dựa trên cơ sở sự tiến hóa về công cụ lao động ấy. Nhờ vậy loài người từ chỗ ăn sống các hoa quả tự nhiên đến chỗ biết dùng lửa để nấu chín thức ăn. Gia đình, nhà nước không phải ngay từ đầu đã có mà là kết quả của một giai đoạn phát triển nhất định. Cùng với sự phát triển của đời sống con người, ngôn ngữ, khoa học, nghệ thuật cũng ra đời và phát triển.

Do lập trường chống tôn giáo của ông nên về sau giáo hội Kitô tuyên bố ông là người điên. Họ ngăn cản ảnh hưởng tư tưởng của Lucrêtiút, nên mãi đến năm 1473 tác phẩm của ông mới được xuất bản lần đầu tiên.

b) Triết học duy tâm

Trường phái triết học duy tâm của Hy Lạp và La Mã cổ đại cũng có nhiều đại biểu nổi tiếng. Họ là những học giả thông minh và có tài hùng biện.

Để chống lại phái duy vật, phái duy tâm lúc đầu thường xuất hiện dưới hình thức ngụy biện và lập thành một trường phái - phái ngụy biện.

Phương pháp biện luận của họ là nặng về chủ nghĩa hình thức và thường thiên về lối chơi chữ. Khi tranh luận thì đặt câu hỏi liên tiếp để dồn đối phương đến chỗ bí. Tính chất duy tâm chủ yếu của phái ngụy biện là cho rằng không có chân lý khách quan mà chỉ có nhận thức chủ quan hoặc chủ nghĩa tương đối mà thôi.

Đại biểu đầu tiên của phái ngụy biện là Prôtagôrát (Protagoras, 485 - 410 TCN). Ông cho rằng mọi nhận thức đều có tính chất chủ quan. Nhận thức là do cảm giác của con người kết hợp với tự nhiên mà sinh ra, do đó nhận thức của mỗi người một khác. Vì vậy, cái gì mà người ta nhận thấy hợp lý thì sự thực nó là hợp lý - “con người là thước đo của mọi sự vật”. Nhưng đồng thời, mỗi sự vật đều có hai mặt, vả lại có thể có hai cách phán đoán đều hợp lý. Ví dụ, tật bệnh đối với người ốm là xấu, nhưng đối với thầy thuốc là tốt.

Một đại biểu khác của phái ngụy biện là Goócgiát (Gorgias, 487 - 380 TCN). Ông là một nhà diễn thuyết, một nhà văn, nhà thơ xuất sắc.

Ông cho rằng “tồn tại không tồn tại”. Nếu có cái gì thực sự tồn tại chăng nữa thì cũng không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả được, vì ngôn ngữ không đủ để diễn tả tư tưởng. Từ đó ông kết luận chân lý là không có.

Nhà triết học ngụy biện lớn nhất của Hy Lạp là Xôcrát (Socrate 469 - 399 TCN), con của một nhà điêu khắc. Ông cho rằng mục đích của triết học không phải là để nhận thức tự nhiên mà là để nhận thức bản thân mình.

Về phương pháp luận, Xôcrát phản đối việc dạy lý thuyết, chủ trương chỉ cần đặt ra những câu hỏi để đối phương trả lời, như vậy có thể đạt tới chân lý. Ông cho rằng giáo dục thực chất là “thuật bà đỡ” tức là giáo dục giữ vai trò giúp cho tư tưởng sinh ra. Ông nói bản thân ông không phải là một “Người hiểu biết” mà chỉ là một “người thích hiểu biết”.

Về chính trị, ông chủ trương việc trị nước không nên do nhiều người mà phải do những nhà thông thái có tài năng và đạo đức, nói một cách khác là do một số quý tộc. Chủ trương đó rõ ràng là trái với nguyên tắc cơ bản của chế độ dân chủ của Aten.

Năm 399 TCN, Xôcrát bị đưa ra xét xử ở Aten và bị kết tội truyền bá học thuyết kỳ quặc đầu độc thanh niên và làm hại đến chế độ dân chủ và sự tồn tại của quốc gia và bị xử tử bằng thuốc độc.

Suốt đời Xôcrát không viết một tác phẩm nào nhưng sở dĩ đời sau biết được tư tưởng của ông chủ yếu nhờ các tác phẩm của học trò ông là Platông.

Arixtốt cũng cho rằng, về mặt lôgich học, Xôcrát cũng có những cống hiến nhất định đặc biệt, chính ông là người đầu tiên nêu ra phương pháp quy nạp và định nghĩa.

Nhà triết học duy tâm lớn nhất của Hy Lạp cổ đại là Platông (427 - 347 TCN).

Ông xuất thân từ một gia đình quý tộc có quyền thế ở Aten, là học trò của Xôcrát. Ông đã ba lần đi Xixin để truyền bá chủ trương chính trị của mình, nhưng không thành công. Khoảng năm 387 TCN, ông mở trường giảng triết học ở Aten gọi là Acađêmi (Académie). Do đó về sau ở phương Tây chữ này được dùng để chỉ Học viện, Viện hàn lâm.

Platông viết nhiều tác phẩm còn truyền tới ngày nay, nhưng quan điểm của Platông rất phức tạp và thường xuyên mâu thuẫn nên khái quát tư tưởng triết học của ông không đơn giản.

Hạt nhân của quan điểm triết học của Platông là ý niệm và linh hồn bất diệt. Ý niệm vĩnh viễn không đổi và là mẫu hình của sự vật cá biệt. Vì vậy thế giới thực tại xung quanh chúng ta không phải là một thế giới chân thực mà chỉ là sự phản ánh không đầy đủ của ý niệm hoàn thiện. Chỉ có ý niệm mới là chân lý.

Nhưng chỉ có ý niệm thì chưa thành vũ trụ mà cần phải có một lực lượng tác động gọi là “ông tạo”, “hóa công” (demiourgos). Hóa công dùng ý niệm để sắp xếp lại mọi sự vật làm cho vũ trụ trở thành có trật tự.

Về mỹ học, Platông cho rằng mọi sự vật cá biệt chỉ là sự bắt chước ý niệm, mà tác phẩm nghệ thuật lại bắt chước sự vật cá biệt, tức là “bắt chước sự bắt chước” mà cái đẹp là chân thật và hoàn hảo, do đó cái đẹp thực sự là ý niệm mà nghệ thuật không thể biểu đạt được.

Về mặt giáo dục, Platông chủ trương giáo dục nên do nhà nước tổ chức, mục đích chủ yếu là đào tạo những kẻ thống trị.

Về chính trị, Platông rất căm ghét chế độ dân chủ. Ông cho rằng ở Aten “bình dân được tự do quá trớn”, thậm chí chó ngựa lừa cũng muốn làm gì thì làm không theo sự chỉ huy của chủ. Ở Aten, dân tự do và nô lệ, công dân và ngoại kiều, thầy giáo và học trò, người nhiều tuổi và ít tuổi đều không phân biệt. Hơn nữa lúc bấy giờ đạo đức tốt đẹp không được đề cao, chủ nghĩa lợi kỷ thịnh hành, sự phân hóa giàu nghèo càng trầm trọng. Vì vậy, Platông nêu ra một mẫu hình nhà nước lý tưởng để làm thay đổi tình hình ấy.

Trong tác phẩm “Nước cộng hòa “, ông nêu ra rằng nhà nước lý tưởng do ba tầng lớp hợp thành:

- Các nhà hiền triết là tầng lớp cầm quyền lãnh đạo. Tầng lớp này không nên có tài sản riêng, cũng không nên có gia đình, vì vậy dễ nảy sinh lòng tham lam vị kỷ. Những nhà hiền triết cầm quyền nên sống tập thể, như vậy có thể tránh được sự lo lắng về cuộc sống.

- Tầng lớp thứ hai là các chiến sĩ. Tầng lớp này có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Họ cũng không nên có gia đình và tài sản.

- Tầng lớp thứ ba là số công dân còn lại tức là nông dân, thợ thủ công, lái buôn... Tầng lớp này có nhiệm vụ cung cấp của cải cho nhà nước và cung phụng hai tầng lớp trên. Họ có thể có gia đình và tài sản riêng, nhưng các nghề nghiệp đều do nhà nước quản lý.

Con cái của mọi người cũng thuộc về nhà nước. Cha mẹ không biết con cái, con cái cũng không biết cha mẹ. Những đứa trẻ sơ sinh nếu yếu đuối thì giết đi, còn những đứa trẻ khỏe mạnh thì đem đến nhà nuôi trẻ để nuôi nấng.

Còn nô lệ thì không được coi là một tầng lớp, nhưng trong nhà nước của Platông vẫn có nô lệ, hơn nữa Platông hết sức nhấn mạnh sự phân biệt giữa chủ và nô lệ, ông nói: “Cần phải biết rằng nô lệ vĩnh viễn không thể trở thành bạn của chủ, vì những người vô tích sự không thể thành bạn của những người đứng đắn, dẫu rằng họ cùng giữ một chức vụ đáng kính như nhau”.

Về sau Platông còn viết tác phẩm Pháp luật, tuy lời lẽ có mềm dẻo hơn nhưng tư tưởng tập quyền và chế độ công hữu thì không thay đổi.

Tư tưởng triết học của Platông có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của chủ nghĩa duy tâm ở phương Tây.

Nhà triết học vĩ đại nhất của Hy Lạp cổ đại là Arixtốt (384 - 322 TCN).

Arixtốt (Aristote) là con của một ngự y của vua Makêđônia, sinh ở Xtadia (Stagire) thuộc Makêđônia, là học trò của Platông và là thầy giáo của Alếchxăngđrơ đại đế. Sau khi Alếchxăngđrơ lên làm vua, năm 335 TCN ông đến Aten mở trường dạy học. Năm 323 TCN, Alếchxăngđrơ chết, ở Aten nổỉ lên phong trào chống Makêđônia, ông phảỉ chạy khỏi Aten đến đảo Ơbê rồi chết ở đó.

Arixtốt là một học giả uyên bác về nhiều lĩnh vực như triết học, toán học, vật lý học, sinh vật học, sinh lý học, y học, sử học... được gọi là bộ Bách khoa toàn thư của Hy Lạp.

Về triết học, ông chịu ảnh hưởng rất lớn của tư tưởng Đêmôcrít và Platông, nên tư tưởng triết học của ông có mặt gần với chủ nghĩa duy vật nhưng cuối cùng lại sa vào chủ nghĩa duy tâm. Ông là một nhà triết học nhị nguyên luận.

Một mặt, Arixtốt khẳng định vật chất tồn tại vĩnh viễn - sự vật cụ thể được tạo nên bởi bốn nguyên nhân là chất liệu, hình thức, động lực và mục đích. Do đó trong sự vật cụ thể, chất liệu và hình thức không thể tách rời nhau, không có hình thức thì không có chất liệu; không có chất liệu thì không có hình thức; bởi vậy tuyệt nhiên không có thế giới ý niệm ở ngoài vật chất thực tại. Đó là chỗ khác nhau căn bản của triết học Arixtốt với triết học duy tâm của Platông.

Nhưng mặt khác ông lại cho rằng “hình thức” là nhân tố tích cực năng động, và nêu ra một loại “hình thức không có chất liệu, đó là “lực thúc đẩy đầu tiên” của mọi vật, là lý tính (nous). Theo Arixtốt, lý tính là “tư duy của tư duy”, là “tư duy thuần túy”, là “thần tính” v.v... Như vậy về điểm này, Arixtốt đã sa vào chủ nghĩa duy tâm.

Về phương pháp luận, Arixtốt có công lao rất lớn trong việc sáng tạo ra môn lôgích học: dùng phương pháp quy nạp từ kinh nghiệm rút ra nguyên lý, từ nguyên lý dùng phương pháp diễn dịch (tam đoạn luận) để rút ra những kết luận cá biệt.

Về mỹ học, Arixtốt cho rằng tác phẩm nghệ thuật khi mô phỏng sự vật cá biệt nhằm mục đích làm cho đặc trưng của sự vật được biểu hiện ra.

Về giáo dục, Arixtốt cho rằng mục đích của giáo dục là phát triển lý tính, đồng thời chủ trương nhà nước nên mở trường dạy con em quý tộc để họ được phát triển hài hòa về thân thể, đạo đức và trí tuệ.

Ngoài ra, ông còn có nhiều đóng góp quan trọng về các mặt khác như đã miêu tả tới 100 loài động vật và chia động vật thành hai nhóm lớn là động vật có xương sống và động vật không có xương sống; phân loại đá và các khoáng vật; chia văn học thành thể loại sử thi, bi kịch, hài kịch, chia các thể chế chính trị thành quân chủ, độc tài, dân chủ v.v...

Arixtốt đã để lại cho đời sau trên 150 tác phẩm về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Tư tưởng của ông có ảnh hưởng rất lớn và lâu dài ở phương Tây.

Đến thời Hy Lạp hóa, thuộc về triết học duy tâm có hai trường phái quan trọng là phái Xtôixit (Stoicisme) và phái Xinit (Cynisme), có người dịch là phái Khuyến nho.

Người sáng lập phái Xtôixit là Dênông (Zénon), quê ở đảo Síp, sống vào thế kỷ IV TCN, đến dạy học ở Aten.[2]

Phái Xtôinit chia triết học làm ba phần: luân lý học, luận lý học và vật lý học, trong đó luân lý học chiếm địa vị trung tâm. Phái này cho rằng con người có hai phần là tâm hồn và lý tính. Chính nhờ có tâm hồn và lý tính mà con người có thể quan hệ với toàn vũ trụ. Tâm hồn là căn nguyên chủ động của sự tồn tại của loài người.

Cũng như con người, vũ trụ có hai nguồn gốc là bị động và chủ động, vật chất và lý tính. Lý tính của vũ trụ là thần, là ngọn lửa đầu tiên sáng tạo ra sinh mệnh. Thế giới do nó sinh ra sẽ bị nó hủy diệt rồi lại tạo ra trạng thái mới. Sự hủy diệt thế giới ấy gọi là tính tất nhiên của vũ trụ hoặc là “số phận”.

Phái Xtôixit đề xướng lý tưởng thế giới hoặc lý tưởng vũ trụ, cho rằng trước lý tưởng vũ trụ, mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi cá nhân đều bình đẳng,[3] do đó dân tự do và nô lệ, người Hy Lạp và ngoại kiều đều bình đẳng. Họ tin tưởng có thể thành lập một xã hội lý tưởng, một quốc gia vũ trụ. Chủ nghĩa thế giới là điểm tiến bộ của phái này.

Đến thời La Mã, thuộc về phái Xtôinit có ba nhà triết học là Xênéc, Epíchtêtút và Mácut Ôrêliút.

Xênéc (Sénèque, 4-65) là thầy học của bạo chúa Nêrôn.

Tư tưởng triết học chủ yếu của ông là vấn đề đạo đức. Ông chủ trương con người phải độc lập về nội tâm và yên tĩnh về tinh thần.

Về quan điểm chính trị, ông thừa nhận sự bình đẳng của mọi người kể cả nô lệ, công kích sự giàu có, đề cao sự vui sướng trong cảnh thanh bần. Nhưng bản thân ông vì Nêrôn ban cho nhiều tài sản nên không thể có thái độ dứt khoát về vấn đề này. Về sau Nêrôn bắt ông phải chết, ông đã cắt tĩnh mạch tự tử. Tác phẩm của ông gồm có: Bàn về nhân từ, Bàn về phẫn nộ, Bàn về sự yên tĩnh của tinh thần, Bàn về cuộc sống hạnh phúc.

Êpíchtêtút (Epictetus, thế kỷ I - đầu thế kỷ II) là học trò của Xênéc. Khi ông dạy học ở La Mã, bản thân hoàng đế Tơragian cũng đã nghe ông giảng. Đặc điểm triết học của ông là chủ nghĩa bi quan và luân lý cá nhân chủ nghĩa.

Máccút Ôrêliút (Marchus Orelius, 121 - 180) là hoàng đế La Mã (161 - 180) nên ông được gọi là “nhà triết học trên ngôi báu”.

Quan điểm triết học chủ yếu của ông là: con người là do thần xếp đặt nên con người phải làm tròn nghĩa vụ của mình dù phải chịu đựng mọi khó khăn và thử thách.

Phái triết học đáng chú ý thứ hai thời Hy Lạp hóa là phái Xinit (phái Khuyến nho).

Người được coi là kẻ sáng lập phái này là Ăngtixten (Antisthene, 444 - 365 TCN), học trò của Xôcrát. Phái Xinít nảy sinh trong giới trí thức nghèo khổ ở các thành thị lớn. Họ cũng như Xôcrát, không làm nghề nghiệp gì cả, sống rất thiếu thốn, coi sự nghèo khổ là một triết lý của cuộc sống. Do đó họ phản đối tài sản, gia đình, luật lệ, đạo đức, chế độ nô lệ... Khẩu hiệu của họ là trở về với tự nhiên, trở về với cuộc sống giản dị. Do vậy phái này được những người tự do bất mãn với chế độ đương thời và nô lệ nghe theo.

Tuy người sáng lập ra phái Xinít là Ăngtixten, nhưng đại biểu nổi tiếng nhất lại là Điôgien (Điogene, 413 - 327 TCN), học trò của Ăngtixten.

Điôgien sống hết sức khổ hạnh, để râu dài, ban ngày đi chân đất khắp phố, tay chống gậy, vai mang bị, ban đêm về ngủ trong một cái thùng rượu ở ngoại ô. Ông khinh thường tất cả mọi người, mọi thứ và tự coi sứ mệnh chân chính của mình là chi phối mọi người.

Tương truyền có lần ở Coranh, Alếchxăngđrơ đại đế gặp Điôgien đang ngồi sưởi nắng buổi sáng bên vệ đường. Alếchxăng hỏi: “Nhà triết học kia, ngươi có muốn yêu cầu ta gì không?” Điôgien lạnh lùng trả lời: “Có, xin ngài đừng che mặt trời của tôi”. Nghe nói, sau đó Alếchxăngđrơ về nói với những người thân cận rằng: “Nếu ta không phải là Alếchxăngđrơ thì ta muốn làm Điôgien”.

Do thái độ khinh miệt đối với mọi người, một hôm vào lúc giữa trưa, Điôgien cầm một chiếc đèn lồng đang thắp sáng đi giữa đường phố đông đúc của Aten nói: “Tôi đang đi tìm một con người”. Ý ông muốn nói thắp đuốc đi giữa ban ngày cũng khó tìm được một người chân chính.

6. Luật pháp

a) Luật pháp của Hy Lạp cổ đại.

Hy Lạp cổ đại bao gồm rất nhiều thành bang, trong đó thành bang tiêu biểu là Aten, vì vậy về mặt luật pháp tình hình ở Aten cũng tương đối tiêu biểu. Điều đáng chú ý là việc ban hành luật pháp ở Aten thường là kết quả của sự đấu tranh của quần chúng và thường gắn liền với những cải cách về chính trị, hiến pháp và luật Đracông.

Tương truyền rằng trong quá trình ra đời của nhà nước, Têdê (Thésée) đã thảo ra hiến pháp đầu tiên của Aten. Theo hiến pháp này, bộ máy nhà nước của Aten gồm có ba bộ phận chủ yếu là Hội đồng quý tộc, Quan chấp chính và Đại hội công dân.

Tuy ngay khi mới thành lập, nhà nước Aten đã là nhà nước dân chủ, nhưng tầng lớp quý tộc thị tộc vẫn là tầng lớp có thế lực nhất về chính trị và kinh tế. Trong bộ máy nhà nước, Hội đồng quý tộc có quyền về tư pháp, giám sát và quyết định mọi việc quan trọng. Về kinh tế, thông qua việc cho vay nợ lãi, tầng lớp quý tộc đã chiếm được nhiều ruộng đất của nông dân, đồng thời biến nhiều nông dân hoặc vợ con họ thành nô lệ vì nợ. Tình hình đó làm cho mâu thuẫn xã hội ở Aten ngày càng gay gắt. Đặc biệt do sự lũng đoạn về pháp luật của tầng lớp quý tộc, đến cuối thế kỷ VII TCN, quần chúng đã nổi dậy đấu tranh đòi tầng lớp quý tộc phải bãi bỏ lệ xét xử độc đoán dựa trên những tục lệ truyền miệng và phải ban hành luật thành văn.

Do sự đấu tranh của quần chúng, năm 621 TCN, tầng lớp quý tộc đã giao cho quan chấp chính đương thời là Đracông thảo ra một bộ luật gọi là luật Đracông. Nguyên văn của bộ luật này không được truyền lại, chỉ biết rằng đây là một bộ luật hết sức khắc nghiệt, ví dụ chỉ phạm tội ăn cắp vặt như lấy trộm rau quả cũng bị xử tử. (Vì vậy về sau từ ngữ “luật Đracông” thường được dùng để chỉ những bộ luật hoặc các pháp lệnh hà khắc). Sau khi soạn thảo, bộ luật này được khắc lên bia đá đặt ở những nơi công cộng để cho mọi người đều biết.

- Những pháp lệnh của Xôlông (Solon).

Việc ban bố luật Đracông không giải quyết được các mâu thuẫn trong xã hội vì đạo luật này không đề cập đến vấn đề cải cách xã hội. Do đó quần chúng lại tiếp tục đấu tranh, yêu cầu của quần chúng lúc bấy giờ là phải “làm thế nào để giải phóng con nợ khỏi những món nợ, chia lại ruộng đất, hơn nữa phải cải cách trật tự đang tồn tại”.

Trước tình hình đó, năm 594 TCN, tầng lớp quý tộc phải nhượng bộ bằng cách cử Xôlông làm quan chấp chính và giao cho ông nhiệm vụ cải tổ lại chế độ chính trị của Aten.

Thực hiện trọng trách của mình, ngay sau khi lên cầm quyền, Xôlông đã ban hành các pháp lệnh sau đây:

Pháp lệnh về ruộng đất: Trả lại cho nông dân những thửa ruộng trước đây đã làm vật thế chấp vì không trả được nợ cho quý tộc. Đồng thời quy định mức chiếm hữu ruộng đất tối đa.

Pháp lệnh về nô lệ vì nợ: Trả lại tự do cho nô lệ vì nợ; cấm chỉ việc lấy thân mình hoặc vợ con mình để trừ nợ, thậm chí cấm cả việc ký kết những văn tự vay nợ lấy bản thân người vay nợ làm vật bảo đảm.

Pháp lệnh về việc phân chia đẳng cấp và quyền lợi nghĩa vụ của mỗi đẳng cấp:

Căn cứ theo tài sản, công dân Aten được chia thành bốn đẳng cấp:

Đẳng cấp thứ nhất: gồm những người có thu hoạch hàng năm từ 500 mê đim lúa mì trở lên (1 mê đim = 52,5 lít).

Đẳng cấp thứ hai: 300 mê đim trở lên và có thể nuôi được một con ngựa chiến.

Đẳng cấp thứ ba: 200 mê đim trở lên (trung nông).

Đẳng cấp thứ tư: Dưới 200 mê đim (bần nông).

Về mặt quyền lợi và nghĩa vụ, đẳng cấp thứ nhất được giữ các chức vụ cao nhất như quan chấp chính, tham gia Hội đồng trưởng lão, được tham gia kỵ binh, đồng thời có nghĩa vụ phải cung cấp tiền để xây dựng hạm đội và tế lễ.

Đẳng cấp thứ hai được giữ các chức vụ (trừ quan chấp chính và thành viên Hội đồng trưởng lão) và cũng được tham gia kỵ binh.

Đẳng cấp thứ ba cũng được giữ một số chức vụ và được sung vào bộ binh trang bị bằng vũ khí nặng.

Đẳng cấp thứ tư được tham gia Đại hội nhân dân, có quyền bầu cử những người giữ các chức vụ công cộng nhưng không được ứng cử; về quân sự họ chỉ được sung vào bộ binh trang bị nhẹ.

Pháp lệnh về việc thành lập “Hội đồng 400 người” và Tòa án nhân dân: Aten vốn có 4 bộ lạc. Giờ đây mỗi bộ lạc được cử 100 đại biểu thuộc đẳng cấp thứ ba trở lên lập thành tổ chức này. Hội đồng 400 người tồn tại song song với Hội đồng trưởng lão nhưng chức năng của nó là giải quyết những công việc hàng ngày giữa các kỳ Đại hội nhân dân, còn Hội đồng trưởng lão thì quản lý chung mọi công việc và là Tòa án tối cao. Còn Tòa án nhân dân là một cơ quan mà dân nghèo cũng được tham gia bồi thẩm.

Ngoài ra còn có Pháp lệnh về việc thừa nhận quyền chuyển nhượng tài sản, về việc cấm xuất khẩu nông phẩm nhưng khuyến khích xuất khẩu rượu nho và dầu ôliu.

Như vậy những pháp lệnh của Xôlông đã hạn chế một phần quyền lợi của tầng lớp quý tộc, đem lại nhiều quyền lợi cho nông dân, chấm dứt vĩnh viễn việc biến nông dân thành nô lệ, thúc đẩy sự phát triển của công thương nghiệp và làm cho tính chất dân chủ của nhà nước Aten được hoàn thiện thêm một bước.

- Những pháp lệnh của Clixten (Clisthènes)

Cuối thế kỷ VI TCN, tầng lớp quý tộc lại giành được chính quyền, mọi quyền dân chủ bị xóa bỏ. Quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Clixten nổi dậy khởi nghĩa lật đổ chính quyền của quý tộc. Clixten lên làm quan chấp chính số 1, năm 508 TCN, ông ban hành một số pháp lệnh để hoàn thiện hơn nữa chế độ dân chủ của Aten.

Pháp lệnh chia lại khu vực hành chính: xóa bỏ 4 bộ lạc cũ, lập thành 10 bộ lạc mới. Nhưng đất đai của cái gọi là bộ lạc mới này không ở một chỗ mà ở rải rác khắp cả ba khu vực thành phố, nội địa và ven biển. Mục đích của pháp lệnh này nhằm triệt để xóa bỏ mọi tàn tích của chế độ thị tộc.

Pháp lệnh thành lập Hội đồng 500 người và Hội đồng 10 tướng lĩnh:

Hội đồng 500 người gồm đại biểu của 10 bộ lạc. Mỗi bộ lạc được cử 50 người. Tất cả công dân từ 20 tuổi trở lên đều có thể được bầu làm thành viên của Hội đồng.

Hội đồng 500 người là cơ quan hành chính cao nhất của nhà nước. Công việc hàng ngày do một bộ phận thường trực 50 đại biểu của cùng một bộ lạc phụ trách. Nhiệm kỳ của bộ phận thường trực là 36 ngày mỗi năm, tức là mỗi năm cả mười bộ lạc thay phiên nhau trực công việc của hội đồng.

Hội đồng 10 tướng lĩnh gồm 10 viên tướng do 10 bộ lạc cử ra. Hội đồng này lúc đầu chỉ nắm quyền chỉ huy quân sự. Người chỉ huy tối cao do 10 tướng lĩnh luân lưu đảm nhiệm. Về sau Hội đồng này nắm cả quyền hành chính cao nhất của nhà nước.

Pháp lệnh trục xuất qua việc bỏ phiếu bằng vỏ sò (ostracisme): Để ngăn ngừa mọi âm mưu đảo chính, hàng năm vào mùa xuân, một cuộc Đại hội công dân bất thường được triệu tập để trưng cầu ý kiến xem trong công dân Aten có ai là kẻ nguy hiểm đối với nền tự do của công dân không. Nếu Đại hội này có nêu tên người nào thì phải triệu tập đại hội thứ hai và tiến hành bỏ phiếu kín bằng vỏ sò. Nếu người nào bị 6.000 phiếu trở lên ghi tên mình thì 10 ngày sau bị trục xuất khỏi Aten trong 10 năm nhưng không bị tịch thu tài sản. Mãn hạn, người đó lại được trở về Aten và lại được khôi phục quyền công dân.

Pháp lệnh về việc mở rộng số công dân và dân tự do: cho một số kiều dân có công trong quá trình đấu tranh chống chế độ chuyên quyền được trở thành công dân Aten và giải phóng một số nô lệ thành kiều dân.

- Những pháp lệnh của Ephiantet (Ephialtès) và Piriclet (Périclès)

Đầu thế kỷ V TCN, ở Aten lại diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt và lâu dài giữa phái bảo thủ và phái dân chủ. Trong vòng 30 năm khi thì phái dân chủ thắng khi thì phái bảo thủ thắng. Đến năm 462 TCN, một lần nữa phái dân chủ lại được lên cầm quyền.

Thủ lĩnh của phái dân chủ là Ephiantet đã ban bố pháp lệnh thu hẹp quyền lực của Hội đồng trưởng lão. Từ quyền xét xử những vụ án tôn giáo, toàn bộ quyền hành của Hội đồng trưởng lão trước kia đều trao lại cho các cơ quan dân cử.

Quyền lập pháp thuộc về Đại hội nhân dân

Quyền tư pháp thuộc về Tòa án nhân dân

Quyền hành pháp thuộc về Hội đồng nhân dân

Những nhà lập pháp phải chịu trách nhiệm về hậu quả những dư luận mà họ đưa ra thông qua trước Đại hội nhân dân để đề phòng những chính sách phiêu lưu mạo hiểm của những kẻ đầu cơ chính trị mà trong một lúc quần chúng chưa có điều kiện suy nghĩ đã tán thành.

Năm 461 TCN, Ephiantet bị phái quý tộc ám sát. Périclès trở thành thủ lĩnh của phái dân chủ. Tiếp tục đường lối của Ephiantet, Pericles đã ban hành nhiều pháp lệnh để triệt để dân chủ hóa nền chính trị của đất nước:

- Pháp lệnh bổ nhiệm các chức vụ bằng cách bốc thăm: trừ chức Tướng quân, các chức vụ lớn nhỏ kể cả quan chấp chính đều được bổ nhiệm bằng cách bốc thăm. Như vậy tất cả mọi công dân không phân biệt thuộc tầng lớp nào đều có thể đảm nhiệm các chức vụ trong bộ máy nhà nước.

- Pháp lệnh quy định chức năng của các cơ quan nhà nước và quyền dân chủ của công dân: Cũng như trước kia bộ máy nhà nước của Aten gồm 4 cơ quan chủ yếu: Đại hội nhân dân, Hội đồng 500 người, Tòa án nhân dân và Hội đồng 10 tướng lĩnh.

Đại hội nhân dân là cơ quan quyền lực cao nhất trong nước, mỗi tháng họp từ 2 đến 4 lần. Trong các phiên họp ấy, đại hội thảo luận và quyết nghị những vấn đề lớn của nhà nước như chiến tranh và giảng hòa, bầu cử những người sung vào các cơ quan nhà nước, ban hành luật lệ, xét duyệt công việc của Tòa án, công nhận hoặc tước đoạt quyền công dân, cung cấp lương thực cho thành phố v.v...

Trong đại hội, mọi công dân đều có quyền đề nghị thông qua bất kỳ dự án nào hoặc bãi bỏ một pháp lệnh hiện hành nào đó. Nếu đề nghị được Đại hội nhân dân thông qua nhưng sau xét thấy trái với hiến pháp cơ bản của Aten thì người đề nghị bị truy cứu trách nhiệm, có thể bị phạt tiền, thậm chí bị xử tử.

Hội đồng 500 người gồm những người từ 30 tuổi trở lên do 10 “bộ lạc” bầu ra bằng cách bỏ phiếu (phiếu là một hòn đá nhỏ). Mỗi bộ lạc bầu một nhóm 50 người, các nhóm luân lưu làm việc trong một năm. Trong thời gian trực (khoảng 36 ngày), các nhóm này đảm nhiệm các công việc ngoại giao, thi hành quyết định của Đại hội nhân dân, dự thảo đề án công việc để đưa ra Đại hội nhân dân thảo luận, truy tố trước tòa án hoặc tống giam những người phạm tội, giám sát công việc của các nhân viên nhà nước.

Tòa án nhân dân là cơ quan tư pháp cao nhất của Aten. Cơ quan này gồm 6.000 người từ 30 tuổi trở lên được 10 bộ lạc bầu ra, mỗi bộ lạc 600 người, trong đó 500 người là ủy viên chính thức của Hội đồng thẩm phán. Trong khi xử án, vì không có công tố viên nên mọi ủy viên thẩm phán đều có quyền buộc tội và bị cáo cũng có quyền phát biểu ý kiến bào chữa.

Hội đồng 10 tướng lĩnh được đại hội công dân bầu hàng năm bằng cách giơ tay, sau đó cũng bằng cách cử công khai để phân công trách nhiệm cho các vị tướng lĩnh: Tư lệnh bộ binh, Tư lệnh hải quân, Tư lệnh bảo vệ Aten, Tư lệnh quân cảng Pirê,... tướng quân số một có quyền lớn hơn quan chấp chính.

Thực tế, đây là một tổ chức không những có quyền về mặt quân sự mà còn có quyền về mặt dân sự nữa, do vậy đây là cơ quan có quyền lực rất lớn trong bộ máy nhà nước ở Aten.

Chính sách lương bổng và phúc lợi: Để cho những công dân thuộc tầng lớp dưới có thể thoát ly sản xuất, đảm nhiệm các chức vụ và các nghĩa vụ đối với nhà nước, lần đầu tiên trong lịch sử, Pêriclét ban hành chế độ trả lương cho các đối tượng như sau:

Thành viên của Hội đồng 500 người, mỗi ngày 5 ô bôn

Quan chấp chính, mỗi ngày 4 ô bôn

Ủy viên bồi thẩm, mỗi ngày 2 ô bôn

Thủy thủ, binh lính, sĩ quan cũng được cấp lương:

Người chèo thuyền, mỗi ngày 2 đrát mơ

Sĩ quan được cấp nhiều gấp hai ba lần.

Đồng thời, Pêriclét còn thi hành một số chính sách phúc lợi như cấp tiền cho công dân để mua vé xem kịch (mỗi lần 2 ô bôn, bằng sinh hoạt phí một ngày của một người) và cấp phát lương thực cho người nghèo.

Như vậy, từ Xôlông đến Pêriclét, tính chất dân chủ của luật pháp Aten ngày càng triệt để. Tuy vậy, hạn chế lớn nhất của nền dân chủ Aten là chỉ có những người có quyền công dân mới được hưởng quyền dân chủ, nhưng số người có quyền công dân rất ít, chỉ chiếm khoảng 20% tổng số cư dân. Còn phụ nữ, những người tự do, nhưng mẹ của họ không phải là người Aten, kiều dân và nô lệ đều không được hưởng quyền công dân.

b) Luật pháp của La Mã cổ đại

- Luật 12 bảng

Khoảng năm 514 TCN, nhà nước cộng hòa của La Mã đã được thành lập, lúc đầu bộ máy nhà nước ở La Mã gồm có Viện Nguyên lão, Đại hội nhân dân và quan chấp chính (2 người). Tuy chế độ cộng hòa đã được thiết lập nhưng về quyền lợi kinh tế, chính trị và địa vị xã hội, bình dân không được bình đẳng với quý tộc. Vì vậy bình dân đã đấu tranh lâu dài với quý tộc để giải quyết các vấn đề đó. Những thắng lợi đầu tiên của bình dân là giai cấp quý tộc phải đồng ý cho bình dân được cử quan Bảo dân để bênh vực quyền lợi cho bình dân, được chia ruộng đất, được tổ chức Đại hội bình dân. Đặc biệt, về mặt pháp luật, quý tộc phải đồng ý ban hành luật thành văn.

Năm 454 TCN, La Mã đã cử 3 người sang Hy Lạp để tìm hiểu luật pháp của Hy Lạp, nhất là của Xôlông. Năm 452 TCN, khi 3 người này trở về, La Mã thành lập ủy ban 10 người để soạn luật.

Sau một năm làm việc, ủy ban này soạn được một bộ luật, khắc trên 10 bảng đồng đặt ở quảng trường để mọi người đều biết sau đó mới giao cho hội nghị Bách nhân đội,[4] tổ chức quan trọng nhất trong Đại hội nhân dân phê chuẩn.

Do nội dung của 10 bảng chưa tập hợp hết mọi luật lệ trước đó của La Mã nên năm 450 TCN lại cử một ủy ban 10 người mới trong đó có 3 ủy viên là bình dân. Ủy ban này soạn thêm hai bảng nữa, vì vậy bộ luật này gọi là luật 12 bảng. Văn bản bộ luật này tuy đã thất truyền, nhưng có thể khôi phục được nhờ những đoạn trích dẫn của các học giả La Mã ở thời kỳ sau đó.

Nội dung của bộ luật đề cập đến nhiều mặt trong đời sống xã hội như thể lệ tố tụng xét xử, việc kế thừa tài sản, việc cho vay nợ, quan hệ gia đình, địa vị phụ nữ v.v...

Tinh thần chủ yếu của bộ luật là bảo vệ tính mạng, tài sản và danh dự cho mọi người. “Những điều quy định của 12 bảng cấm sát hại một cách phi pháp một người, dù người đó là thế nào đi nữa” (điều 6 bảng IX). Nhưng “nếu đi ăn trộm ban đêm mà bị giết tại chỗ thì việc giết kẻ đó được coi là hợp pháp” (điều 12, bảng VIII). Các tội “người lớn mà đi phá hoại hay ban đêm cắt trộm hoa lợi ở trên ruộng làm bằng cày”, “đốt nhà hay đốt đống rơm ở gần nhà”, “ăn trộm bị bắt quả tang” đều bị xử tử. Tội tử hình cũng “áp dụng trong trường hợp một người nào đó đặt ra bài hát có nội dung vu khống hay lăng nhục người khác” (bảng VIII). Thẩm phán và những người làm chứng nếu ăn hối lộ hoặc làm chứng giả mạo cũng bị xử tử (điều 3 bảng IX và điều 23 bảng VIII).

Bộ luật dành toàn bộ bảng III để bênh vực quyền lợi của chủ nợ. Nếu người mắc nợ không trả được nợ thì bị chủ nợ đưa ra tòa. Nếu người mắc nợ vẫn không thực hiện được sự phán xử của Tòa án và không có người bảo lãnh thì chủ nợ có quyền bắt người vay nợ về nhà mình giam cầm trong 60 ngày. Trong thời gian ấy, người vay nợ bị đưa ra chợ 3 lần để gặp quan hành chính và bắt người vay nợ phải trả nợ. Sau lần thứ ba, người mắc nợ có thể bị xử tử hoặc bán ra nước ngoài. Trong phiên chợ thứ ba, chủ nợ có quyền tùng xẻo người mắc nợ. Nếu xẻo nhiều hay ít chủ nợ không phải chịu trách nhiệm gì về việc ấy (đó là điều 2, 3, 4, 5, 6 bảng III).

Về quan hệ gia đình, các điều luật thể hiện rõ tính chất của chế độ gia trưởng. Người cha có quyền bán con làm nô lệ 3 lần và chỉ sau lần thứ 3, người con mới thoát khỏi sự lệ thuộc vào người cha. Người chồng có quyền ra lệnh cho vợ cầm lấy những thứ của riêng của mình rồi đuổi vợ đi ra khỏi nhà (điều 2, 3 bảng IV).

Luật 12 bảng cũng có một điều khoản quan trọng đề cập đến lĩnh vực chính trị. Đó là “Luật 12 bảng ra lệnh xử tử hình kẻ nào xúi giục quân thù của nhân dân La Mã tấn công nhà nước La Mã hay kẻ nào nộp một công dân La Mã cho kẻ thù.” (điều 5 bảng IX).

Tóm lại, nội dung của luật 12 bảng chỉ mới đề cập đến một số mặt trong đời sống xã hội, nhiều mức hình phạt quy định quá khắc nghiệt, nhưng nó có tác dụng hạn chế sự xét xử độc đoán của quý tộc, đồng thời đặt cơ sở cho sự phát triển của luật pháp ở La Mã cổ đại.

- Những pháp lệnh khác

Do luật 12 bảng có nhiều vấn đề chưa đề cập tới, nhiều yêu cầu của bình dân chưa được giải quyết, trái lại trong bảng XI lại ghi rõ “cấm bình dân kết hôn với quý tộc”, nên cuộc đấu tranh của bình dân vẫn tiếp tục. Vì vậy từ giữa thế kỷ V TCN về sau, nhà nước La Mã phải ban hành nhiều pháp lệnh bổ sung.

Năm 445 TCN, ban bố luật Canulêiut cho phép bình dân được kết hôn với quý tộc. Tiếp đó bình dân được bầu làm Tư lệnh quân đoàn có quyền lực ngang với quan Chấp chính.

Năm 367 TCN, lại thông qua 3 pháp lệnh quan trọng:

1. Những món nợ mà bình dân vay, nếu đã trả lãi, phải được coi như đã trả gốc, số còn thiếu sẽ trả hết trong 3 năm.

2. Không ai được chiếm quá 500 jujera đất công tức là bằng khoảng 125 ha.

3. Bỏ chức Tư lệnh quân đoàn, khôi phục chế độ bầu quan Chấp chính hàng năm, trong 2 quan Chấp chính phải có 1 người là bình dân.

Năm 326 TCN, thông qua pháp lệnh thủ tiêu chế độ nô lệ đối với công dân La Mã.

Năm 287 TCN, ban hành pháp lệnh quy định quyết nghị của Đại hội bình dân, có hiệu lực như pháp luật đối với mọi công dân La Mã.

Thời cộng hòa, cơ quan lập pháp là Đại hội nhân dân, đồng thời Viện Nguyên lão cũng có vai trò rất quan trọng. Đến thời kỳ quân chủ, Đại hội nhân dân ngừng hoạt động nên quyết định của Viện Nguyên Lão và mệnh lệnh của nguyên thủ là luật pháp chủ yếu của La Mã. Nhưng đến cuối thế kỷ III, quyền lập pháp của Viện Nguyên lão cũng không còn nữa, nên mệnh lệnh của nguyên thủ tức là pháp luật.

Mệnh lệnh của nguyên thủ gồm có sắc lệnh, chỉ thị, dụ, quyết định... Sắc lệnh là mệnh lệnh ban bố đối với cư dân toàn đế quốc. Chỉ thị là mệnh lệnh đối với quan lại. Dụ là mệnh lệnh về một vấn đề cá biệt. Quyết định là ý kiến về một vấn đề gây nhiều tranh luận, nhất là về các vụ án.

Về mặt luật học, những người giải thích pháp luật đầu tiên là các thầy cúng. Nhưng đến cuối thế kỷ IV TCN, bắt đầu có những người thế tục chú ý giải thích pháp luật. Người đầu tiên được nhắc đến là Flaviut, một quan chức của La Mã. Ông công bố trước công chúng những ngày mở phiên tòa và những ngày không mở phiên tòa, đồng thời hướng dẫn cho mọi người biết cách thức và thủ tục kiện cáo.

Trong các thế kỷ tiếp theo, ở La Mã có khá nhiều nhà luật học, trong số đó, Giulianút và Gaiút sống vào thế kỷ II là những người tương đối tiêu biểu. Giulianút đã vâng lệnh hoàng đế Ađrianút tập hợp các sắc lệnh trước đó soạn thành một tập gọi là “Các sắc lệnh chung”. Còn Gaiút thì viết một quyển sách giáo khoa về luật pháp và trình tự kiện cáo gọi là “Bậc thang luật học”.

Luật La Mã đến thời trung đại và cận đại có ảnh hưởng rất lớn ở châu Âu.

7. Sự ra đời và phát triển của đạo Kitô ở La Mã cổ đại

Cho đến đầu công nguyên, người La Mã vẫn tin đa thần. Tuy nhiên, từ năm 63 TCN, La Mã thôn tính vùng Palextin, nơi mà từ thế kỷ VI TCN, cư dân đã theo một tôn giáo nhất thần gọi là đạo Do thái. Người truyền bá tôn giáo này là Môidơ. Họ thờ chúa Giêhôva và tin rằng người Do thái là dân chọn lọc của chúa, do vậy một tương lai tươi đẹp sẽ đến với họ. Kinh thánh của đạo Do thái gồm có 3 phần là Luật pháp, Tiên tri và ghi chép Thánh tích. Về sau, đạo Kitô kế thừa kinh thánh của đạo Do thái và gọi ba bộ phận ấy là kinh Cựu ước.

Sau khi bị La Mã thống trị, đời sống của nhân dân ở vùng phía Đông Địa Trung Hải càng cực khổ, trong khi đó tư tưởng của phái triết học khắc kỷ (Stoicism) với các nội dung như thần thống trị thế giới, sống nhẫn nhục chịu đựng là đức tính tốt đẹp, mọi người đều bình đẳng, đang được lưu hành ở La Mã.

Chính giáo lý của đạo Do thái, tư tưởng của phái khắc kỷ và đời sống cực khổ không có lối thoát của nhân dân bị áp bức là những yếu tố dẫn đến sự ra đời của đạo Kitô.

Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Kitô là chúa Giêxu Crit (Jesus Christ) con của chúa Trời đầu thai vào người con gái đồng trinh Maria và được sinh ra ở Bétlêem vùng Palextin (lúc bấy giờ nằm trong lãnh thổ của đế quốc La Mã) vào khoảng năm 5 hoặc 4 TCN. Đến năm 30 tuổi, chúa Giêxu vừa truyền đạo, vừa chữa bệnh, có thể làm cho người chết sống lại.

Trong khi truyền đạo, chúa Giêxu khuyên mọi người phải nhẫn nhục chịu đựng mọi đau khổ ở đời, sau khi chết sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh viễn ở thiên đường. Đồng thời chúa Giêxu lên án sự giàu có, cho rằng người giàu muốn lên nước chúa cũng khó như con lạc đà muốn chui qua lỗ kim.

Sau 3 năm truyền đạo, các giáo trưởng đạo Do thái cho chúa Giêxu là kẻ chống lại tôn giáo truyền thống của mình, chính quyền La Mã thì cho ông là kẻ tuyên truyền tư tưởng chống lại La Mã. Nhân đó, Giuđa (Judas), một trong 12 tông đồ của chúa đã bán chúa để lấy 12 đồng bạc trắng. Chúa Giêxu bị đưa đến trước Đại giáo trưởng Do thái Caiphơ rồi đưa đến tòa án La Mã ở Do thái do Pôngxơ Pilát (Ponce Pilate) làm đại diện. Tòa án La Mã xử tử chúa Giêxu bằng cách đóng đinh lên thập giá ở núi Canve (calvaire) ở gần Giêrudalem. Sau khi chôn được 3 ngày, chúa Giêxu sống lại, tiếp tục thuyết giáo, 40 ngày sau, chúa bay lên trời. Sau đó các tông đồ của chúa tỏa đi truyền giáo khắp đế quốc La Mã.

Kế thừa nhiều quan niệm của đạo Do thái, đạo Kitô cho rằng chúa trời sáng tạo ra tất cả kể cả loài người. Song họ lại đưa ra thuyết tam vị nhất thể tức là chúa Trời (chúa cha) chúa Giêxu (chúa con) và Thánh thần tuy là ba nhưng vốn là một. Đạo Kitô cũng có quan niệm về thiên đường, địa ngục, linh hồn bất tử, thiên thần, ma quỷ.

Kinh thánh của đạo Kitô gồm 2 phần là Cựu ước và Tân ước. Cựu ước là kinh thánh của đạo Do thái mà đạo Kitô tiếp nhận, còn Tân ước là kinh thánh thực sự của đạo Kitô. Kinh Tân ước vốn viết bằng tiếng Hy Lạp, gồm có 4 phần là Phúc âm, Hoạt động của các sứ đồ, Thư tín và Khải thi lục.

Đạo Kitô có 7 nghi lễ quan trọng thường gọi là 7 bí tích. Đó là:

- Rửa tội: nghi thức vào đạo.

- Thêm sức: củng cố lòng tin.

- Thánh thể: ăn bánh thánh.

- Giải tội: xung tội để được xá tội.

- Xức dầu: xoa nước thánh vào người sắp chết.

- Truyền chức: phong chức cho giáo sĩ.

- Hôn phối.

Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ của đạo Kitô bao gồm nô lệ, nô lệ được giải phóng, dân nghèo thành thị. Họ lập thành những công xã nhỏ. Đó không những là những đoàn thể của các giáo hữu mà còn là những tổ chức giúp đỡ lẫn nhau và làm việc từ thiện.

Các công xã đều có quỹ chung để tiêu dùng và tổ chức những bữa tiệc chung. Mọi thành viên của công xã đều bình đẳng. Quyền lãnh đạo các công xã Kitô giáo trong thời kỳ này thuộc về các nhà truyền giáo lưu động, các sứ đồ. Họ đều là đại biểu của quần chúng nghèo khổ.

Do thái độ chống lại chính quyền La Mã, sau khi ra đời, đạo Kitô bị chính quyền La Mã thẳng tay đàn áp mà vụ tàn sát tín đồ Kitô giáo khốc liệt đầu tiên diễn ra năm 64 dưới thời hoàng đế Nêrôn.

Tuy bị đàn áp nhưng đạo Kitô vẫn tiếp tục phát triển. Đến thế kỷ II, các công xã Kitô giáo đã liên hiệp lại và tổ chức thành giáo hội. Từ đây giáo hội Kitô cũng có nhiều thay đổi. Trong hàng ngũ tín đồ không phải chỉ có người nghèo mà càng ngày càng có nhiều người khá giả và giàu sang cũng theo đạo. Quyền lãnh đạo giáo hội cũng chuyển dần sang tay những người thuộc tầng lớp trên. Những hình thức nhằm tăng thêm tình hữu ái trước kia như ăn tiệc chung, phân chia tài sản, v.v... chấm dứt và được thay bằng việc bố thí từ thiện. Đồng thời, đạo Kitô còn nêu ra nguyên tắc “vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc thì trả cho chúa Trời”, tức là tôn giáo không dính dáng đến chính trị.

Do những thay đổi ấy, đến năm 311, các hoàng đế La Mã đã ra lệnh ngừng sát hại tín đồ đạo Kitô. Năm 313 hai hoàng đế Cônxtantinút và Lixiniút ban hành sắc lệnh Milanô, chính thức công nhận địa vị hợp pháp của đạo Kitô. Năm 325 Cônxtantinút triệu tập cuộc đại hội các giáo chủ đạo Kitô ở Nixê (Tiểu Á) để xác định giáo lý, chấn chỉnh tổ chức giáo hội. Năm 337, trước lúc chết, Cônxtantinút đã chịu phép rửa tội. Như vậy, ông là hoàng đế La Mã đầu tiên theo Kitô giáo. Đến cuối thế kỷ IV đạo Kitô chính thức được thừa nhận là quốc giáo của đế quốc La Mã.

Sau đó, Gierôm (Jerome 347 - 420) đã dịch kinh Cựu ước và kinh Tân ước từ tiếng Hy Lạp ra tiếng Latinh. Tác phẩm này được coi là bộ kinh thánh chính thức của đạo Kitô.

Tóm lại, nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại vô cùng xán lạn. Những thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau trong văn minh Hy-La, là cơ sở đầu tiên và cũng là mẫu mực của nền văn minh phương Tây sau này. Vì vậy Ăngghen nói: “Không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì cũng không có châu Âu hiện đại được.”[5]

Chú thích

  1. Chiến tranh Pêlôpônedơ kéo dài 27 năm, từ 431 - 404 TCN.
  2. Lớp học của Dênông mở ở một hành lang. Hành lang tiếng Hy Lạp là stoa poikile. Vì vậy phái triết học của Dênông gọi là Stoicisne, có thể dịch là phái Hành lang (doctrine du Portique).
  3. Từ thế kỷ I, một người thuộc phái Xtôixít là Giuđacút (Judacus) đã nói: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng”. Đến thế kỷ XVIII, Ruxô (Rousseou) cũng nói một câu tương tự.
  4. Cứ 100 chiến sĩ lập thành một đơn vị gọi là Bách nhân đội (Centurie). Toàn La Mã có 193 Bách nhân đội. Tổ chức này thành lập khi nhà nước La Mã ra đời vào giữa thế kỷ VI TCN.
  5. F. Ăngghen: Chống Đuyrinh, NXB Sự thật, Hà Nội, 1960, trang 373.

Tác phẩm, tác giả, nguồn

  • Tác phẩm: Lịch sử văn minh thế giới
  • Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo
  • Nhà xuất bản Giáo dục
  • Ebook: TVE-4U.org

Video liên quan

Chủ đề